Về những hành động của Edward Bellingham chống lại William Monkhouse Lee, và về lý do của sự hoảng sợ lớn lao của Abercrombie Smith, thật là khó mà đưa ra một sự phán đoán dứt khoát, chắc chắn là chúng ta đã có được sự tường thuật rõ ràng và đầy đủ của chính ông Smith, điều mà Thomas Styles, tên đầy tớ cha bề trên Plumptree Peterson hội viên của nghiệp đoàn trường Đại học, và nhiều nhân chứng khác của vụ này, vụ nọ đã làm cho vững chắc thêm. Tuy nhiên câu chuyện chỉ dựa trên một mình Smith thôi, và hình như nhiều người lại muốn nghĩ rằng một bộ óc mặc dù bề ngoài thì có vẻ lành mạnh cũng sẽ thấy bực bội về một sự phiền nhiễu nhỏ nhặt, hơn là chịu chấp nhận rằng tiến trình bình thường của tạo hóa có thể bị đảo lộn tại một trung tâm của khoa học và ánh sáng như Đại học Oxford này. Nhưng khi ta ngẫm nghĩ về những khúc quanh co và về sự hẹp hòi của cái tiến trình bình thường ấy của tạo hóa, về nỗi khó khăn mà ta trải qua để truy tìm nó bất kể mọi sự soi sáng của khoa học, và về các khá năng lớn lao, khủng khiếp phát sinh một cách hỗn độn từ các khoảng tối tăm bao quanh nó, người ta phải rất dũng cảm, ngay cả rất liều lĩnh nữa, để đặt ra một giới hạn ở những con đường quanh co mà trí tuệ của nhân loại có thể đi qua. Trong một chái nhà ở nơi mà chúng ta sẽ gọi là Vieux College tại Oxford, có một cái tháp rất cũ kỹ. Cái vòm nặng nề nằm trên cái cửa mở ngỏ đã oằn xuống ở quãng giữa dưới sức nặng của những tháng năm. Những tảng đá xám, bám đầy rêu được ghép lại với nhau bởi những cây trường xuân và những nhánh liễu giống như có một bà mẹ già đã thận trọng đưa chúng ra thử thách với gió, mưa. Phía sau cái cửa là một cầu thang bằng đá leo cuốn vòng tròn lên tới tầng thứ ba; những phiến đá lát của nó đã bị khoét trũng xuống và trở thành xấu xí dưới những bước chân của nhiều thế hệ những người đi tìm kiến thức. Cuộc sống đã lan tràn ra như nước chảy dọc theo cái cầu thang xoáy trôn ốc này, và cũng như nước, nó đã để lại những rãnh mòn nhẵn nhụi. Từ những cậu học sinh đóng bộ chỉnh tề với chiếc áo dài lệt bệt thời Plantagenet cho tới những chàng sinh viên mặc đồng phục trong những năm vừa qua, một làn sóng mạnh mẽ của tuổi trẻ nước Anh đã chảy qua nơi đây. Và bây giờ còn lại những gì của tất cả những hy vọng dó, những cố gắng đó những nghị lực kinh khủng đó, nếu không phải là một vài dòng chữ trên tấm mộ bia hoặc một nắm bụi trong một quan tài nằm lây lất nơi nghĩa địa? Nhưng cái cầu thang thầm lặng và bức tường già nua xám xịt còn được trang hoàng bằng các huy hiệu thì vẫn tồn tại mãi; Vào tháng 5 năm 1884, có ba chàng thanh niên chiếm ngụ ba căn hộ nằm trên ba đầu cầu thang. Mỗi căn chỉ có một phòng khách nhỏ và một phòng ngủ. Ở tầng trệt, những phòng nằm dưới ba căn hộ đó được sử dụng theo cách một phòng như là hầm đựng than củi, một phòng khác làm chỗ ở cho đầy tớ. Thomas Styles đã làm việc cho ba chàng sinh viên cư ngụ ở bên trên đầu y. Ở bên phải và bên trái là một dãy phòng lớp học và văn phòng, quá tốt để cho những người ở thuê cái tháp cũ kỹ tận dụng được một sự cô quạnh, rất quý giá cho những chàng trai chăm chỉ học hành. Mà ba người cư ngụ hồi đó là những người rất chăm chỉ học hành: Abercrombie Smith ở tầng thứ ba, Edward Bellingham ở dưới, và William Monkhouse Lee ở tầng thứ nhất. Đã mười giờ tối. Trời đêm sáng sủa Abercrombie Smith ngồi lọt thỏm trong ghế bành, hai chân để lên khung che lò sưởi miệng ngậm ống píp. Trong cái ghế bành thứ hai, cũng được kê một cách không kém phần thoải mái, người bạn lâu năm Jephro Hastie của anh ngồi uể oải ở phía bên kia lò sưởi. Cả hai người đều mặc quần áo nỉ, vì họ đã chơi cả buổi tối trên sông; tuy nhiên chỉ cần nhìn bộ mặt tỉnh táo với những nét cứng cỏi của họ cũng đoán được rằng họ yêu thích không khí bao la với tất cả những gì là khang kiện và cường tráng. Hastie là trưởng nhóm bơi lội ở trường cao đẳng của anh; Smith là người chèo thuyền còn giỏi hơn, nhưng viễn ảnh đen tối của một kỳ thi sắp tới đã tạm thời cầm chân anh ở nhà, ngoại trừ mỗi tuần vài giờ do sự đòi hỏi của sức khỏe. Một đống sách y khoa trên bàn, những mẩu xương rải rác, những cái khuôn đúc, những bản khắc mô hình cơ thể cho thấy tính chất các môn học của anh. Phía trên lò sưởi một cặp gậy và những găng đánh bốc chỉ rõ bằng cách nào, với sự trợ giúp của Hastie, anh đã giữ được thân hình khỏe mạnh. Họ đã hiểu biết nhau rất nhiều: nhiều đến nỗi họ có thể ngồi yên một cách thanh thản không nói năng gì với nhau, đây là một mức độ cao trong tình bạn bè. - Một chút whisky nhé! - Sau cùng, Abercrombie Smith đưa đề nghị ra giữa hai làn khói thuốc lá - Rượu scoth thì ở trong bình, còn rượu Irland thì ở trong chai. - Không, cảm ơn. Tôi đang tập chèo thuyền. Tôi không uống rượu khi tập luyện. Còn anh? - Tôi làm việc cực nhọc. Tôi nghĩ không nên gây ra những sự hỗn tạp. Hastie gật đầu đồng ý. Họ lại chìm vào một sự yên lặng thoải mái. Sau đó một lát, Hastie hỏi: - Smith này, hãy nói đi, anh có quen với hai anh chàng ở phía dưới cầu thang của anh không? - Khi chúng tôi gặp nhau thì chỉ gật đầu chào. Khô ng nói gì hơn cả. - Hừ! Ở địa vị anh tôi sẽ ngừng lại ở đó! Tôi có biết đôi chút về cả hai người đó. Không biết nhiều lắm, nhưng cũng đủ đối với sở thích của tôi; tôi không nghĩ rằng nếu tôi ở đây tôi sẽ thân thiết ngay với họ. Không phải vì cái tính xấu ở anh chàng Monkhouse Lee. - Anh chàng gầy còm hả? - Phải. Một anh chàng bé nhỏ có vẻ khá lịch sự. Tôi không nghĩ rằng chính bản thân anh ta xấu. Chỉ cố một điều là anh không thể lui tới nhà anh ấy mà đồng thời không lui tới nhà Bellingham. - Anh chàng to lớn hả? - Phả. Anh chàng to lớn đó. Và hắn ta là loại người mà tôi không thích giao du. Abercrombie Smith nhướng cặp lông mày lên và ném một cái nhìn chăm chú vào người bạn. - Tại sao vậy? - Anh hỏi - Hắn uống rượu à? Hắn chơi bài bạc à? Hắn có máu vô lại à? Thường khi anh không hay phán xét nghiêm khắc cơ mà! - A, tôi thấy rõ là anh không biết hắn rồi. Nếu anh biết rõ hắn, thì anh đã không hỏi tôi tại sao. Ở hắn có đủ những gì gớm ghiếc; những gì đê tiện làm cho tôi ghê tởm. Tôi coi hắn như một kẻ có những tật xấu được che giấu, một kẻ trụy lạc. Tuy nhiên, hắn không ngu ngốc. Người ta nói rằng trong bộ môn của hắn thì hắn là một trong những phần tử tài giỏi nhất mà trường cao đẳng đã từng biết tới. - Y khoa hay văn học cổ điển? - Ngôn ngữ Đông phương. Hắn thật đáng sợ! Mới đây Chilling Worth đã gặp hắn tại một nơi nào đó bên trên thác nước số hai; anh ấy kể lại với tôi rằng hắn đã nói chuyện con cà con kê với những người Ả Rập như thể hắn đã được sinh ra ở vùng đó. Hắn nói tiếng Coptes với người Coptes, tiếng Héfreux với người Héfreux, tiếng Ả Rập với người Bédouins, họ sẵn sàng cúi hôn vạt áo dài của hắn. Có một vài nhà ẩn sĩ ngồi trên các mỏm đá, họ thường