Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Truyện Dài >> Người nhạc sĩ mù

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 5911 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Người nhạc sĩ mù
V.Korolenko

Chương 1

I
Đêm khuya. Trong một gia đình giàu có vùng Tây nam, một  đứa bé ra chào đời. Bà mẹ, một thiếu phụ còn trẻ, nằm thiêm thiếp  trên giường, nhưng khi tiếng oa oa đầu tiên của đứa trẻ khe khẽ và não nuột vang lên trong buồng, thì bà mẹ, mắt vẫn nhắm  nghiền, cũng bắt đầu quằn quại. Đôi môi thiếu phụ mấp máy một  điều gì, khuôn mặt tái nhợt hiền hậu, gần như còn ngây thơ, chợt  nhăn nhó đau đớn, nóng ruột, giống như đứa trẻ vốn được nuông  chiều lần đầu tiên gặp việc lo buồn.
Bà đỡ ghé tai sát môi thiếu phụ đang lắp bắp. Thiếu phụ thều thào hỏi:
- Cháu nó làm sao thế?... Sao thế? 
Bà đỡ không hiểu câu hỏi. Đứa trẻ lại khóc thét lên. Khuôn  mặt sản phụ ánh lên một nỗi đau đớn xót xa. Từ đôi mắt đang  nhắm, một giọt nước mắt lớn trào ra. Đôi môi thiếu phụ vẫn thầm  thì rất khẽ như ban nãy:
- Sao thế? Sao thế?
Lần này bà đỡ đã hiểu ra, bình tĩnh đáp: 
- Bà hỏi tại sao cháu nó khóc chứ gì? Bà cứ yêntâm, đứa bé nào lọt lòng ra cũng vậy.
Nhưng người mẹ không sao yên tâm được. Cứ mỗi lần đứa bé khóc, bà lại rùng mình, luôn miệng hỏi, giọng cau có, nóng ruột:
- Sao mà cháu nó khóc... ngằn ngặt làm vậy?  Bà đỡ nghe không thấy có gì lạ trong tiếng khóc của đứa bé.  Bà cho là thiếu phụ nói mê hoặc đang mê sảng, bà mặc kệ chỉ lúi  húi chăm sóc cho đứa nhỏ.
Thiếu phụ nín bặt. Chốc chốc nỗi đau xót không thoát ra  ngoài được bằng cử chỉ hoặc lời nói, lại làm nước mắt thiếu phụ ứa ra. Những giọt nước mắt to lớn lọt qua đôi hàng mi đen láy, dầy  dặn, khẽ lăn trên đôi má tai tái màu đá cẩm thạch.
Có lẽ trái tim người mẹ đã cảm thấy có một số mệnh đau  khổ, tối tăm, không lối thoát, vừa đây cùng ra đời với đứa con của  bà, cái số mệnh ác nghiệt ấy treo lơ lửng trên nôi đứa bé để theo  đuổi nó cho đến lúc nó chết.
Có lẽ đấy chỉ tại mê sảng chăng? Dù sao, đứa bé cũng bị mù ngay từ thuở mới lọt lòng.
II
Ban đầu không ai nhận thấy. Đôi mắt đứa bé nhìn lờ đờ, mơ  hồ, cái nhìn đặc biệt của mỗi trẻ em sơ sinh cho đến một tuổi nào  đó. Ngày tháng trôi qua, đứa bé ra đời đã được mấy tuần. Đôi mắt  nó sáng ra, màng trắng đục trước kia che lấp đôi mắt nay biến đi,  đã nom thấy rõ con ngươi. Nhưng khi một tia sáng chói ùa vào  buồng cùng với tiếng chim hót ríu rít, vui vẻ, lẫn tiếng rì rào của  đám cây dẻ gai xanh mướt đung đưa ngay cạnh cửa sổ trong khu  vườn rộng, đứa bé không hề quay đầu lại. Bà mẹ đã có thời giờ bình phục, bà là người đầu tiên lo lắng nhận thấy cái vẻ lạ lùng  trên khuôn mặt nhỏ nhắn không bao giờ động đậy của đứa bé, cái  vẻ nghiêm nghị không đúng vẻ mặt của một đứa mới lọt lòng. Như  con bồ câu mái kinh hoàng, thiếu phụ ngơ ngác nhìn mọi người và hỏi:
- Bác ơi, sao cháu nó lại thế nhỉ?Mọi người thản nhiên hỏi  lại:
- Thế nào? Cháu nó có khác gì những đứa cùngtuổi với nó đâu...
- Nhưng kìa, bác hãy nhìn vẻ mặt kỳ quái của cháu. Như nó đang lấy tay quờ quạng tìm một vật gì... Bác sĩ đáp:
- Tại cháu nó còn chưa biết phối hợp động tác củađôi bàn  tay với những ấn tượng mắt nó nhìn thấy đấy thôi.
- Nhưng thế tại sao bao giờ nó cũng cứ nhìn mãivề một  phía. Nó... nó... mù phải không? - Thiếu phụ kêu thét lên, trái tim thốt nhiên bị một ý nghĩ ngờ vực kinh khủng xuyên qua, không  còn ai an ủi được.
Bác sĩ bế lấy đứa bé, quay phắt nó về phía ánh sáng và nhìn  vào đôi mắt nó. Ông hơi băn khoăn. Sau mấy câu qua quít, ông ra  về, hứa vài ba ngày nữa sẽ trở lại.
Bà mẹ khóc lóc, giẫy giụa như chim bị đạn. Bà ép chặt đứa  con nhỏ vào lòng. Đôi mắt đứa bé vẫn cứ ủ rũ, không động đậy.
Vài ngày sau, đúng lời hứa, bác sĩ trở lại, mang theo một  chiếc kính thử mắt. Ông thắp một ngọn nến, lúc đưa cây nến ra  xa, lúc đem lại gần mặt đứabé. Ông nhìn vào tận đáy tròng mắt.  Sau cùng, ông hết sức bối rối, ngập ngừng nói:
- Thưa bà, đáng tiếc quá, bà đã không lầm... Quả là cháu nó mù và không còn hy vọng gì.
