TIẾNG NÓI VÔ THINH1) Iddhi: Tiếng Pali Iddhi đồng nghĩa với tiếng Sanscrit Siddhis, có nghĩa là những quan năng linh khí, những quyền lực phi thường của con người. Có hai loại Siddhis, một nhóm gồm có những tinh lực linh khí thấp thỏi, thô sơ; nhóm kia buộc phải có sự huấn luyện cao đẳng về quyền năng thần bí. Krishna nói trong kinh Shrimad Bhãgavad: “ Kẻ nào chuyên tâm thực hành Yoga, chế ngự được giác quan và tập trung tinh thần nơi ta, kẻ đó là một nhà Yogi mà tất cả những Sddhis đều sẵn sàng để cho người dùng.”
2) Nada: “Tiếng câm” hay là “Tiếng Vô Thinh”, theo tự nghĩa có lẽ phải hiểu là “tiếng nói theo nghĩa thần bí” bởi chữ Sanskrit Nada đồng nghĩa với chữ Senzar.
3) Dhãranã: là tập trung trọn vẹn cái trí vào một đối tượng nội tâm, đồng thời hoàn toàn không chú ý đến những gì thuộc về vũ trụ bên ngoài hay cảnh giới của giác quan.
4) Đại Sư là danh từ các đệ tử lanco hoặc chela dùng để gọi “Cái Ta Cao Siêu” của chúng ta. Danh từ này đồng nghĩa với chữ Avalokitesvara hay là chữ Adibuddha của Phật giáo bí truyền, Atma, cái Ta cao siêu của người Bà la môn và Christos của Cao đẳng Thần học hồi xưa.
5) Chữ Hồn ở đây dùng để chỉ chân nhân của con người (Ego human) hay Manas, trong phép phân sắp theo số 7 của chúng ta gọi là “Hồn Người” để phân biệt với thần hồn và hồn thú.
6) Nohà Màyà “Ðại ảo mộng” tức là Vũ Trụ khách quan.
7) Sakkayaditthi “lầm lạc” cho rằng phàm nhân là ta.
8) Attavada: tà thuyết tin có hồn, hay nói cho đúng là tin có sự chia rẽ giữa hồn đó là tiểu ngã với Ðại ngã Duy nhất, phổ biến vô cùng tận.
9) Cattvajnàni là kẻ biết hay là kẻ phân biệt được những nguyên lý trong thiên nhiên và trong con người, và Atmajnàni là kẻ biết được Atman hay là Ðại Ngã phổ biến duy nhất.
10) Kala Hamsa “chim” hay là hạc. Trong kinh Nàdabindu Upanishad (Rig Veda) do Hội Thông Thiên Học ở Kumbakonam phiên dịch có nói “Vần A được xem như cánh bên phải của chim, U như cánh bên trái, M như cái đuôi và Ardhamàtrà (nửa thước) như cái đầu”.
11) Người phương Ðông hiểu chữ đời đời khác hơn người phương Tây. Thường có nghĩa là 100 năm hay là tuổi của Brahma, kỳ gian của một Kalpa hay là một chu kỳ lâu 4.320.000.000 năm.
12) Theo kinh Nàdabindu đã kể trên đây: “Ðối với nhà Yogi cưỡi hạc (tham thiền về tiếng AUM) thế lực của nhân quả hay là muôn ngàn tội lỗi không động đến được”.
13) Hãy bỏ đời sống của phàm nhơn, của xác thịt, nếu con muốn sống bằng tinh thần.
14) Ba trạng thái của tâm thức là: Jàgrat, trạng thái Thức Tỉnh; Svapna, trạng thái chiêm bao và Sushupti, trạng thái ngủ mê. Ba trạng thái Yogi đó dắt đến trạng thái thứ tư hay là:
15) Turiya, bên kia trạng thái không chiêm bao, trạng thái cao hơn tất cả, trạng thái siêu việt của tâm thức thần bí.
16) Vài nhà Thần Bí phương Đông để bảy cảnh thực tại, bảy Lokas hay là cõi tinh thần trong mình của Kala Hamsa, con hạc ở ngoài vòng Thời gian và Không gian nó biến thành con hạc ở trong thời gian khi nó trở nên Brahma thay vì Brahma (trung lập).
17) Cõi trần, nơi đó những hiện tượng chỉ tiếp xúc với ngũ quan và ý thức của óc xác thịt thôi.