có thói cười ngạo đời, gắt gỏng và nhổ nước bọt xuống đất khi nhìn thấy một người lạ mặt. Vậy mà khi Bellingham chưa nói với họ hết năm tiếng, họ đã nằm sấp xuống và xun xoe trước mặt hắn! Chilling Worth xác nhận với tôi rằng, anh ấy chưa từng thấy một chuyện như vậy bao giờ. Bellingham có vẻ rất thoải mái; hắn có dáng điệu một người đang hành xử một quyền lực tự nhiên của mình; hắn ung dung đi lại ở giữa bọn họ và giảng huấn lý cho họ. Không có gì là tệ hại cho một sinh viên Oxford phải không? - Tại sao anh lại nói rằng người ta không thể tới thăm Lee mà không tới thăm Bellingham được? - Bởi vì Bellingham đã đính hôn với em gái của Lee. Smith này, phải nói rằng Eveline là một thiếu nữ rất xinh đẹp Tôi biết rất rõ tất cả gia đình này. Thật là đáng chán khi nhìn thấy cô ấy đi với anh chàng thô lỗ ấy? Một con cóc và một con bồ câu, họ giống hệt như vậy đó. Abercrombie cười mỉm và gõ cái píp vào lò sưởi để đổ ra hết tro ở trong. - Anh bạn già ơi, anh bày thêm chuyện rồi đó! - anh nói với người bạn. - Anh là một vị quan tòa mới thiên vị làm sao! Thực tình anh đâu có gì thù ghét thằng cha đó, ngoại trừ việc này. - Anh muốn nói gì? Tôi biết cô ấy từ khi cô ấy chưa lớn bằng cái píp của anh, và tôi không muốn thấy cô ấy gặp những sự rủi ro, và cô ấy đang gặp rủi ro đó. Hắn có điệu bộ một con thú hoang dã. Và hắn có một tính tình man rợ, một tính cách độc địa. Anh có nhớ vụ cãi cọ của hắn với Long Norton không? - Không. Anh luôn luôn quên rằng tôi là một người mới tới đây. - Đúng vậy. Câu chuyện trở ngược lại mùa đông năm ngoái. Chắc chắn thế! Anh biết con đường để kéo thuyền ở gần sông không? Có nhiều cậu trai dạo chơi ở đó. Dẫn đầu là Bellingham. Họ gặp một bà già hiền lành bán hàng ở chợ. Trời thì mưa, và hẳn anh đã biết khi trời mưa thì những cánh đồng trông giống cái gì rồi. Con đường chạy ở giữa con sông và một cái ao lớn cũng rộng gần bằng con sông. Này, anh có biết cái thằng con lợn đó làm gì không? Hắn không cần bận tâm hắn cứ tiếp tục đi thẳng, và hắn đã đẩy bà già hiền lành xuống bùn làm bà ấy bị bẩn bê bết, cả hàng hóa của bà. Đó là cách cư xử của cầm thú! Tuy nhiên Long Norton là người hiền lành nhất trong đám đó, đã nói thẳng với hắn những điều anh ấy nghĩ. Lời qua tiếng lại một lát, và kết cục là Norton đã quật cho hắn một gậy rất đau vào giữa hai bả vai. Vụ này được loan truyền khắp nơi, và không có gì buồn cười hơn là nhìn cái đầu của Bellingham khi hắn gặp Norton. Trời ơi, anh Smith, sắp mười một giờ rồi... - Không có gì phải vội vã! Hãy châm một píp nữa đi - Không. Theo nguyên tắc thì tôi đang ở thời kỳ tập luyện. Vậy mà tôi còn ngồi đây nói lung tung thay vì đã nằm trên giường rồi Tôi muốn mượn cái sọ người của anh, nếu anh chưa dùng tới. Williams đã lấy cái của tôi từ một tháng nay. Và tôi cũng sẽ mang đi những mẩu xương con ở tai, nếu anh đoan chắc với tôi là anh không cần đến chúng. Cám ơn. Không, lại không có túi xách? Tôi sẽ dư sức cắt chúng trong cánh tay. Ngủ ngon nhé cậu trai của tôi? Và hãy theo lời khuyên của tôi về vấn đề gã hàng xóm của anh. Khi Hastie đã có đủ chiến lợi phẩm về giải phẫu học, bước ra khỏi phòng, Abercrombie Smith ném cái píp vào giỏ giấy vụn; kéo ghế bành lại gần ngọn đèn, rồi chúi đầu vào một quyển sách đồ sộ bìa xanh, có in những họa đồ lớn tô màu trưng ra cái vương quốc, xa lạ và thân cận mà chúng ta là những nhà vua bất hạnh. Anh đúng là một người mới ở Oxford, anh không phải là người mới bước chân vào ngành y; trong bốn năm, anh đã làm việc ở Glasgow và ở Berlin, và kỳ thi sắp tới phải cho phép anh giật được mảnh bằng. Với đôi môi cương nghị, vầng trán cao, dáng điệu cẩn trọng, anh tự chứng tỏ là phải trở thành một người, dù không có các tài năng lỗi lạc, thì cũng có đầy đủ sự bền bỉ, sự kiên nhẫn và sức mạnh để có thể vượt trội người khác. Người nào đã biết chút ít về anh giữa những sinh viên Tô Cách Lan và sinh viên miền bắc Đức đều hiểu, tất cả bọn họ không phải là những kẻ coi thường được! Smith đã để lại ở Glasgow và ở Berlin một danh tiếng tuyệt hảo; anh biết rất rõ rằng anh cũng đáng được tiếng tăm như vậy ở Oxford vì sự tận lực làm việc và tôn trọng kỷ luật. Anh đã đọc từ khoảng một giờ đồng hồ, khi bỗng nhiên anh nghe thấy một tiếng kỳ quái; một tiếng động chói tai, chát chúa; một tiếng gì giống như tiếng hít vào rít lên của một người đang thở khi bị xúc động mạnh. Smith để sách xuống và lắng tai nghe. Vì không có một ai ở bên cạnh hay ở phía trên anh, chắc chắn là tiếng động đã tới từ người láng giềng phía dưới của anh, chàng sinh viên mà Hastie đã phác họa một hình ảnh chẳng tốt đẹp chút nào. Smith chỉ biết anh ta dưới bộ mặt một chàng trai xanh xao, yếu đuối có thói quen sống yên lặng và chăm chỉ làm việc, và ngọn đèn của anh ta thường chiếu ra một vạch vàng trên cái tháp cổ xưa ngay cả sau khỉ anh đã tắt ngọn đèn của anh. Sự cảm thông trong những đêm thức khuya kéo dài này đã tạo ra giữa họ một thứ liên hệ bí mật. Khi những giờ đã trôi qua gần tới rạng đông, Smith thích cảm thấy rằng ngay ở gần bên, một sinh viên khác cũng coi khinh giấc ngủ như anh. Và đúng vào lúc đó, khi mà các ý nghĩ của anh đều hướng về người bạn láng giềng một cách ngoài ý muốn, anh chỉ cảm thấy những tình cảm tốt đẹp. Hastie là một chàng trai dũng cảm, nhưng thô lỗ, rất khỏe mạnh và không có óc tưởng tượng cũng như sự thông cảm. Anh ta không thể chịu đựng được một người không được đào tạo theo cái mẫu mực cường tráng mà anh ta đã dứt khoát chọn lựa. Nếu người nào không thể được đo lường theo các tiêu chuẩn này, thì nhất định là người đó sẽ chuốc lấy sự ác cảm của Hastie. Giống như nhiều chàng trai khỏe mạnh về thể chất, anh ta tỏ ra lầm lẫn cấu trúc của cơ thể với tính tình, anh ta không ngần ngại gì để gán tội vô nguyên tắc cho một việc khi việc đó chỉ là một lỗi nhỏ. Smith có tinh thần cởi mở hơn: anh biết cái bệnh của bạn anh và anh thể tất nó. Vì tiếng động kỳ quái đó không tiếp diễn nữa, Smith đang sắp cầm lấy quyển sách, thì bỗng nhiên lại một tiếng rên rỉ khô khan một tiếng kêu thực sự chọc thủng sự yên tĩnh của màn đêm. Đó là tiếng gọi của một người bị khích động và đau đớn vượt khỏi sự kiềm chế. Smith chồm ra khỏi ghế bành bỏ quyển sách xuống. Mặc dù anh có bộ thần kinh vững vàng, tiếng kêu khủng khiếp đột ngột đó cũng làm máu anh lạnh toát như băng và làm anh nổi da gà. Được phát ra trong một nơi như thế này? Và sao một giờ như thế này? Nó đã gieo vào đầu óc anh hàng ngàn giả thuyết kỳ quái. Anh có nên chạy ngay xuống bên dưới không, hay là hãy đợi xem sao? Cũng như tất cả các đồng bào của anh, anh ghét việc làm cho mọi người chú ý hay tự đề cao mình, và anh biết rất ít về người hàng xóm nên anh không có ý định xen lấn vào công việc của hắn một cách khinh suất. Anh đắn đo trong một khoảnh khắc; nhưng những bước chân