Nghe bác sĩ nói, bà mẹ buồn rầu lặng ngắt. Bà khe khẽ nói:  - Thưa bác sĩ, tôi biết vậy từ đã lâu.
III
Gia đình em bé mù cũng không đông. Ngoài mấy người kể trên còn có ông bố và “Cậu Mácxim”. Mọi người trong nhà và cả đến người ngoài ai cũng gọi ông ta là “Cậu Mácxim”. Ông bố cũng  như trăm nghìn những người chủ điền khác ở vùng Tây nam: tính  nết nhu nhược, có phần hiền lành, coi sóc kẻ ăn người làm đâu vào  đấy và rất thích xây đi xây lại mấy chiếc máy xay bột, những công  việc ấy làm ông ta bận luôn tay gần hết ngày, chỉ đúng đến bữa ăn  hoặc có việc gì tương tự mới thấy tiếng ông trong nhà. Những lúc  đó, bao giờ cũng chỉ hỏi vợ có một câu: “Mợ nó, khỏe mạnh chứ!”.  Hỏi xong là ngồi vào bàn, rồi từ đấy hầu như không nói năng gì  hết. Chỉ thỉnh thoảng, họa hoằn lắm mới đem câu chuyện về những chiếc ống gỗ sên hay những chiếc trục xe ra nói. Con người  thuần hòa, đơn giản ấy, tất nhiên gần như không có chút ảnh  hưởng gì đến tâm trạng của đứa con trai.
Trái lại, “Cậu Mácxim” là một người khác hẳn. Mười năm  trước khi xảy ra câu chuyện này, chú Mácxim nổi tiếng là tay hay gây gổ nguy hiểm, không những nhất vùng ấp trại nhà mà còn  khét tiếng cả ở Kiép, vào những ngày phiên chợ “Kôngtơra”1.  Không ai hiểu được cái con người cứng đầu cứng cổ ấy lại có thể là em trai bà Pôpenska, tức Iatsenkô, gia đình danh giá. Không ai  biết cư xử với cậu ta ra sao, làm thế nào cho cậu vừa lòng. Đáp lại  những câu chào đón ân cần của những người quý tộc, cậu tỏ ra rất  hỗn xược, còn mấy anh nông dân có điều gì thô lỗ kinh khủng với  cậu; dù có gặp tay thượng lưu hòa nhã nhất đời họ cũng được mấy  cái tát, thế mà cậu Mácxim lại bỏ qua. Về sau, thật là may mắn vô  cùng cho tất cả những người tai to mặt lớn là chẳng rõ tại sao cậu  Mácxim lại đi căm thù bọn Áo, cậu sang Ý kết bè với Garibanđi,  một tay cũng hay gây gổ, vô thần, vô đạo như cậu. Cứ theo những  người điền chủ đồn đại thì Garibanđi đang kết cánh với quỷ sứ,  bất chấp cả đức Giáo hoàng - Tất nhiên hành động như vậy, cậu  Mácxim vĩnh viễn mất cái đầu óc hiếu loạn vô đạo. Nhưng trái lại  những phiên chợ “Kôngtơra” từ đó cũng hết hẳn những vụ ẩu đả,  và trong những gia đình quý phái, nhiều bà mẹ cũng không còn  phải lo cho số phận những đứa con trai của họ.
Cố nhiên người Áo cũng hết sức căm giận cậu Mácxim. Thỉnh  thoảng tờ “Tin tức”, là tờ báo mà những người điền chủ vùng này  thích đọc, có nêu tên cậu Mácxim trong số những nghĩa quân hăng  hái nhất của Garibanđi. Một sáng kia, cũng trên tờ “Tin tức” có đăng tin cậu Mácxim, cả người lẫn ngựa, đã bị gục trong một trận  đánh nhau. Bọn Áo vốn căm tức từ lâu cái con người điên cuồng dữ tợn ấy, cái con người đã giúp Garibanđi chống chọi lại được với họ (điều này ít ra cũng là ý kiến của đồng bào cậu Mácxim), nên họ đã lấy búa vằm nát cậu ra từng mảnh như thái xu hào.
Những người điền chủ láng giềng của cậu bảo nhau: 
- Cậu Mácxim thế cũng là chết khổ!
Họ cho cậu chết là tại thánh Phêrô đã đặc biệt bênh vực cho  người kế tục mình là Đức Giáo hoàng dưới hạ giới. Tất cả đều tin  là cậu Mácxim đã chết.
Nhưng thực ra, lưỡi gươm của bọn Áo không chém đứt được  cái linh hồn dẻo dai của cậu Mácxim. Linh hồn cậu cứ bám riết lấy  cơ thể, mặc dầu cái cơ thể ấy đã bị hư hại quá nặng. Nghĩa quân  của Garibanđi đã cứu được người bạn anh dũng của họ khỏi đám  hỗn quân, và đưa đến một bệnh viện. Mấy năm sau, bất ngờ cậu  Mácxim không biết ở đâu lừng lững trở về nhà bà chị, và ở hẳn đấy  không đi đâu nữa.
Từ đấy cậu Mácxim không nghĩ gì đến gây lộn đánh nhau.  Trái đùi bên phải bị cụt hẳn, nên đi đâu cậu cũng phải dùng một  chiếc nạng. Ngoài ra, cánh tay trái cũng bị thương nặng, chỉ còn có thể cố gắng chống tạm được chiếc can. Nói chung là nay cậu  Mácxim đã trở nên một con người nghiêm trang hơn, tính nết cậu  đã thuần, chỉ còn cái lưỡi sắc thép của cậu thỉnh thoảng tỏ ra cũng  bén như lưỡi gươm của cậu thời xưa. Cậu không đi chợ “Kôngtơra”  nữa. Dần dần những buổi hội họp đông người, cậu cũng ít đến, cả ngày chỉ nhốt mình trong thư viện, giữa những đống sách, tuy  không ai biết là sách gì, nhưng người ta đoán toàn là sách vô đạo  cả. Cậu cũng có viết lách cái gì nữa đấy, nhưng vì tác phẩm của  cậu không đăng trên tờ “Tin tức” nên cũng không ai chú ý đến  lắm.