18) Cõi trung giới, cõi linh khí nơi có những trí giác ở ngoài tầm tri giác của ngũ quan và có những cảnh tượng lừa dối, cảnh giới của đồng cốt. Eliphias Levi gọi là “Xà Tinh”. Không có một cái hoa nào hái nơi miền đó đem xuống cõi trần mà không có một con rắn quấn chung quanh nhánh. Ðó là cõi Ðại Ảo Mộng.
19) Nơi miền này Tâm Thức thần bí mở rộng và không còn có sự nguy hiểm nào cho kẻ đã đến được nơi đây.
20) Bực Ðắc Pháp trao truyền mối Ðạo và dìu dắt đệ tử cho đến khi sanh ra trong cõi tinh thần hay là sanh lần thứ nhì được gọi là cha, Thầy hay là Guru.
21) Adjnàna là dốt nát hay là vô minh, trái với trí huệ jnàna.
22) Trong các tôn giáo công truyền thì Màra là con quỉ, nhưng trong triết học bí truyền thì đó là nhân cách hóa sự quyến rủ của tánh xấu nơi con người và dịch đúng theo tự nghĩa là “cái giết chết” Linh Hồn. Người ta tượng hình nó như một vị Vua (Ma Vương) đầu đội mũ triều thiên có một hột ngọc chiếu sáng cho đến làm mờ mắt những kẻ nhìn nó; sự chiếu sáng này cố nhiên là ám chỉ sự mê hoặc của tánh xấu.
23) Phòng trong trái tim, Bắc phạn gọi là Brahmapura “Lửa Mầu” là Kundalini.
24) “Lửa Mầu” và “Mẹ Thế Giới” là tên của Kundakini, một trong những thần lực của nhà Yogi. Ðó là Bồ Ðề về mặt tích cực thay vì tiêu cực (thường người ta chỉ biết mặt tiêu cực hay là thụ động của Bồ Ðề, khi nó là cái thể để chứa Tinh Thần Tối Cao (Atma). Ðây là một thứ điện tinh thần, một năng lực sáng tạo, một khi đánh thức rồi thì nó có sức tiêu diệt hoặc sáng tạo.
25) Kechara, kẻ du ngoạn hoặc “lên cõi trời”. Theo trong quyển Jnaneshvari, chúa tể của các kinh thần bí, Adhyaya thứ 6 thân thể của nhà Yogi giống như làm bằng gió, như “một vừng mây có mọc ra tay chân”. Sau đó “người (yogi) thấy được những vật xa tận bên kia biển và sao; người nghe và hiểu được tiếng của Chư Thiên và biết được nhữïng gì xảy ra trong trí của con kiến.
26) Giống như đờn Tì bà.
27) Sáu nguyên tố; tức là khi phàm nhân đã tiêu diệt và phần thấp của cá tính đã lẫn mất trong nguyên tố thứ bảy hay là Tinh Thần.
28) Vị đệ tử hợp làm một với Brahma hay là Atman.
29) Dục thể do nguyên lý Kamic tạo nên gọi là Kama rùpa hay là thể ham muốn.
30) Manasa rupa. Cái thứ nhất chỉ cái vía hay tư ngã, cái thứ nhì chỉ cá tính hay là Chơn Nhơn luân hồi mà tâm thức của nó ở cõi trần hay là Hạ Trí cần phải được đình chỉ lại.
31) Kundalini được gọi là “quyền lực uốn khúc như con rắn” hay là tròn như chiếc nhẫn vì nó tiến theo hình xoắn ốc trong thân thể của nhà Yogi đã phát triển được quyền lực đó nơi người. Nó là một quyền lực có tính chất như điện, như lửa huyền bí hay là Foha đại nguyên lực tiềm tàng trong mọi chất hữu cơ và vô cơ.
32) Con đường này được nói đến trong mọi tác phẩm Thần Bí. Như Krishna nói trong kinh Jnàneshvari: “Khi được nhìn thấy con Ðường này... dù người ta bắt đầu từ phương Ðông hay phương Tây, không thay đổi, hỡi người cầm cung tên là người đang đi trên đường này. Trong con đường này người ta muốn đi đến chỗ nào thì chính người ta trở thành chỗ đó”. “Ngươi là Ðường đi” là câu nói với vị Sư phụ và với vị Ðệ tử sau kỳ điểm đạo. “Ta là lối đi và Ðường Ðạo”, một Đức Thầy nói thế.