mau lẹ đã vang lên trong cầu thang, và chàng thanh niên Monkhouse Lee, nửa mình để trần, mặt mày tái mét, chạy xộc vào phòng anh. “Xuống đi?” anh ta lắp bắp nói. “Bellingham bị bệnh!” Abercrombic Smith đi theo anh ta tới tận căn phòng khách nhỏ nằm ngay phía dưới phòng khách của anh, dù dã dồn hết tâm trí vào sự việc xảy ra, anh cũng không thể kiềm chế được việc ném một cái nhìn kinh ngạc quanh mình khi anh bước qua bậc cửa. Đó là một căn phòng hình như chưa bao giờ anh nhìn thấy trước đây: một viện bảo tàng hơn là một phòng làm việc. Các bác tường và trần nhà gần như được toàn bộ che phủ bằng hằng hà sa số những thành tích kỳ lạ xuất xứ từ Ai Cập và Đông phương. Những bóng ma cao lớn mang những gánh nặng hay những khí giới treo một cách ngạo nghễ trên một tấm vải thô chạy vòng quanh căn phòng. Phía. trên, được chạm vào trong đá là những cái đầu bò rừng, đầu hạc, đầu cú mèo, cùng với các pho tượng những vua chúa có những con mắt hạt hạch nhân, trên đầu quấn những con rắn độc và những vị thần kỳ quái trông giống như những con giáp trùng đẽo bằng ngọc bích Ai Cập. Horus, Isis và Osins đang ngồi ngắm nghía căn phòng khách có nhiều hốc trong tường và tất cả những cái kệ, ngang trần nhà, một đứa con chính thống của sông Nu cổ đại, con cá sấu lớn với cái miệng há rộng, được treo lủng lẳng bằng một nút dây kép. Ở giữa căn phòng không tầm thường này, có một cái bàn vuông lớn rải rác những giấy tờ, chai lọ và những lá khô của một loại cây cọ rất đẹp, những vật linh tinh này đã bị đẩy ra thành từng đống lộn xộn để lấy chỗ đặt một cái thùng xác ướp được lấy ra từ trong bức tường (đúng như khoảng trống nó để lại trong tường đã chứng thực điều này), và nó được đặt nằm ngang qua cái bàn. Về phần cái xác ướp, thì nó là một vật khủng khiếp, đen xì và khô héo, chìa ra một cái đầu xám như than trên một cái cây nhỏ đầy mấu đốt, một nửa thân hình nó thòi ra bên ngoài cái thùng; một cái bàn tay trong giống như một cái kìm và một cánh tay xương xấu nằm trên bàn. Một cuộn giấy bằng lá chỉ thảo được dựng tựa vào cái quan tài; phía trước cuộn giấy, người chủ căn phòng dang ngồi trong một cái ghế bành gỗ, đầu anh ta ngả về phía sau; hai mắt mở lớn nhìn dán chặt vào con cá sấu; cặp môi xanh tái và run rẩy một cách nặng nề theo từng hơi thở. - Trời ơi! Anh ấy chết mất! - Monkhouse sợ hãi kêu lên. Monkhouse Lee là một chàng trai mảnh khảnh có cặp mắt đen và nước da xanh tái; anh ta có cốt cách Tây Ban Nha hơn là cốt cách Anh Cát Lợi; tính tình cởi mở của người Celtes ở anh trái nghịch lại với tính lạnh lùng của dân Saxon ở Abercrombie Smith. - Tôi nghĩ rằng đây chỉ là sự ngất xỉu đi thôi - anh sinh viên y khoa trả lời - Hãy giúp tôi một tay. Nắm lấy hai chân anh ấy. Bây giờ chúng ta hãy đặt anh ấy nằm lên trên ghế dài. Anh có thể dẹp hết những dỗ quỷ quái lắt nhắt bằng gỗ ra khỏi cái ghế dài được không? Thật là bừa bãi! Kia kìa? Nêu ta cởi cúc áo ở cổ anh ấy ra và cho anh ấy uống một ít nước thì sẽ rất tốt đó Điều gì xảy ra cho anh ấy thế? - Tôi không biết một tý gì cả. Tôi nghe tiếng anh ấy kêu to, tôi chạy ngay lên. Tôi quen biết anh ấy lắm, anh hiểu chứ? Anh thật quá tốt bụng khi đi xuống đây. - Tim anh ấy đập như một cái lục lạc ấy - Smith nói sau khi để tay lên ngực Bellingham khi anh này vẫn còn bất tỉnh - Người ta sẽ nói rằng anh ấy bị quá hoảng sợ. Giội nước lên người anh ấy đi. Bộ mặt anh ấy trông mới kỳ cục làm sao!... Thực sự vẻ mặt Bellingham trông vừa kỳ dị vừa đáng sợ, cả về thần sắc lần về dáng điệu. Nó trắng bệch, không phải sự tái xanh thông thường do sự sợ hãi gây ra, mà là sự trắng bệch, hoàn toàn không có màu sắc ở bụng một vài loại cá. Anh ta khá mập, nhưng cho ta ấn tượng là trước đây anh ta còn mập hơn nhiều, vì da anh ta lõng thõng thành những nếp và vết hằn ngang dọc. Mái tóc nâu để kiểu bàn chải dựng đứng lởm chởm trên đầu, trong đôi mắt màu xám vẫn mở trừng trừng, các đồng tử giãn căng ra, sự chăm chú của cái nhìn trông thật khủng khiếp. Smith cúi xuống trên người anh ta, tự nhủ thầm là anh chưa bao giờ nhìn thấy rõ ràng như thế này những tín hiệu của sự khủng khiếp trên diện mạo một con người; ngay tức thì anh nhớ lại với ít hoài nghi hơn lời cảnh báo của Hastie. Anh hỏi: - Vậy thì điều gì đã làm cho anh ấy kinh hoàng tới mức độ này? - Cái xác ướp - Xác ướp à? Tại sao như vậy? - Tôi không biết. Nó hôi thối và gây bệnh hoạn, lẽ ra tôi đã muốn cho anh ấy quăng nó đi. Đây là lần thứ nhì anh ta làm cho tôi kinh sợ. Mùa đông năm ngoái cũng một lần như thế này. Tôi đã thấy anh ta đúng hệt như hôm nay, với cái vật đáng ghét này để trước mặt anh ta. - Vậy anh ấy tìm kiếm cái gì ở cái xác ướp? - Ồ, thật là một kẻ cuồng dại Một kẻ cuồng dại về xác ướp. Anh ấy hiểu biết về các xác ướp nhiều hơn là bất kỳ một người dân Anh nào hiện đang còn sống. Nhưng tôi thì tôi mong rằng anh ấy nên biết ít hơn về những thứ đó. A, anh ấy tỉnh lại rồi kìa! Những màu sắc mờ nhạt bắt đầu nhuốm ứng đôi gò má tái mét của Bellingham; mí mắt anh ta nhấp nháy; anh ta nắm chặt bàn tay lại và lại duỗi bàn tay ra, hít một hơi dài không khí qua kẽ răng, rồi đột nhiên ngẩng đầu lên và đưa mắt nhìn quanh một cái nhìn dò xét Khi mắt anh nhìn tới cái xác ướp, anh đứng phắt dậy, cầm lấy cuộn chỉ thảo, quẳng nó vào một ngăn kéo và khóa nó lại, rồi lảo đảo quay trở lại cái ghế dài. Anh ta hỏi: - Chuyện gì đã xảy ra? Các bạn muốn gì ở tôi vậy? - Anh đã kêu lớn và làm ồn ào quá - Monkhouse Lee đáp lại - Nếu ông bạn hàng xóm của chúng ta ở tầng trên không đi xuống, thì tôi tự hỏi là một mình tôi sẽ làm được việc gì đây. - À, đây là Abercrombie Smith! - Bellingham nhìn anh và nói - Thật là anh đã tử tế quá khi tới đây! Tôi là một thằng ngốc thật! Trời ơi, sao mà tôi ngu ngốc thế! Anh ta gục đầu vào hai bàn tay và bật lên mọt tiếng cười điên dại không còn ngưng được nữa. - Coi chừng đó! Dừng lại! - Smith quát to và nắm lấy vai anh ta lắc mạnh - Các dây thần kinh của anh bị hoàn toàn rối loạn rồi. Anh phải vứt bỏ những trò chơi nhỏ nhặt về nửa đêm với những cái xác ướp đi nếu không anh sẽ mất trí đó. Lúc này anh là một cục pin điện đó. Bellingham trả lời: - Tôi không nghĩ rằng anh cũng sẽ bình tĩnh được như tôi nếu anh trông thấy... - Cái gì vậy? - À, không có gì cả! Tôi chỉ muốn nói rằng tôi không tin là anh có thể ngồi suốt một buổi tối với một cái xác ướp mà các dây thần kinh không bị nôn nao. Anh nói rất đúng, trong thời gian gần đây tôi đã làm việc quá nhiều. Nhưng tôi cảm thấy đã hoàn toàn bình phục. Xin hãy đợi vài phút, và tôi sẽ trở lại như thường. - Căn phòng có mùi khó chịu quá - Lee đưa ra nhận xét và anh đi mở cửa sổ để cho không khí mát mẻ ban đêm lùa vào. - Đó là chất nhựa thơm... Bellingham giơ lên một chiếc lá khô và làm nó quăn lại trên miệng cái đèn. Nó biến thành những cuộn khói dày