Khi đứa bé lọt lòng ra trong căn nhà quê mùa nhỏ bé và bắt  đầu lớn lên, thì trên mái tóc húi ngắn của cậu Mácxim đã óng ánh  điểm nhiều sợi bạc. Đôi vai cậu lúc nào cũng chống nạng nên dô  cao hẳn lên, cả thân mình cậu như vuông lại. Cái hình thù kỳ quái  và rầu rĩ, đôi hàng lông mày cứ nhíu lại của cậu Mácxim, tiếng lộc  cộc đôi nạng nện xuống đất, và những đám khói thuốc luôn luôn  trùm kín người vì cậu hút píp luôn mồm, tất cả những cái ấy làm  cho người lạ ai cũng phải kinh hãi, chỉ có những người sống chung  với cậu mới biết trong cái thân hình tàn tật ấy, một trái tim cao  thượng, chứa đầy nhiệt huyết, đang đập mạnh và trong cái đầu to  lớn vuông vắn, tóc dựng chởm lên rậm rạp, có một tinh thần đang  làm việc không biết mệt.
Nhưng cả đến những người thân thích của cậu cũng không ai  biết được cậu đang mê mải suy nghĩ vấn đề gì. Ai cũng chỉ thấy  cậu Mácxim chìm lấp trong đám khói xanh, ngồi hàng mấy tiếng  đồng hồ không động đậy, trầm mặc, ủ ê, đôi mắt lờ đờ, đôi lông  mày nhíu lại. Người chiến sĩ tàn tật cho đời là một cuộc đấu tranh ác liệt không ngừng, trong đó không có chỗ đứng cho những kẻ tàn  phế. Cậu thấy mình từ nay vĩnh viễn bị gạt bỏ ra ngoài hàng ngũ những người chiến đấu và cậu, một hiệp sĩ đã bị cuộc đời quật ngã,  ném vào bụi bẩn, nay tiếp tục choán chỗ, làm bận cái thế giới này  cũng chỉ là vô ích. Giẫy giụa như con giun bị xéo nát trên mặt đất,  liệu có hèn mọn không? Cuộc sống nó cứ hớn hở đi lên, nay cố bám  lấy cái bàn đạp của nó, để xin nó chút ân huệ cuối cùng, như vậy  liệu có xứng đáng với cậu không?
Nhưng trong lúc cậu Mácxim đem hết can đảm, lạnh lùng và tập trung suy nghĩ về cái vấn đề nóng hổi, cân nhắc kỹ càng mọi lẽ phải trái, thì một sinh mệnh mới, tàn tật ngay từ thuở lọt lòng, bắt  đầu làm cậu bận tâm. Ban đầu, cậu không để ý gì đến đứa bé mù,  về sau, cậu lưu tâm thấy cái số phận của cậu và của đứa bé sao mà giống nhau đến thế.
Một hôm cậu liếc nhìn trộm đứa bé rồi trầm ngâm nghĩ: 
- Hừm... hừm... đứa bé tội nghiệp này cũng là mộtkẻ tàn  phế. Nếu gắn liền nó với ta có lẽ sẽ đúc nên một người khả dĩ cũng  giúp ích được cho đời ít nhiều chăng.
Từ đấy trở đi, càng ngày cậu càng chú ý quan sát nhìn đứa  cháu mù.
IV
Đứa bé lọt lòng ra đã bị mù. Lỗi ấy tại ai? Chả tại ai hết! Bên  trong việc này không hề có một “ý chí xấu ác” nào. Cái nguyên  nhân của tai họa này cũng giấu kín đâu tận trong chỗ uẩn áo của  những quá trình bí mật và phức tạp của cuộc sống. Mỗi lần nhìn  đứa bé mù, trái tim bà mẹ thắt lại, đau đớn, xót xa. Cố nhiên bà đau khổ, cái đau khổ của bà mẹ thấy con bị tàn tật và cảm thấy  trước một cách thảm thương cái tương lai đau khổ đang rình đợi  đứa bé. Nhưng thêm vào đấy, trong thâm tâm, thiếu phụ còn băn  khoăn day dứt về ý nghĩ có lẽ nguyên nhân đứa bé bị tàn tật là ở nơi những người đã sinh ra nó.
Như thế cũng đủ để cả gia đình chỉ xoay quanh đứa bé có đôi  mắt xinh đẹp mà lại bị mù, để cả nhà khuôn theo mọi ý muốn ỏe  họe của đứa bé tai ngược, thứ tai ngược chưa có ý thức.
Một đứa bé mà tật bệnh đã mở lối cho cái tính hay hờn giận  vô cớ, lại có đám người xung quanh quấn quít lấy, làm phát triển  những tính tình ích kỷ của nó, chẳng hay đứa bé đó sẽ ra sao nếu  không có cái số mệnh lạ lùng và lưỡi gươm bọn Áo buộc cậu  Mácxim phải về nông thôn náu mình trong gia đình bà chị.
Việc có đứa bé mù trong nhà đã dần dần hướng tư tưởng luôn  luôn hiếu động của người lính tàn tật đi theo một chiều khác hẳn  một cách hết sức tế nhị. Vẫn như trước kia, cậu thường ngồi yên  lặng hàng giờ, miệt mài hút thuốc, nhưng giờ đây, trong đôi mắt  cậu đã ánh lên vẻ suy nghĩ của một người đang lưu tâm quan sát  một vật gì chứ không còn có đau đớn âm thầm xót xa nữa. Cậu  càng suy nghĩ, trán cậu càng nhăn, mồm càng rít mạnh thuốc. Một  hôm cậu đánh liều can thiệp.