33) Adeptship: quả vị Chơn Tiên, nở bông Bồ Tát.
34) Tanhã “ý muốn sống” ham sống, sợ chết, cái mãnh lực này phát sinh luân hồi sanh, tử.
35) Những tiếng huyền bí, âm điệu du dương mà nhà tu luyện nghe được lúc ban đầu chu tuần tham thiền, nhà Yogi gọi là Anahata Shabdã (Anahata là luân xa thứ tư).
36) Ðiều này có nghĩa là thời kỳ thứ sáu trong đường phát triển, huyền bí học gọi là Dhãranã, mọi giác quan có tính cách như một quan năng riêng biệt đều phải bị giết chết (hay là bị làm cho kiệt quệ ở cảnh giới này) bằng cách nhập nó vào giác quan thứ bảy, giác quan siêu đẳng.
37) Xem giải thích số 3.
38) Mỗi thời kỳ phát triển trong Raja Yoga được tượng trưng bằng một hình kỷ hà học. Ðây là hình tam giác thiêng liêng và ở trước Dhãranã D là dấu hiệu của những bậc đệ tử cao cấp, còn hình tam giác kiểu khác nữa là dấu hiệu của những bậc đắc quả vị cao. Ðó là chữ “Ta” mà Ðức Phật đã nói và dùng để tượng trưng cho nhục thân của Ðấng Như Lai khi Ngài đã thoát ly ba phương pháp Bát Nhã. Một khi đã vượt qua thời kỳ hạ đẳng, vị đệ tử không còn nhìn thấy D nữa mà chỉ thấy – sự tóm tắt của – cái Bảy nguyên vẹn. Hình thiệt của cái này không thể cho biết ở đây vì chắc chắn là nó sẽ bị những tay láo dối vớ lấy và dùng vào những việc phạm thượng, bất lương.
39) Ngôi sao chiếu sáng trên đầu là “Ngôi sao điểm đạo”. Dấu hiệu giai cấp của tín đồ phái Shiva, tổ của tất cả các nhà Yogi là một điểm đen tròn, hiện thời có lẽ là để tượng trưng mặt Trời, nhưng ngày xưa là tượng trưng của ngôi sao điểm đạo trong Huyền Bí Học.
40) Căn bản (Upãdhi) của ngọn lửa mà nếu nhà tu luyện còn tại thế thì không khi nào đạt đến.
41) Dhyàna là thời kỳ áp chót ở địa cầu này, trừ phi con người trở nên một vị Mahatma hoàn toàn. Như người ta đã có nói trong trạng thái này nhà Raja Yogi còn có ý thức tinh thần về tự tánh và về động tác của những nguyên tố cao siêu của người. Nếu tiến đến một bước nữa thì người sẽ vượt lên cõi thứ bảy (hay là thứ tư của mấy học phái khác). Mấy phái này sau giai đoạn Pratyãhãra – sự luyện tập để kiểm soát cái trí và tư tưởng – kể chung ba giai đoạn Dhãranã, Dhyãna và Samãdhi làm một gọi là Samyama.
42) Samãdhi là trạng thái trong đó nhà tu luyện không còn ý thức đến mọi cá nhân gồm cả chính nhà tu luyện nữa. Họ trở nên – Tất cả.
43) Bốn thể thức chân lý theo Phật giáo phương Bắc là Ku, “đau khổ và khốn cùng”; Tu, “mọi sự cám dỗ”; Mu, “sự tiêu diệt những cám dỗ” và Tau, “con đường”. Năm “mối chướng ngại” là nhận thức sự khốn khổ, chân lý về sự yếu tính của con người, những sự kiêng cữ khó nhọc và sự cần thiết tuyệt đối phải lìa bỏ tất cả những trói buộc của tình dục và cho đến những dục vọng nữa. Chót hết là “Con đường Giải Thoát”.
44) Tại nơi cửa “Đại Hội” Ma Vương dùng sức sáng chói của hột ngọc để mê hoặc thí sinh.
45) Ðây là con đường thứ tư trong năm con đường luân hồi dẫn dắt và xua đẩy tất cả loài người vào những trạng huống khổ và vui không dứt, những “con đường” đó chỉ là những chi phần của con đường duy nhất, con đường Nghiệp Quả.