đặc; một mùi hăng khó chịu tràn ngập căn phòng. - Đó là thứ cây linh không thứ cây của các vị thầy tu - anh ta giải thích - Anh Smith, anh có biết gì về các ngôn ngữ Đông phương không? - Không biết gì hết. Không biết một chữ. Câu trả lời có vẻ làm cho nhà Ai Cập học thấy nhẹ nhõm. Anh hỏi: - Về chuyện này, từ lúc cái anh chạy vào tới lúc tôi tỉnh lại có lâu không? - Không lâu. Khoảng bốn hay năm phút - Hình như tôi thấy rằng tôi đã không bị bất tỉnh lâu hơn! - anh vừa nói vừa hít vào một hơi dài - nhưng sự ngất xỉu thật là một điều kỳ lạ! Không có cách nào để đo lường thời gian của nó. Theo các cảm giác của riêng tôi, tôi không tài nào nói chắc được là tôi đã bị ngất đi trong vài giây hay vài tuần lễ. Cái ông khách nằm trên bàn kia đã được tẩm liệm đã bốn mươi thế kỷ rồi; nếu ông ấy lại nói được, ông ấy sẽ bảo chúng ta rằng cái khoảng thời gian này chỉ thoảng qua như thời gian mà ta cần có để nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra. Đó là mộ t xác ướp tuyệt đẹp, anh Smith ạ!... Smith lại gần cái bàn và nhìn cái hình thù đen đúa và cong queo bằng con mắt của nhà chuyên môn. Bộ mặt tuy đã bị mất màu sắc một cách khủng khiếp nhưng vẫn còn nguyên vẹn; hai nhãn cầu nhỏ bé còn nằm trong hốc sâu của những lỗ mắt đen ngòm. Cái cằm có vân như cẩm thạch bị kéo vẹo sang một bên, và những sợi tóc to và đen rủ xuống hai tai. Hai chiếc răng nhỏ như răng chuột phủ lên cái môi dưới đã teo lại. Trong tư thế ngồi xổm, với những khớp xương cong lại và cái đầu nghểnh về phía trước, cái vật khủng khiếp này tỏa ra một cảm giác về khí lực làm đảo lộn tinh thần của Smith. Những cái xương sườn hằn rõ như dược bọc bởi một cái vỏ bằng da thuộc, cũng như cái bụng màu xám chì, bị rạch theo chiều dài bởi người ướp xác; nhưng hai chân thì vẫn còn được quấn các băng vải vàng. Những lá đinh hương, những mảnh vụn nhựa mật nhi lạp và trái ba đậu còn rải rác trên cái xác hoặc vương vãi bên trong cái hòm. - Tôi không biết tên hắn, - Bellingham nói trong lúc đưa bàn tay lên cái trán nhăn nheo của anh - Các anh nhìn đấy: tôi thiếu mất cỗ quách bên ngoài cùng với những chữ ghi chép của nó. Lô số 249, đó là tất cả danh hiệu của hắn hiện nay. Hãy dọc chữ này trên cái hòm. Đó là con số hắn mang trong cuộc bán đấu giá mà tôi đã mua được. Abercrombie Smith nói: - Lúc sinh thời, chắc chắn hắn là một người đàn ông đẹp trai. - Một anh khổng lồ. Cái xác ướp của hắn đo được hai mét chiều dài; ở nơi đó, hắn phải là một anh khổng lồ vì giống người ở đó đã không được phát triển mấy. Hãy thử sờ vào mấy cái xương lớn quăn queo xem. Không ai dại dột mà trêu chọc hắn. - Có thể là những bàn tay này đã góp sức vào việc xây dựng các ngôi Kim tự Tháp chăng? - Monkhouse Lee góp ý trong khi ngắm nghía những bàn tay với sự kinh tởm. - Chớ nên tin gì vào việc đó! Anh chàng nay đã được ướp một cách kỹ càng trong một kiểu cách tốt nhất. Người ta không đối xử tử tế như vậy với những anh thợ nề tập sự đâu. Muối hoặc dầu hắc cũng là quá tốt rồi. Người ta đã tính là cái thứ công việc vớ vẩn phải tốn vào khoảng 730 bảng tiền của chúng ta. Ít nhất anh bạn của chúng ta cũng là một nhà quý tộc. Anh Smith, anh nghì thế nào về cái dòng chữ nhỏ ở gần hai bàn chân hắn? - Tôi đã nói với anh là tôi không biết một thứ ngôn ngữ Đông phương nào mà. - À phải! Đó là tên của người ướp ít nhất tôi cũng giả thiết là vậy. Ông ta phải là một nghệ nhân rất có lương tâm nghề nghiệp. Tôi đã tự hỏi rằng liệu có bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật hiện dại sẽ tồn tại được bốn ngàn năm!... Anh ta tiếp tục nói với vẻ giễu cợt, nhưng Abercrombne Smith nhận thấy anh ta vẫn còn run rẩy vì sợ hãi. Tay anh ta có những cử động thiếu tự chủ, môi dưới của anh ta run run và mắt anh ta lúc nào. cũng nhìn vào người bạn gớm ghiếc của mình! Tuy nhiên, bất kể nỗi sợ sệt anh ta vẫn có một vẻ đắc thắng trong giọng nói và trong thái độ. Mắt anh ta sáng ngời, bước chân nhanh nhẹn và khinh khoái khi đi đi, lại lại trong eăn phòng. Người ta có thể nói đó là một người vừa trải qua một cuộc thử thách phũ phàng, còn mang các dấu vết của cuộc thử thách, nhưng đã đạt được mục đích của mình. - Anh không bỏ đi đấy chứ? - anh ta kêu lên khi Smith từ ghế dài đứng lên. Trước viễn ảnh đơn độc, những mối lo sợ hình như lại tấn công anh ba và anh ta vươn tay ra như thể giữ Smith ở lại. - Đúng, tôi phải đi đây. Công việc đang đợi tôi. Anh đã hồi phục rất khá rồi. Tôi nghĩ rằng với hệ thần kinh của anh, anh nên chuyên tâm vào những môn học ít bệnh hoạn hơn. – Ô, thông thường tôi không bao giờ bị suy yếu cả? Và tôi đã từng tháo vải bọc cho nhiều xác ướp mà. - Lần trước anh cũng đã bị ngất xỉu - Monkhouse Lee đưa ra lời lưu ý. - À, phải! Này, tôi sẽ phải dùng một liều thuốc bổ cho các dây thần kinh. Anh không bỏ đi chứ, anh Lee? - Tôi sẽ làm theo ý anh muốn, Ned ạ. - Vậy thì tôi sẽ xuống phòng anh, và tôi sẽ ngủ trên cái ghế dài của anh. Chúc ngủ ngon nhé Smith. Tôi rất buồn vì đã làm phiền anh với những trò ngu ngốc của tôi. Họ bắt tay nhau; chàng sinh viên y khoa leo mỗi bước bốn bậc thang để trở về phòng của mình, anh nghe thấy tiếng hai người bạn đi xuống phía căn hộ ở tầng thứ nhất. Đó là lý do tại sao Edward Bellingham và Abercrombie đã làm quen với nhau, chàng sinh viên y khoa không có ý định gắn bó xa hơn nữa, nhưng Bellingham có vẻ như say mê anh hàng xóm; anh ta đã có những cử chỉ mở đầu một cách thân thiện quá đến nỗi chỉ một kẻ thật sự thô lỗ mới dám khước từ. Đã hai lần anh ta tới phòng Smith để cảm ơn về sự giúp đỡ; rồi sau đó anh ta gõ cửa để mang tới cho anh các sách, báo và mọi thứ lặt vặt mà hai anh hàng xóm độc thân có thể tặng, biếu cho nhau. Smith đã phát hiện ra ngay là anh ta đọc rất nhiều, anh ta có một trí nhớ phi thường. Lối cư xử của anh ta rất khả ái, rất dịu dàng khiến cho sau một thời gian nào đó người ta quên đi cái diện mạo thể chất ít gây được cảm tình của anh ta. Phải làm việc quá sức như Smith, mà anh cũng không thấy anh ta gây khó chịu chút nào; anh đã mau chóng có thói quen về các cuộc thăm viếng của anh ta, và khi có cơ hội anh cũng tới thăm anh ta. Bellingham đúng là một người thông minh không ai chối cãi được tuy nhiên Smith đã phát hiện ở anh ta một đôi chút khùng điên, ít nhất cũng ở bề ngoài. Đôi khi anh ta có những lúc nói năng lưu loát, khoa trương trái ngược hẳn với sự giản dị trong lối sống. Anh ta kêu lên: - Thật là một điều kỳ thú khi cảm thấy rằng ta có thể sai khiến được các quyền lực của điều thiện và điều ác rằng ta có thể là một ông thánh cứu nhân, độ thế hay một ác quỷ của sự hận thù!... Và đối với Monkhouse thì anh ta nói: -... Lee là một anh chàng dũng cảm, một người lương thiện nhưng anh ấy không có nghị lực, mà cũng không có tham vọng. Anh ấy sẽ không phải là người cộng tác tốt cho người nào