Nhả hết hơi thuốc này đến hơi khác, cậu Mácxim nói với chị: 
- Thằng nhỏ này sẽ còn đau khổ hơn tôi nhiều. Thà nó đừng  sinh ra lại hơn.
Bà Ana cúi đầu, một giọt nước mắt long lanh rơi xuống rổ khâu. Bà khe khẽ nói:
- Cậu Mác ơi, cậu nói thế đau lòng chị lắm, cậunói làm gì? 
- Nhưng là tôi nói thực với chị, hoàn toàn thực! Tôi mất một  cánh tay và một chân, nhưng còn đôi mắt. Đằng này đôi mắt cháu  nó bị hỏng, tức là nó sẽ không có chân tay, không có ý chí gì hết... - Tại sao?
Chú Mácxim dịu giọng nói: 
- Chị Ana! Chị cố gắng hiểu ý của em. Không baogiờ em đi  nói với chị những điều làm chị đau lòng để cho sướng miệng. Hệ thần kinh của cháu rất tế nhị. Giờ đây còn đủ thời giờ và mọi  thuận tiện để làm phát triển mọi khả năng của cháu để bù đắp  phần nào cho đôi mắt thiệt thòi của nó. Nhưng muốn như vậy,  phải cho nó luyện tập. Còn tất cả những thứ nuông chiều ngu  xuẩn chỉ làm đứa bé không bao giờ phải cố gắng, sẽ giết hết mọi  khả năng tạo cho nó một cuộc sống đầy đủ hơn.
Vốn thông minh, bà Ana dằn lòng ngăn được mối xúc động  đột nhiên nó thường khiến bà khi nghe tiếng đứa bé khóc rền rĩ là cuống cuồng chạy lại.
Mấy tháng sau đứa bé đã biết một mình bò tự do, nhanh  nhẹn quanh khắp nhà. Thoáng có tiếng động, nó lại lắng tai nghe,  gặp vật gì nó cũng hăm hở sờ nắn, cái hăm hở chưa từng thấy ở các  trẻ em khác.
V
Đứa bé nhận ra được mẹ nó rất nhạy, chỉ cần bước chân đi,  tà áo sột soạt và nhiều dấu hiệu khác của người mẹ, những dấu  hiệu hết sức nhỏ nhặt, người ngoài không thể thấy được. Dù trong  buồng có bao nhiêu người, mặc họ đi lại hay đứng yên, bao giờ em  cũng đi được về phía mẹ, không hề lầm lẫn. Mẹ em có bất chợt bế em lên, em cũng nhận ra được ngay. Nếu là người lạ khác, em khẽ lấy đôi bàn tay nhỏ nhắn lanh lẹ sờ mặt người bế và nhận ngay ra  người đó là u già, là bố hoặc là cậu Mácxim. Nếu được người lạ bế,  em xem xét thong thả hơn, vẻ mặt dè dặt và chăm chú, em đưa đôi  bàn tay xinh xắn lên sờ nắn khuôn mặt lạ, lúc ấy nhìn nét mặt em  thấy rõ bên trong em đang suy nghĩ căng thẳng, như thể em  “nhìn” với mấy đầu ngón tay.
Bản chất em lanh lẹn và hiếu động. Nhưng ngày tháng trôi  qua, đôi mắt mù dần dần đã ảnh hưởng rõ rệt đến thể chất của  em, cái thể chất đã bắt đầu có bản sắc rõ rệt. Cử chỉ của em ngày  một kém phần hoạt bát. Em hay ngồi một mình ở những chỗ vắng  vẻ, ngồi mấy giờ liền không động đậy, nét mặt thừ ra như nghe  ngóng cái gì. Khi trong buồng không có ai và những tiếng động  xung quanh không đến làm rộn, những lúc ấy hình như em chìm  đắm trong suy nghĩ và trên khuôn mặt, lộ vẻ ngạc nhiên ngơ ngác,  cái khuôn mặt xinh xắn nhưng quá ư nghiêm nghị đối với cái tuổi  thơ ấu của em.
Cậu Mácxim đã đoán đúng. Hệ thần kinh cực kỳ phong phú và tế nhị của em đã thắng thế, hình như trong một chừng mực  nào, nhờ thính quan và xúc giác rất nhạy cảm, nó cố gắng bù đắp  lại để các tri giác được đầy đủ. Ai cũng phải ngạc nhiên nhất về đôi bàn tay rất tinh tế của em. Đôi khi, người nhìn có cảm tưởng em  nhận rõ được cả màu sắc. Lúc đôi tay em nắm những màu vải sặc  sỡ, ngón tay mảnh dẻ của em ngừng lại lâu lâu, nét mặt em chăm  chú. Tuy nhiên, về sau dần dần càng thấy rõ rệt là ở em, giác quan  phát triển tinh tế nhất là thính giác.
Chẳng bao lâu, nghe tiếng động riêng của mỗi thứ, em đã biết được một cách rõ ràng kỳ lạ mọi đồ đạc trong nhà. Em phân  biệt được tiếng chân đi của cha mẹ em và của những người ở trong  nhà. Em nhận ra được tiếng ghế cót két của cậu Mácxim tàn tật,  tiếng sàn sạt khô khan và đều đặn của sợi chỉ mẹ em cầm trên tay,  tiếng tíc tắc đều đều của chiếc đồng hồ. Thỉnh thoảng trong lúc bò men theo bức tường, em vểnh tai lắng nghe một tiếng động nhẹ nhàng các người khác không thể nghe thấy, em giơ bàn tay nhỏ bé lên không chỉ về phía con ruồi đang bò trên bức tường. Khi con vật  kinh hãi bay đi, khuôn mặt em bao giờ cũng lộ ra vẻ khó chịu, ngơ  ngác. Em không hiểu nổi được con ruồi bí mật biến đi ra sao.  Nhưng về sau, gặp những trường hợp tương tự, mặt em nom có vẻ chăm chú, một thứ chăm chú có ý thức. Em ngoảnh mặt theo  hướng con ruồi bay: đôi tai thính nhạy của em nhận thấy rõ cả tiếng cánh con vật nhỏ đập nhẹ nhàng trên không.