muốn lập một sự nghiệp lớn lao. Anh ấy không phải là một người cộng tác tốt với tôi. Khi nghe những lời như vậy, anh chàng Smith khỏe mạnh chỉ rít ống píp một cách nghiêm trang và nhường cặp chân mày lên và lắc đầu. Bellingham đã mắc phải một thói quen mà Smith biết là nó biểu lộ một tinh thần suy nhược; anh ta nói liên miên, nói lớn tiếng. Lúc đêm đã khuya, khi không có thể còn khách khứa nào trong phòng anh ta, Smith nghe thấy anh ta nói một mình với một giọng tắc nghẹn trầm xuống gần như tiếng thì thầm, nhưng sự yên lặng ở chung quanh làm cho nghe rõ mồn một. Sự lảm nhảm một mình này làm chàng sinh viên y bực bội quá dện nỗi chàng phải cự nự anh hàng xóm. Bellingham ngượng đỏ mặt trước lời buộc tội và chối phăng là anh ta đã không nói một tiếng nào; thực sự anh ta có vẻ như đang bực bội điều gì đó. Nếu Abercrombie Smith có những nghi ngờ về thính giác của mình thì anh đã không cần phải đi xa hơn nữa để được xác nhận về sự phát hiện của anh. Tom Styles, gã đầy tớ nhỏ bé nhăn nheo là người đã làm việc từ lâu cho ba người khách trọ của cái tháp, cũng thấy bực bội về cùng một vấn đề này. - Thưa ông, - một buổi sáng khi đang quét dọn căn phòng phía trên, hắn hỏi - ông có nghĩ rằng ông Bellingham là khỏe mạnh không ạ? - Khỏe mạnh hả, Styles? - Vâng, thưa ông. Là đầu óc ông ấy ở tình trạng tốt - Và tại sao đầu óc ông ấy lại không ở tình trạng tốt hả? - Thưa ông, tôi thề là tôi không biết gì cả. Từ ít lâu nay ông ấy đã có những chứng cuồng mới. Ông ấy không phải là cùng một con người như ngày trước nữa mặc dù tôi xin được mạn phép nói với ông rằng chưa bao giờ ông ấy hoàn toàn giống như người lịch sự như ông Hastic hoặc như ông vậy. Ông ấy cứ nói chuyện một mình, đó là một điều gì có vẻ đáng sợ. Tôi tự hỏi liệu chuyện đó có làm phiền cho ông không? Thưa ông, tôi không biết nghĩ về ông ấy thế nào đây. - Anh Styles này, tôi không thấy chuyện đó có liên quan gì tới anh cả. - Vâng, thưa ông Smith, đó là vì tôi quan tâm tới thôi! Có lẽ đó là một thiên kiến của tô , nhưng tôi không thể tự ngăn cản để khỏi nghĩ tới việc đó. Đôi khi tôi cảm thấy như tôi là cha mẹ của những vị công tử trẻ trung của tôi. Mọi trách nhiệm đều đổ lên đầu tôi khi có các sự việc chẳng tốt lành và khi các vị phụ mẫu tới thăm, nhưng thưa ông Bellingham, ông... Tôi rất muốn biết một đôi khi có ai đó đi trong phòng của ông ấy - lúc ông ấy ra khỏi và lúc cửa được khóa ở phía bên ngoài. - Vậy hả? Anh nói nhảm nhí rồi Styles ạ! - Có lẽ là thế, thưa ông. Nhưng chính tai tôi đã nghe tiếng động đó hơn một lần nữa. - Chuyện tầm phào, Styles ạ! - Được rồi, thưa ông khi nào ông cần xin bấm chuông gọi tôi. Abercrombie Smith không mấy để ý tới những lời nói của gã đầy tớ lâu năm, nhưng vài ngày sau đó một sự cố nhỏ đã dể lại cho anh một ấn tượng khó chịu và nhắc nhở với anh những lời nói đó một cách mãnh liệt. Bellingham đi lên gặp anh vào một giờ đã muộn, anh ta đang kể cho anh nghe những điều rất thú vị về các ngôi mộ của dòng họ Beni Hassan ở Bắc Ai Cập, thì Smith, vốn là người có cặp tai rất thính, nghe thấy rõ ràng tiếng một cánh cửa mở ra ở tầng dưới. Anh nói với Bellingham: - Có người đi vào hay đi ra khỏi phòng anh. Anh chàng này đứng phắt dậy và cứ chứng yên hoàn toàn bị bối rối trong vài giây; anh ta có vẻ nửa không tin, nửa kinh hãi. - Chắc chắn là tôi đã đóng cửa rồi mà. Tôi hoàn toàn tin chắc là tôi đã đóng cửa - anh ta hổn hển nói - không ai có thể mở được nó. - Này, bây giờ tôi nghe thấy tiếng một người đi lên các bậc thang. Bellingham chạy vội ra cửa, mở cửa, đóng đánh sầm một tiếng sau lưng anh ta và nhẩy xuống cầu thang. Khoảng giữa chừng, Smith nghe thấy anh ta đứng lại, và anh tưởng như bất chợt nghe thấy tiếng nói thì thầm. Một lát sau cánh cửa của tầng dưới đóng lại, một cái chìa khóa cọt kẹt trong ổ khóa, và Bellingham trán đẫm mồ hôi nhỏ giọt, lại lên cầu thang và đi vào trong phòng. - Không có chuyện gì cả - anh ta nói và ngồi phịch xuống một cái ghế - Đó là cái con chó ngốc nghếch. Nó đã đẩy cửa ra. Tôi không biết tại sao tôi lại quên không khóa cửa lại. - Tôi không biết là anh có một con chó, - Smith nói trong khi ngắm nhìn một cách đầy tư lự nét mặt bối rối của người bạn. - Phải. Tôi đã không nuôi chó từ lâu rồi. Tôi sẽ phải vất nó đi, nó làm tôi phiền phức quá. - Tôi thấy hình như đóng cửa mà không khóa lại là chưa đủ, phải không? - Tôi muốn ngăn cản không cho lão Styles để nó chạy ra. Đó là một con vật đắt giá, anh hiểu chứ? Và để mất thì thật là ngốc. - Tôi là một tay chơi tài tử về chó - Smith nói trong khi tiếp tục vẫn liếc mắt quan sát người bạn của mình - Anh có thể vui lòng cho tôi xem con chó đó được không? - Dĩ nhiên là được rồi! Nhưng không phải tối nay, xin anh vui lòng. Tôi có một buổi hẹn. Đồng hồ treo của anh chạy có đúng không? Trời ơi, tôi đã bị trễ mất mười lăm phút rồi! Xin anh tha lỗi cho nhé được không? Anh ta chộp lấy cái mũ và vội vã rời khỏi phòng. Một buổi hẹn à? Smith nghe thấy anh ta trở về phòng và khóa cửa lại ở phía bên trong. Cuộc nói chuyện này đã gây một cảm tưởng không vui cho chàng sinh viên y khoa. Bellingham đã nói dối anh; và nói dối một cách quá vụng về khiến người ta phải nghĩ rằng có những nguyên do rất cấp thiết để che giấu sự thật. Smith biết chắc chắn là anh hàng xóm này không có chó. Anh cũng biết rằng tiếng bước chân trong cầu thang không phải là tiếng bước chân của một con vật. Trong trường hợp này thì là tiếng bước chân của ai? Smith nhớ lại những diều mà lão Styles đã nói với anh về những tiếng động mà hắn bất chợt nghe thấy trong khi người chủ căn phòng vắng mặt. Có thể là một người đàn bà chăng? Smith nghĩ tới giả thuyết này. Nếu sự hiện diện của một người dàn bà bị các giới chức nhà trường phát hiện thì Bellingham sẽ bị đuổi học ngay lập tức; sự cố có thể xảy ra này có thể giải thích được sự lo lắng và sự dối trá của anh ta. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng một sinh viên lại giữ được một người đàn bà trong phòng mình mà không bị phát giác ngay tức thì. Dù cho sự giải thích là thế nào đi nữa, chắc chắn nó cũng không tốt đẹp gì. Smith trở lại với các tập sách của anh, quyết định sẽ làm nản lòng tất cá mọi ý định kết thân mới cua người hàng xóm, một người nói thì rất hay mà hành động thì rất tệ. Nhưng số trời đã định là anh không thể làm việc một cách yên tĩnh buổi tối hôm đó. Anh vừa mới nối xong sợi dây đứt đoạn thì một bước chân nặng nề và chắc chắn leo lên từng ba bậc một trong cầu thang, và Hastie, với áo vét và quần bằng nỉ, chạy xộc vào phòng anh. - Còn làm việc à! - anh ta có kêu lên tuột cách kinh ngạc và ngồi phịch ngay xuống chiếc ghế bành ưa thích của anh ta - người đâu mà chăm học thế? Tôi nghĩ rằng nếu có một trận động đất làm nát bấy thành phố Oxford này, thì anh cũng sẽ chồi lên hoàn toàn bình thản trên những đổ nát, với quyển sách cầm trong tay. Yên tâm đi, tôi sẽ không ngồi lại lâu đâu. Ba hơi thuốc lá thôi, rồi tôi sẽ chuồn đi. - Có tin tức gì không? - Smith vừa hỏi vừa lấy ngón tay trỏ nhấn một chút thuốc lá trong cái píp. - Không có gì quan trọng. À, có đấy! Anh có biết tin Long Norton bị tấn công không? - Không. Bị tấn công à? - Phải. Ngay ở góc đường High Street, cách hàng rào song sắt của trường cao đẳng một trăm mét. - Nhưng bởi ai?... - À, xem đó! Nếu anh nói bởi cái gì và không nói bởi ai, thì anh đã tỏ sự tôn kính hơn đối với ngữ pháp đó. Norton đoan quyết rằng anh ấy không bị tấn công bởi một con người; nhìn những vết xây xước ở cổ họng anh ấy, thú thực là tôi cũng gần tin lời anh ấy nói. - Tóm lại, hãy nói rõ ràng đi! Trò ma quỉ à? Abeciombie Smith phà khói ra với vẻ khinh khỉnh của nhà khoa học. - Không, đúng vậy. Tôi nghĩ rằng một lái buôn nào đó đã bị mất một con khỉ lớn, và con vật này đi lang thang. Norton tối nào cũng đi qua nơi đó, anh biết việc đó chứ gì, và gần như vào cùng một giờ đó, một cái cây có những cành thấp xòa xuống mặt đường: cây du to lớn ở vườn Rainy, Norton tin rằng con vật đã giấu mình và tụt xuống từ trên cây để chồm lên người anh ấy. Anh ấy nói thật sự anh ấy đã bị xiết gần nghẹt thở bởi hai cánh tay cũng mạnh mẽ và cũng mảnh mai như những thanh thép vậy. Anh ấy không trông thấy gì cả. Chỉ có những cánh tay tàn bạo này xiết chặt lấy anh mỗi lúc một mạnh hơn. Anh ấy đã hét lên gần tới nổ cuống họng, và có hai người bạn chạy tới, tới đó thì con vật chạy qua phía bên kia tường như một con mèo. Anh ấy đã không bao giờ nhìn rõ ràng được nó. Dù sao thì anh chàng Norton khốn khổ này cũng bị kinh động một cách kỳ lạ! Tôi đã nói với anh ấy rằng muốn cho khuây khỏa tâm hồn thì cần đi nghỉ tám ngày ở bờ biển. - Một kẻ siết cổ người ta, đúng hệt như vậy? - Smith góp ý - chắc chắn là vậy rồi. Norton đoan chắc là không phải, nhưng mặc kệ những gì anh ấy nói. Kẻ siết cổ đó có những móng tay dài và nó biết nhẩy tường rất giỏi. Hãy nói đi anh hàng xóm hay mê hoặc người khác của anh sẽ thích thú nếu hắn ta biết được chuyện này. Hắn ta có mối hận với Norton, và tôi không tin rằng hắn ta là người quên được những món nợ ấy. Nhưng này, này! Ành bạn già, cái gì chạy qua đầu anh thế? - Không có gì cả... - Smith trả lời với giọng thô lỗ. Anh giật nẩy người lên trên ghế bành, hai mắt mở to ra làm như đầu óc anh đang có một ý nghĩ khó chịu chạy ngang. - Người ta có thể nói rằng mẩu chuyện nhỏ của tôi đã làm anh nổi nóng phải không? Tiện thể đây tôi hỏi, anh đã quen ông B. từ khi tôi gặp anh phải không? Gã thanh mền Monkhouse Lee đã nói một cách mơ hồ về chuyện đó với tôi. - Phải. Tôi biết anh ấy nhiều hơn đôi chút. Anh ấy đã lên đây hai hay ba lần. - Hà, anh cũng khá to con và khá nhanh nhẹn để tự lo liệu cho mình Hắn không phải thứ người mà tôi gọi là thanh niên lành mạnh, nhưng tóm lại thì hắn rất thông minh, và phần còn lại. Đó, anh sẽ tự mình phát hiện ra tất cả. Lúc là một anh chàng tốt một thanh niên rất dũng cảm. Tạm biệt, anh bạn thân. Thứ Tư sau tôi sẽ chèo thuyền thi với Mullins để tranh giải thưởng của ông phó viên trưởng, nếu anh tới được thì điều này làm tôi vui thích. Với sự bướng bỉnh đầu bò, đầu bướu, Smith chặt píp xuống và cầm lại những quyển sách. Nhưng dù với ý chí mạnh nhất trong đời, anh vân cảm thấy thật khó mà nghĩ tới những điều anh đang đọc, lúc nào tâm trí anh cũng lãng đãng về phía anh hàng xóm ở tầng dưới và về sự bí ẩn tại căn hộ của anh ta. Rồi anh lại nghĩ tới vụ tấn công mà Hastie vừa kể lại với anh, và về mối hận thù mà hình như Bellingham đã nhằm vào nạn nhân. Hai ý nghĩ này không ngừng trộn lộn với nhau trong đầu óc anh, như có một sợi dây chặt chẽ kết nối chúng lại với nhau. Tuy nhiên, sự nghi ngờ thật quá mơ hồ, quá mù mờ khiến nó không thể diễn tả bằng lời nói được. - Quỉ bắt thằng cha Billingham ấy đi? - Smith kêu lên và ném quyển sách về bệnh lý của anh sang góc phòng bên kia - Hắn đã làm mất buổi tối làm việc của tôi; đây đã là một lý do đầy đủ để cho tôi không còn vướng víu với con người của hắn nữa? Trong mười ngày, chàng sinh viên y khoa đã đắm mình một cách quá trọn vẹn vào việc học hành đến nỗi anh không nhìn thấy và cũng không nghe thấy một anh hàng xóm nào. Vào những giờ mà Bellingham có thói quen tới thăm anh thì anh đã thận trọng khóa cửa lại, và ngay cả khi nghe thấy tiếng gõ anh cũng không mở cửa. Tuy nhiên, một buổi nhiều, anh bước xuống cầu thang, và ngay lúc anh đi qua cửa phòng của Bellingham, thì thấy cánh cửa mở toang, chàng thanh niên Monkhouse Lee ở trong đi ra, mắt tóe lửa và hai má đỏ ửng vì giận dữ. Bellingham chạy theo sau; cái mặt to bè nhưng ốm yếu của anh ta run run vì nóng giận. Anh ta la lớn: - Đồ ngốc! Rồi anh sẽ hối tiếc về việc này! - Rất có thể - anh kia trả lời - Hãy nhớ lấy những diều tôi đã nói với anh: thế là hết rồi? Tôi không muốn nghe nói những chuyện đó! - Anh đã hứa với tôi trong mọi tình huống... - À, anh cứ yên tâm! Tôi sẽ không nói đâu, nhưng tôi muốn thà là con nhỏ Eva chết đi còn hơn. Chỉ một lần thối, thế là hết! - Nó sẽ làm điều mà tôi nói. Chúng tôi không còn muốn nhìn thấy anh, không bao giờ nữa. Smith không thể tránh khỏi phải nghe cuộc đối thoại này, nhưng anh rảo bước, vì anh không muốn bị lôi cuốn vào cuộc tranh cãi của họ một chút nào. Họ hục hặc với nhau một cách nghiêm trọng, việc này đã rõ ràng, và Lee sẽ khơi ra sự tan vỡ cuộc đính hôn của em gái anh ta với Bellingham. Nhớ lại sự so sánh của Hestie con cóc và con bồ câu, Smith thấy toại nguyện với giải đáp này. Cái đầu của Bellingham khi giận dữ thật khó coi. Thật tình một cô thiếu nữ thơ ngây sẽ lầm lỗi rất nhiều khi phó thác đời mình cho anh ta. Vừa đi Smith vừa tự hỏi nguyên nhân cuộc cãi lộn là cái gì, và tính chất của lời hứa mà Bellingham đã khẩn thiết nhắc nhở Mankhouse Lee có thể là việc gì. Hôm ấy là ngày có cuộc thi chèo thuyền giữa Hastie và Mullins và rất nhiều người đi về phía sông Jsis. Mặt trời tháng năm chói lọi và hun nóng không khí; những cây du phóng ra những vệt bóng đen trên con đường màu vàng. Ở hai bên đường là những bức tường của trường cao đẳng màu xám, từ trong đó đi ra các vị giám thị mặc đồ đen, những vị giáo sư đạo mạo, những chàng thanh niên xanh xao, những vận động viên da bóng như đồng mặc áo thun trắng hay áo vét sặc sỡ nhiều màu. Tất cả mọi người đều vội vã đi về phía con sông màu xanh, con sông vạch những nét quanh co giữa các cánh đồng của Oxford. Abercrombic Smith, với trực giác của một tay bơi thuyền lảo luyện, đã chọn chỗ đứng ở nơi mà anh biết chắc là cuộc thi đấu sẽ diễn ra. Từ đằng xa, một tiếng ồn ào dữ dội báo cho anh biết rằng lệnh khởi hành đã được phát ra, anh nghe thấy tiếng hò la ầm ĩ loan báo sự tới gần của các đấu thủ: nhiều người chạy