Vũ trụ sáng chói chuyển động và xào xạc ở chung quanh  thâm nhập vào đầu óc em, phần lớn dưới hình thức những âm  thanh. Chính cũng dưới hình thức âm thanh mà mỗi biểu tượng  được khuôn nặn trong trí óc em. Mặt em cũng khuôn nặn theo sức  chăm chú hết sức đặc biệt để nghe ngóng. Chiếc hàm dưới nhô ra  một chút trên cái cổ mảnh dẻ và dài. Đôi lông mày trở nên linh  hoạt lạ thường, đôi mắt mù xinh đẹp làm cho nét mặt em có một  cái gì vừa khắc khổ vừa khiến người nhìn phải cảm động thương  tâm.
VI
Em bé vừa tròn ba tuổi. Ngoài sân tuyết bắt đầu tan. Những  con suối mùa xuân róc rách chảy. Gần suốt mùa đông, em bé hơi  ươn mình không bước ra khỏi phòng, nay đã mạnh hơn.
Mấy chiếc khuông chắn gió ở cửa sổ đã được cất đi; mùa xuân  ào vào buồng. Mặt trời trẻ măng tươi cười nhìn những tấm kính  tràn ngập ánh sáng. Những cành dẻ đung đưa ngay bên ngoài cửa  sổ, vẫn còn trơ trụi; xa xa cánh đồng một màu đen ngòm, loáng  thoáng điểm mấy đám tuyết đang tan trắng xóa, hoặc mấy đám cỏ xanh non mới nhú. Mọi vật đều khoan khoái hẳn lên, sinh vật nào  cũng thấy trong mình trào lên một luồng sinh lực mới. Nhưng với  em bé mù, mùa xuân chỉ biểu hiện qua những tiếng động dồn dập.  Em nghe thấy tiếng nước mùa xuân róc rách chảy, nước nhảy vọt  trên đám sỏi rồi biến mất vào lòng đất ấm áp, mềm mại. Những  cành dẻ thì thầm sau cửa sổ, quấn quít lấy nhau, đến gõ nhẹ nhàng lên những tấm kính cửa.
Những giọt nước đóng băng vì sương giá buổi sớm mai treo  lủng lẳng trên mái nhà, gặp ánh nắng, tan rơi xuống lộp độp, tiếng  nghe vừa mau vừa sang sảng như trận mưa muôn ngàn hạt đá sỏi  lấp lánh rơi vào trong phòng. Thỉnh thoảng xen lẫn những tiếng  động ấy, nghe văng vẳng từ xa có tiếng hạc kêu. Tiếng hạc từ trên  trời cao tít tắt dần, chậm chạp như nhẹ nhàng tan ra trong không  trung.
Cảnh vật tươi mới lại làm nét mặt em bé mù căng thẳng, đau  đớn. Em cố gắng nhíu đôi hàng lông mày, nghển cổ, lắng tai nghe.  Lo lắng vì không sao hiểu được cái tiếng ồn ào, em giơ đôi cánh tay  nhỏ bé tìm mẹ, chạy bổ lại áp chặt mặt vào ngực mẹ.
Thiếu phụ ngơ ngác hỏi mình rồi hỏi người khác: 
- Kìa cháu nó sao thế?
Cậu Mácxim chăm chú nhìn khuôn mặt đứa bé, cậu cũng  chịu không giải thích nổi mối lo sợ bất ngờ của nó. Thấy mặt con  lúc nào cũng có cùng một vẻ khó chịu, ngơ ngác, bà Ana ngập  ngừng nói:
- Cháu... cháu nó không hiểu được...  Thực tế, đứa bé bồn chồn không yên, có lúc em phân biệt  được những âm thanh mới, có lúc em ngạc nhiên vì không nghe  thấy những âm thanh cũ mà em đã bắt đầu quen thuộc, những âm  thanh ấy nay thốt nhiên im bặt và biến đi đâu mất.
VII
Sau cùng, tiếng ồn ào của mùa xuân cũng tắt hẳn. Dưới ánh  nắng mặt trời gay gắt, công việc của thiên nhiên lại bước theo lối  cũ quen thuộc. Cuộc sống như tỏa ra ngày một rộng, bước chân đi  mỗi ngày một dồn dập hơn, như đoàn tàu mỗi lúc một tăng tốc độ.  Trong các đồng nội, từng đám cỏ phô sắc xanh tươi, hương thơm  của những chồi bạch dương non mởn tỏa ngát cả bầu không khí.
Cả nhà định cho em bé ra chơi ngoài cánh đồng, chỗ bờ con  sông nhỏ chảy gần đấy.
Bà mẹ dắt tay con. Cậu Mácxim tập tễnh chống nạng đi bên.  Mấy người lần theo con đường nhỏ đến trái đồi ở bên cạnh, đất  trên đồi nắng gió đã hút khô ráo. Trong khoảng mênh mông bát  ngát này, mặt đồi cỏ mọc dày dặn mềm mại, quang cảnh nom thực  lộng lẫy.
Ánh sáng mặt trời làm bà mẹ và cậu Mácxim chói cả mắt.  Tia nắng sưởi nóng mặt hai người, nhưng những chiếc cánh vô  hình của gió xuân đã xua hết nóng bức, làm không khí mát mẻ dịu  dàng. Trên không, chập chờn bay một chất men ngào ngạt khiến  cho tâm hồn như ngây ngất, mềm yếu, ủy mị.
Bà Ana thấy bàn tay nhỏ xíu của con ép chặt lấy tay mình.  Nhưng hơi thở say dịu của mùa xuân khiến thiếu phụ không chú ý lắm đến cái dấu hiệu lo âu của đứa bé. Bà căng lồng ngực hít thở và cứ bước đi không hề ngoái lại. Nhưng nếu ngoảnh lại, bà sẽ thấy trên khuôn mặt đứa bé có một vẻ khác hẳn lúc bình thường.  Nó trố mắt quay về phía mặt trời, đôi mắt đầy ngạc nhiên im lặng.  Mồm há hốc, nó thở hổn hển như con cá vừa bị lôi lên khỏi nước.  Trên khuôn mặt bối rối ấy, đôi khi vẻ ngây ngất đau đớn làm sáng  lên một thoáng để rồi lại như ngạc nhiên, gần như sợ sệt, ngơ ngác  không hiểu một chút gì hết. Duy có đôi mắt lúc nào cũng không  động đậy, không có thần sắc.
Đến chân đồi, cả ba người ngồi xuống. Lúc thiếu phụ nhấc  đứa bé đang đứng dưới đất lên đặt ngồi cho thoải mái hơn, nó co  quắp bíu chặt lấy áo mẹ, như nó cảm thấy đất dưới chân biến mất  nên sợ ngã. Lúc này thiếu phụ cũng vẫn không nhận thấy cái cử chỉ lo lắng của con, cảnh vật mùa xuân lộng lẫy trước mắt làm  thiếu phụ mải mê ngắm nghía.
Trưa đến. Mặt trời từ từ lăn trên bầu trời xanh ngắt. Từ trái  đồi chỗ họ ngồi, hai người nhìn dòng sông, nước ngập tràn bờ.  Những tảng băng lớn bị nước đẩy đã giạt đi hết. Chỉ thỉnh thoảng  còn mấy mẩu nhỏ như những vệt trắng lềnh bềnh trôi giữa dòng  và đang tan dần. Trong đồng cỏ ngập phủm, nước tràn lan từng  đám mênh mông. Những đám mây trắng nhỏ cùng bầu trời xanh  soi mình trên mặt nước, và như lờ lững bơi dưới đáy. Những đám  mây biến dần đi như đã tan ra cùng những mảnh băng nhỏ. Đôi  lúc gió hiu hiu thổi, mặt nước gợn lăn tăn, lấp lánh dưới ánh mặt  trời. Xa xa bên kia bờ sông, cánh đồng trải ra bát ngát, đen ngòm.  Ngoài đồng, sương khói như một lớp vải mỏng nhẹ nhàng và nhấp  nhô sinh động, bốc phủ mờ những túp lều lợp rạ ở xa xa và đường  cong xanh nhạt của khu rừng. Mặt đất như thở dài và nhả những  làn khói cuồn cuộn bay lên trời.
Cảnh vật giãi ra bốn bề như một ngôi đền trước ngày vào hội.  Nhưng với em bé mù, thiên nhiên bao giờ cũng chỉ là một đêm dài  vô tận, xao động khác thường, cái đêm tối luôn luôn chuyển động,  nó gầm thét, ngân nga như tiếng chuông và đang bước lại gần em.  Những cảm giác lạ lùng kỳ dị đến vây kín lấy em, nó đầy dẫy tràn  ngập, làm trái tim non nớt của em hồi hộp đập rất đau đớn.
Khi những tia nắng chiếu rọi vào mặt và sưởi nóng làn da  mềm mại, em bé theo bản năng, tự nhiên quay mặt về phía mặt  trời. Em cảm thấy mặt trời là trung tâm, mọi vật quanh em đều  xoay về đấy. Với em, không có những vùng xa xa mờ ảo, không có bầu trời xanh ngắt, cả những chân trời mênh mông bát ngát cũng  không. Em chỉ thấy có một cái gì cụ thể nóng ấm như một bàn tay  vuốt ve, khẽ lướt qua mặt. Rồi, một cái gì mát mẻ, nhẹ nhàng, tuy  nhiên vẫn không nhẹ bằng cái ấm nóng của tia nắng mặt trời, nó thổi vào mặt em, mát rượi, khoan khoái. Ở trong nhà, em bé đã quen đi lại tự do và biết được khoảng trống xung quanh mình.  Nhưng ra đây, em ngạc nhiên thấy các làn sóng thay đổi mau lẹ lạ lùng, lúc vuốt ve êm dịu, lúc kích thích bồn chồn. Những cái hôn  ấm áp của mặt trời bị làn gió hiu hiu lướt qua xua đi rất mau  chóng. Một luồng gió xào xạc bên tai, phủ lấy mặt và hai bên thái  dương, lùa từ đầu đến gáy, xoắn quanh người em như cố nhấc bổng em lên, mang em đến một nơi nào đó trong không gian mà em không nhìn thấy; cơn gió ru ngủ tâm hồn em, lôi kéo em vào  lãng quên ủy mị. Em liền siết chặt thêm tay mẹ. Trái tim em lịm  đi, có lúc tưởng chừng sắp ngừng đập hẳn.
Lúc bà mẹ đặt em ngồi xuống đất, em có vẻ bình tĩnh hơn.  Giờ đây, mặc cho cái cảm giác lạ lùng tràn ngập trong người, em  vẫn phân biệt được các âm thanh. Những làn sóng ấm áp và êm  dịu vẫn cứ dồn dập mạnh mẽ, em cảm thấy nó thấm vào tận trong  cơ thể em vì những tiếng đập của máu bị đảo lộn trong người em  cũng tùy theo nhịp những làn sóng đó mà đập nhanh hay chậm.  Nhưng bây giờ, những làn sóng đưa lại lúc tiếng hót thánh thót rõ ràng của một con sơn ca, lúc tiếng thầm thì nghẹn ngào của cây  bạch dương nhỏ vừa lại mới đâm chồi xanh tươi, hoặc tiếng nước  vỗ bập bềnh khe khẽ ngoài sông. Một con én bay qua, cánh đập  vun vút, nó lượn quanh gần đấy mấy vòng ngoắt ngoéo, đàn ruồi  nhỏ vo ve, và át lên tất cả, thỉnh thoảng có tiếng bác thợ cày giục  bò kéo cày ngoài cánh đồng, tiếng lê dài, buồn bã.
Nhưng em bé không sao hiểu hết được tất cả những tiếng  động ấy, tất cả những âm thanh ấy, em không ghép lại được,  không phối hợp được chúng. Hình như lúc xuyên vào cái đầu bé nhỏ tối om của em, thì những âm thanh ấy, lẻ tẻ rơi xuống đáy, lúc  êm ái bâng khuâng, lúc vang vang ầm ĩ. Đôi khi những âm thanh  ấy dồn cả lại phát ra cùng một lúc, và xáo lộn với nhau tạo thành  một thứ âm lỗi điệu vừa chối tai, vừa khó hiểu. Gió từ ngoài cánh  đồng thổi lại vẫn vun vút bên tai, em cảm thấy những làn sóng lúc  này đã chạy mau hơn, tiếng nó ồn ào, dập tắt mọi tiếng động khác  mà lúc này chỉ còn văng vẳng như từ thế giới xa lạ đưa lại, như đã trở thành những kỷ niệm ngày hôm qua. Và khi mọi âm thanh dịu  dần, thì một cảm giác uể oải kích thích thấm vào lồng ngực em bé mù. Mặt em chốc chốc lại nhăn nhó từng nhịp, mắt lúc nhắm  nghiền, lúc mở to, đôi lông mày lúc nhíu lại, lúc giương lên sợ sệt,  rõ là em muốn hỏi han điều gì mà không nói, và em đã cố gắng  đau đớn trong suy nghĩ và tưởng tượng. Ý thức của em còn non nớt  mà đã tràn ngập những cảm giác mới mẻ nên bắt đầu bị đè xuống.  Ý thức non nớt ấy đã đấu tranh không lại được với những cảm giác  ở khắp nơi tràn vào, nó muốn chống chọi lại, phối hợp những cảm  giác ấy để chế ngự rồi chinh phục chúng, nhưng công việc ấy quá nặng đối với khối óc tối om của em, một đứa bé thiếu hẳn những  biểu tượng mắt nhìn thấy để làm một việc như vậy.
Và những âm thanh lần lượt đến vây hãm em phức tạp quá,  ầm ĩ quá. Những làn sóng từ những vùng tối tăm, náo động tràn  ngập vào em, mỗi lúc một vang mạnh hơn, để thoáng lại biến ngay  vào đêm tối như trước, nhường chỗ cho những làn sóng mới, những  âm thanh mới. Những làn sóng đung đưa em, nâng em lên mỗi lúc  một nhanh, mỗi lúc một cao, với một cái đà làm em phải khó chịu.  Một âm điệu dài và buồn của tiếng người nói to lại một lần nữa  vượt lên trên cái mớ âm thanh hỗn độn đang tắt dần, rồi thốt  nhiên bốn bề im bặt.
Em bé khẽ rên và nằm vật xuống bãi. Bà mẹ quay lại nom  thấy, kêu thét lên: em bé mặt tái nhợt, nằm mê man trên đám cỏ.
VIII
Việc xảy ra làm cậu Mácxim rất lo sợ. Ít lâu nay cậu tìm tòi  nghiên cứu các sách nói về sinh lý học, tâm lý học và khoa sư  phạm. Cậu đem hết nghị lực sẵn có vào việc nghiên cứu tất cả những điều khoa học nói về sự trưởng thành huyền bí và sự phát  triển của tâm hồn các trẻ em.
Dần dần công việc nghiên cứu làm cậu say mê. Những ý nghĩ  đen tối cho mình đã tàn phế, không còn sức để đấu tranh cho cuộc  sống, những suy nghĩ chua chát về thân phận “con sâu bò trong  đám cỏ bụi” vân vân ... tất cả đã dần dần bay khỏi cái đầu vuông  cạnh của người chiến sĩ kỳ cựu. Thay vào đấy, lúc này óc cậu lại  xáo động về những ý nghĩ khác do kết quả của một cuộc suy nghĩ  lâu dài, thậm chí đôi khi trong trái tim đang cằn dần đi ấy, còn  nảy ra những giấc mơ hồng tươi đẹp. Cậu Mácxim tin chắc tạo hóa  đã không cho đứa trẻ đôi mắt để nhìn, quyết không nỡ cướp nốt cả các giác quan khác của nó. Đứa bé đáp lại hết sức đầy đủ và với  một nghị lực phi thường, tất cả những cảm giác bên ngoài mà các  quan năng em thu nhận được. Cậu Mácxim bắt đầu tin tưởng cậu  được tạo hóa giao cho cái nhiệm vụ làm phát triển mọi năng khiếu  tự nhiên của đứa bé, cậu sẽ gắng đem tinh thần và ảnh hưởng của  mình để bù đắp cho bớt nỗi bất công của số mệnh. Trong hàng ngũ những người chiến đấu cho lý tưởng cao quý, tên lính mới này sẽ thay cậu, một tên lính mà nếu cậu, một người tàn tật tội nghiệp  không can thiệp vào, trong tương lai sẽ không làm được việc gì có ích cho ai hết.
Người bạn già của Garibanđi nghĩ bụng:  “Biết đâu đấy. Người ta rất có thể không cần gươm giáo mà vẫn đấu tranh được. Rất có thể đứa trẻ bị số mệnh bất công làm  thương tổn này, một ngày kia sẽ giơ cao thứ vũ khí hợp với năng  lực của nó để bảo vệ những kẻ đau khổ cùng bị cuộc sống hắt hủi.  Và như vậy, ta đây, một tên lính già tàn tật, ta cũng sẽ không đến  nỗi là kẻ sống thừa, trong cái thế giới này...”.
Vào thời buổi ấy, ngay đến những nhà tư tưởng tự do tiền  tiến nhất cũng không thoát khỏi điều mê tín cho là vũ trụ này bị  những “Ý muốn huyền bí” của tạo hóa chi phối. Cho nên, cậu  Mácxim trong lúc theo sát từng bước trưởng thành của đứa bé, cậu  thấy ở nó mỗi ngày một lộ rõ những khả năng ít có; cuối cùng cậu  tin chắc rằng đứa bé bị mù cũng chỉ là do một trong những “Ý muốn huyền bí” ấy gây nên.
Cậu Mácxim sớm tặng cậu học trò yêu của mình câu châm  ngôn: “Một kẻ chịu thiệt thòi cho tất cả những con người bất  hạnh”.
IX
Sau lần dạo chơi đầu tiên vào buổi mùa xuân nọ, em bé bị mê  sảng mất mấy ngày. Có lúc em nằm lịm, yên lặng trên giường, có lúc em trằn trọc, mồm nói lảm nhảm, tai lắng nghe tiếng động ở tận đâu đâu. Lúc nào nom mặt em cũng ngơ ngác kinh hãi.
Bà mẹ nói: 
- Trời ơi, hình như con tôi nó cố gắng tìm hiểu mộtcái gì mà không làm sao hiểu nổi.
Cậu Mácxim ngồi trầm ngâm, đầu lắc lắc. Cậu biết rõ đứa bé bị xúc động quá mạnh và ngất đi như vậy là do những cảm giác  tràn ngập vào nó nhiều quá, nên cậu quyết định chỉ cho những  cảm giác ấy từ từ đến với đứa bé mới mệt dậy, đến từng cảm giác  một. Cửa sổ buồng em bé ốm nằm đóng kín mít. Về sau dần dần  khi em bình phục, mới thấy mở đôi lúc. Em được dắt đi chơi trong  buồng, ra ngoài bậc cửa, ra sân, ra vườn. Mỗi khi thấy mặt em bé có vẻ lo lắng, mẹ em lại giảng giải cho em hiểu rõ bản chất những  âm thanh vừa làm em kinh ngạc.
Đây là tiếng tù và của chú bé chăn cừu tít tận đằng kia, phía  sau mé rừng. Còn tiếng này là tiếng chim bông lau hót giữa những  tiếng chim sẻ ríu rít... Và bây giờ là tiếng con cò đậu trên bánh xe(2) đang kêu. Nó vừa mới ở miền xa xôi bay về tổ cũ.
Em bé hớn hở quay mặt về phía mẹ, tỏ vẻ biết ơn. Em cầm  lấy tay mẹ, đầu gật gật, tai vẫn lắng nghe, vẻ mặt suy nghĩ, ra  chiều đã hiểu rõ.
X
Bắt đầu từ đó, thấy cái gì đáng chú ý em lại hỏi han để biết.  Hễ có tiếng động nào, là mẹ, hay thường thường là cậu Mácxim, lại  bảo cho em biết âm thanh ấy là do những đồ vật hoặc những con  vật nào đã phát ra. Lời bà mẹ giảng nghe sinh động và nhiều hình  ảnh hơn làm em có ấn tượng mạnh mẽ hơn, đôi khi ấn tượng ấy rất  đau đớn. Mắt đầy đau khổ và niềm ai oán không nhờ cậy vào đâu  được, bà mẹ chăm chú giảng giải cho con nghe những khái niệm về hình thể và màu sắc. Em bé hết sức tập trung chú ý, đôi lông mày  nhíu lại, thậm chí vừng trán trong trắng của em hằn lên mấy nếp  nhăn nhè nhẹ. Chắc cái đầu nhỏ bé của em đang gặp phải một  công việc quá phức tạp. Những lúc như vậy, cậu Mácxim cau mặt  lại, khi đôi mắt bà mẹ rưng rưng lệ, và mặt em bé tái đi vì những  cố gắng quá sức, người lính già liền xen vào, gạt chị ra và kể những câu chuyện khác cho cháu nghe; trong câu chuyện, cậu cố hết sức chỉ dùng những khái niệm về không gian và âm thanh.  Nét mặt em liền dịu lại.
Em bé hỏi về con cò gõ trống trên chiếc cột:  - Cậu ơi, con cò nó thế nào hở cậu? Nó có to không?  Vừa hỏi, em vừa dang hai cánh tay ra. Mỗi lần hỏi những cái  tương tự như vậy là em lại dang hai tay ra. Lúc nào thấy vừa vặn  đúng là cậu Mácxim bảo thôi. Giờ đây em dang rộng cả đôi cánh  tay bé nhỏ, nhưng cậu vẫn bảo:
- Không cháu ạ, con cò nó còn lớn hơn thế nhiều.Nếu bắt bỏ vào buồng và đặt nó xuống đất, đầu nó nghển sẽ cao quá lưng  chiếc ghế dựa. Cháu hiểu chưa?
Em bé vẻ mặt trầm ngâm nói:  - Thế ra nó lớn quá cậu nhỉ? Thế con chim bônglau to thế này chứ? - Em bé nhích đôi bàn tay nhỏ xíu cách nhau một chút.
- Phải, con bông lau to đúng như vậy... Nhưngchim lớn  không bao giờ hót hay bằng con nhỏ. Khi con bông lau hót, nó cố hót hay để cho ai nghe cũng phải thích. Còn con cò là một giống  chim nghiêm nghị, trong tổ, nó chỉ đứng có một chân, mắt luôn  luôn nhìn xung quanh y như một lão chủ hà khắc đứng ốp thợ làm,  quát tháo, mắng chửi, chả sợ gì làm phiền hàng xóm mà cũng  không chút xấu hổ về cái tiếng khàn khàn của mình.
Nghe cậu tả, đứa bé bật cười và quên khuấy được một lát  những cố gắng khó nhọc của em lúc này để hiểu được câu chuyện  bà mẹ kể. Nhưng câu chuyện của bà mẹ hấp dẫn, nên em vẫn  thường thích hỏi mẹ hơn là hỏi cậu Mácxim.
---------
1 Kôngtơra là tên chợ ngày xưa nổi tiếng ở Kiép.
2 Ở Ukren và ở Ba Lan, người ta thường cắm những chiếc cột thực cao cho cò đậu.  Trên đầu cột có lắp những chiếc bánh xe cũ để cò làm tổ.

<< LỜI TÁC GIẢ | Chương 2 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 255

Return to top