đi, các khán giả theo dõi cuộc đua bằng tàu thủy thì la hét. Nhìn tới sái cổ, Smith mới thấy Hastie với tay chèo đều đặn ở nhịp ba mươi sáu, đã vượt trước Malhns một đoạn dài, trong khi anh này chèo một cách không đều tay ở nhịp bốn mươi. Sau khi tung ra tiếng hoan hô dành cho người bạn của mình anh lấy đồng hồ ra xem, và anh sắp đi trở lại con đường trở về căn hộ thì anh cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình chàng trai Monkhouse Lee đang đứng cạnh anh. - Tôi đã trông thấy anh, - anh ta nói với một giọng vừa ngại ngần vừa khẩn khoản - Tôi muốn nói chuyện với anh, nếu anh có thể dành cho tôi một nửa giờ. Cái nhà nhỏ này là của tôi, tôi ở chung với Harrington, mời anh tới uống trà với tôi. Smith đáp: - Tôi phải về nhà ngay bây giờ, trong lúc này tôi đang nướng bánh trên vỉ. Nhưng tôi sẽ vui lòng dành cho anh mấy phút. Nếu Hastie không phải là người bạn chí cốt thì tôi đã không ra đây. - Anh ấy cũng là bạn của tôi. Anh ấy có một lối chèo tuyệt vời phải không? Mullins không phải là đối thủ, nhưng hãy vào đây. Chỗ tôi ở không được rộng rãi, nhưng tôi thấy thoải mái khi làm việc ở đây trong những tháng hè. Đó là một căn nhà nhỏ, trắng và vuông vắn, với một cửa lớn và những cánh cửa màu xanh lá cây và một cái cửa ngăn cổ lỗ, ở cách con sông chừng năm chục mét. Bên trong căn nhà, phòng chính được bầy biện một cách thô kệch để làm phòng học: một cái bàn bằng gỗ mộc, những cái kệ dã phai màu chất đầy sánh, một vài bức tranh loại rẻ tiền ở trên tường. Một ấm đun nước đang sôi réo lên trên cái bếp cồn, và một cái khay để uống trà trên bàn. - Mời anh ngồi xuống cái ghế này và lấy thuốc lá hút đi - Lee nói - Tôi đi rói cho anh một chén nước trà. Anh quá bộ tới đây thật là quí hóa, vì tôi biết là anh rất bận rộn. Tôi muốn nói với anh rằng nếu ở địa vị anh thì tôi đã dọn đi ngay tức khắc. - Hả? Smith nhìn anh ta, một tay cầm que diêm đang cháy, và tay kia cầm điếu thuốc lá. - Phải. Điều này có vẻ kỳ dị đối với anh, và tệ hơn nữa là tôi không thể nói rõ lý do với anh, vì tôi bị ràng buộc bởi một lời hứa thiêng liêng. Phải, một lời hứa rất thiêng liêng. Tuy nhiên tôi cũng có thể tự cho phép mình nói với anh rằng tôi không tin là Bellingham là một kẻ mà ở bên hắn, ta có thể sống trong sự an toàn. Tôi có ý định cắm trại ở đây càng lâu càng tốt trong một thời gian. - Không có an toàn à? Anh muốn nói gì? - A, đó là điều mà tôi không thể giải thích Nhưng xin anh hãy theo lời khuyên của tôi, và rời khỏi căn hộ của anh. Hôm nay chúng tôi vừa có một vụ cãi lộn lớn với nhau. Chắc anh đã nghe thấy chúng tôi cãi nhau, vì lúc đó anh đang đi xuống cầu thang. - Tôi đã trông thấy các anh đang cãi vã. - Đó là một thằng cha đáng ghét, anh Smith ạ! Đó là một từ duy nhất thích hợp với hắn. Tôi đã có những nghi ngờ về hắn từ buổi tối mà hắn ngất xỉu đi. Anh còn nhớ chứ: buổi tối mà tôi đến tìm anh đó. Hôm nay tôi hỏi lại hắn về tối hôm đó, và hắn đã nói với tôi những chuyện làm tôi rợn tóc gáy lên. Hắn muốn tôi cộng tác với hắn. Tôi không phải là người lên mặt đạo mạo, nhưng tôi là con trai của một mục sư, anh biết đấy và tôi tin rằng có những hành động không bao giờ được làm. Tôi cầu xin Thượng Đế cho hắn tỉnh ngộ trước khi đã quá muộn, vì hắn sẽ lấy vợ là người trong gia đình tôi. - Tất cả việc đó đến rất tốt đẹp, Lee ạ - Abercrombie Smith nói. - Nhưng hoặc là anh đã nói với tôi quá nhiều vì chuyện đó, hoặc là anh đã nói với tôi quá ít vì chuyện đó. - Tôi đưa ra cho anh một lời cảnh báo. - Nếu đã có một lý do xác đáng cho lời cảnh báo đó, thì không một lời hứa nào có thể ràng buộc được anh ta. Nếu tôi trông thấy một tên cướp sắp sửa làm nổ tung một cái nhà bằng thuốc nổ, thì không có gì ngăn cản được tôi làm đủ mọi cách để tên cướp không thực hiện được ý đồ của nó. - À, nhưng tôi không thể làm được việc gì để hắn bị thất bại. Tôi chỉ có thể cảnh báo anh thôi. - Mà không nói rõ là anh bảo tôi phải đề phòng cái gì? - Đề phòng Bellingham đó. - Thật là chuyện con nít! Tại sao tôi phải sợ hắn chức hắn hay bất cứ kẻ nào khác? - Tôi không thể nói điều đó với anh. Tôi chỉ có thể khuyên anh nên dọn đi. Nơi mà anh đang ở, anh gặp nguy hiểm đó. Tôi cũng không nói rằng Bellingham muốn hại anh. Nhưng sự bất hạnh sẽ có thể xảy tới cho anh, vì bây giờ hắn là một người hàng xóm nguy hiểm. - Có lẽ tôi còn biết về hắn nhiều hơn là anh nghĩ, - Smith vừa nói vừa quan sát vẻ mặt non nớt nhưng nghiêm trang của cậu thanh niên, - Hãy giả thiết rằng tôi nói với anh là có một người nào khác đang ở căn hộ của Bellingham... Monkhouse Lee run người lên dưới hiệu ứng một sự kích động không thể kiềm chế được. Anh ta ấp úng hỏi: - Anh cũng biết à? - Một người đàn bà phải không? Lee ngồi phịch xuống ghế, miệng thốt ra một tiếng. Anh ta nói: - Môi tôi bị gắn kín rồi. Tôi không được nói. - Được, dù sao đi nữa, - Smith dõng dạc nói và đứng dậy, - thật là khó tin được rằng tôi lại để tự mình hoảng sợ đến nỗi phải rời bỏ một nơi cư ngụ hoàn toàn thích hợp với tôi. Về phần tôi thì đó là một sự đớn hèn lớn lao nếu tôi dọn đi chỉ vì cái cớ mà anh xác nhận là Bellingham sẽ có thể làm hại tôi theo một cách thức không ai biết là gì. Tôi nghĩ là tôi sẽ chấp nhận các rủi ro và tôi sẽ ở lại chỗ tôi đang ở; tôi thấy hình như gần năm giờ rồi, tôi xin anh thứ lỗi cho. Anh cáo từ chàng sinh viên trẻ và trở về cái tháp nhỏ của mình, lòng nửa hồi hộp, nửa vui thích, giống như tất cả mọi người đàn ông khỏe mạnh và ít trí tưởng tượng khi bị đe dọa bởi một sự hiểm nguy mơ hồ. Mặc dù sự cấp bách của công việc đang làm, bao giờ Abererombie Smith cũng tự ban cho mình một điều ham thích nho nhỏ. Mỗi tuần hai lần, ngày thứ Ba và thứ Sáu, anh đi bộ tới tận Farlington, nơi cư ngụ của bác sĩ Plumptru Peterson, ở cách Oxford hai cây số rưỡi. Peterson là một người bạn thân của người anh cả của Smith, Francis; ông ta sống độc thân, giàu có với một hầm rượu ngon và một tủ sách còn quý hơn nữa; ngôi nhà của ông ta là một cái đích thích thú cho những tay đi bộ tài tử; mỗi tuần hai lần, chàng sinh viên y khoa dấn bước vào những con đường tối tăm của miền quê và sống một giờ thoải mái trong phòng làm việc đầy đủ tiện nghi của ông Peterson để nói huyên thuyên, trên một cốc rượu mùi về những chuyện vớ vẩn mới nhất ở trường đại học, hoặc về những tiến bộ gần đây nhất của y học và của khoa giải phẫu. Buổi tối hôm sau cái ngày mà anh đã nói chuyện với Monkhouse Lee, Smith gấp sách lại vào lúc 8 giờ 15; đó là giờ mà anh có thói quen đi tới nhà người bạn. Lúc rời khỏi phòng tình cờ anh nhìn thấy một trong những quyển sách mà Bellingham đã cho anh mượn, và anh cảm thấy áy náy là đã chưa trả lại anh ta. Dù người đó có đáng ghét như thế nào đi nữa, anh ta cũng không đáng để cho mình thiếu phép xã giao Anh cầm lấy quyển sách, đi xuống cầu thang và gõ cửa phòng anh hàng xóm. Không có tiếng trả lời. Anh xoay nắm cửa và nhận thấy cánh cửa không khóa. Khoan khoái vì viễn tượng tránh dược một cuộc nói chuyện, anh nhẹ bước đi vào bên trong và đặt quyển sách cùng vời tấm danh thiếp của anh lên trên bàn ở chỗ dễ nhìn thấy. Ngọn lửa của cây đèn đã bị vặn nhỏ xuống, nhưng Smith cũng có thể nhìn khá rõ ràng các chi tiết của căn phòng. Căn phòng không có gì thay đổi: tấm màn treo trên trần những cái đầu thú vật, con cá sấu và cái bàn bề bộn giấy tờ và lá cây phơi khô. Cái hòm đựng xác ướp được dựng vào tường (nhưng cái xác ướp không có ở bên trong). Anh không nhìn thấy một dấu vết nào của một kẻ thứ hai cư ngụ trong căn phòng, và anh vừa đi ra vừa tự nghĩ là có lẽ anh đã bất công với Bellingham. Nếu anh này muốn giữ kín một điều bí mật tội lỗi thì anh ta đã không để ngỏ cửa phòng, mặc cho ai tới thì tới. Cần thang xoáy trôn ốc tối đen như mực. Smith đi xuống một cách thận trọng những bậc thang gồ ghề, thì bỗng nhiên anh thấy có người vừa đi ngang qua anh trong bóng tối. Anh nhận ra một tiếng động nhỏ, một sự chuyển động không khí, một cái chạm nhẹ vào khuỷu tay anh, cái chạm nhẹ quá khiến anh tự hỏi có phải là anh đang mơ ngủ chăng. Anh dừng bước và lắng tai nghe, nhưng gió thổi rì rào trong cây trường xuân, và anh không thể nghe được tiếng gì khác. Anh la lớn: - Có phải anh không, Styles? Không có tiếng trả lời, phía sau anh tất cả đều im lìm và lặng lẽ; chắc chắn đây là một luồng gió, vì trong cái tháp cũ kỹ này không thiếu gì những khe nứt. Tuy nhiên, anh tin chắc là anh đã nhận thấy tiếng bước chân đi gần sát chỗ anh. Lúc anh đi ra tới sân, bụng đang suy nghĩ vê sự cố này, thì một người băng ngang qua bồn cỏ chạy tới. - Có phải anh đấy không, Smith? - Chào Hastie. - Vì lòng thương của Thượng Đế, anh đến ngay đi? Anh chàng Lee bị chết đuối. Harrkington báo cho tôi tin đó. Y sĩ đi mất rồi. Chỉ cần anh là đủ. Nhưng chạy nhanh lên, anh bạn già! Có lẽ anh ta còn chưa chết hẳn. - Anh có rượu cô nhắc không? - Không. - Để tôi đi kiếm rượu. Trên bàn của tôi có một chai. Smith leo bốn bậc một của ba tầng nhà, cầm lấy chai rượu, và chạy xuống cầu thang; nhưng khi anh đi qua cửa phòng Bellingham, anh thấy một vật gì làm anh đứng không nhúc nhích được trên đầu cầu thang, miệng thở hổn hển. Cái cửa mà anh đã đóng lại khi đi ra thì bây giờ bỏ ngỏ, và ngay trước mặt anh, dưới ánh sáng của ngọn đèn, là cái hòm đựng xác ướp. Trước đây ba phút, cái hòm trống rỗng. Anh sẵn sàng thề về sự việc này. Bây giờ thì nó bao kín cái xác gầy ốm của gã khách trọ đáng sợ đang đứng, hung hiểm và cứng đờ, với cái mặt co rúm quay ra cửa và có vẻ như không còn sự sống. Nhưng Smith có cảm tưởng là, cứ nhìn mãi vào bộ mặt đó nó còn tích tụ được một tia sinh khí, một dấu hiệu mơ hồ của ý thức trong cặp mắt nằm phía sau những hốc mắt trống rỗng. Anh quá đỗi kinh hoàng về việc này đến nỗi quên luôn tai nạn của Monkhouse Lee; anh ở nguyên đó, đứng như trời trồng trước cái cửa mở ngỏ, hai mắt dán chặt vào cái xác trơ xương đó; tiếng nói của người bạn gọi anh trở về với thực tế. Anh bạn kêu to: - Mau lên, Smith! Đây là vấn đề sinh, tử, anh bạn già ạ! Nhanh chân lên! Khi chàng sinh viên y khoa ra tới ngoài sân, anh ta nói thêm: -... Ta cùng chạy mau đi. Chưa đến một ngàn năm trăm mét. Ta phải tới đó trong năm phút. Một mạng sống đáng để cho ta chạy như khi đoạt một kỷ lục về tốc độ. Sát cánh nhau, họ lao mình đi trong đêm tối, và họ chỉ dừng lại trước cửa căn nhà nhỏ, khi đã hết hơi và kiệt sức. Anh chàng trai trẻ Lee, mình ướt đẫm nước nom như một cái cây nhỏ mọc dưới nước bị gẫy rập, được đặt nằm dài trên cái tràng kỷ; trong tóc anh ta còn thấy chất bọt xanh lục của nước sông, và một ít bọt trắng trên cặp môi xám như chì. Quỳ ở bên anh ta, Harrington, người bạn cùng phòng, đang cố gắng làm nóng lại chân tay cứng đơ của anh ta. Sau khi đặt bàn tay lên tim của Lee, Smith nói: - Tôi nghĩ là anh ấy còn sống. Hãy áp mặt kính đồng hồ của anh vào môi anh ấy đó. Phải, có hơi nước trên mặt đồng hồ. Hastie à, hãy nắm lấy một cánh tay. Bây giờ hãy làm như tôi, và chẳng bao lâu ta sẽ làm anh ấy hồi tỉnh. Trong mười phút họ cùng làm những động tác nhằm làm cho ngực của Lee phồng lên và xẹp xuống, rồi cơ thể anh ta rung động đôi môi run rẩy, và anh ta mở mắt ra, ba chàng sinh viên lúc đó bừng lên một mềm vui không thể kìm hãm dược. - Tỉnh dậy đi, anh bạn già. Anh đã làm chúng tôi sợ hãi. - Một chút cô nhắc! Hãy uống một hớp trong cái chai. - Tốt lắm rồi. - người bạn đồng phòng Harrkington nói lớn. - Lạy Chúa, tôi đã sợ hãi biết chừng nào. Tôi đang đọc sách ở đây, anh ấy đi ra ngoài để dạo một vòng ở phía con sông; tôi nghe thấy một tiếng kêu và. tiếng ngã xuống nước. Tôi chạy ngay ra, lúc tôi tìm ra anh ấy và vớt anh ấy lên thì hình như sự sống đã rời bỏ anh ấy. Và Simpsin không thể chạy đi tìm một y sĩ, vì hắn bị què; lúc đó tôi phải chạy thật nhanh. Các bạn ạ, không có các bạn thì tôi không biết sẽ phải làm thế nào. Mọi sự tốt lành, anh bạn già ạ. Ngồi dậy đi! Monkhouse Lee chống hai tay ngồi dậy, nhìn quanh anh hỏi: - Việc gì xảy ra thế? Tôi bị ướt đẫm thế này. À, phải rồi. Tôi nhớ ra rồi. Sự sợ hãi hiện ra trong mắt anh; anh úp mặt vào hai bàn tay. - Làm thế nào mà anh lại ngã xuống nước? - Tôi không bị ngã. - Thế nào? - Tôi đã bị quăng xuống nước. Tôi đang đứng trên bờ; tôi đã bị nâng bổng lên từ đằng sau và bị ném xuống sông. Tôi đã không trông thấy gì cả, tôi đã không nghe thấy gì cả. Nhưng mặc dù vậy tôi cũng vẫn biết đó là cái gì. - Tôi cũng vậy! - Smith nói lẩm bẩm. Lee liếc sang anh một cái nhìn kinh ngạc. - Vậy là anh cũng biết chuyện à? Anh còn nhớ lời khuyên của tôi nói với anh chứ? - Có, và tôi bắt đầu nghĩ là tôi sẽ theo lời khuyên của anh. Hastie nói: - Tôi không biết là anh nói cái gì; nhưng nếu tôi là anh thì tôi bắt buộc Lee phải nằm xuống ngay. Khi nào anh ấy khỏe lại, ta sẽ có thì giờ để bàn về lý do tại sao và sự việc thế nào. Anh Smith ạ, tôi nghĩ là chúng ta có thể để anh ấy ở lại một mình lúc này. Tôi trở lại trường học, nếu anh cũng di đường ấy thì chúng ta sẽ có thể nói chuyện phiếm một lát. Cuộc nói chuyện phiếm rất mau lẹ, Smith rất bận tâm về các sự cố trong buổi tối: sự vắng mặt cái xác ướp trong phòng khách của gã hàng xóm, sự động chạm phớt qua mà anh cảm thấy trong cầu thang, sự tái hiện không thể giải thích được và kỳ quái của cái xác ướp đáng sợ, rồi tới cuộc tấn công vào Lee đã giống một cách quá kỳ dị với cuộc tấn công trước đây vào Norton (hai kẻ thù của Bellingham). Anh xoay di đảo lại những dữ kiện này trong đầu óc, cung như những chi tiết nhỏ đã khiến anh khó chịu với anh chàng hàng xóm và những tình huống không bình thường đã bắt buộc anh phải đến phòng của anh ta lần đầu tiên. Những gì trước kia chỉ là một sự nghi ngờ mơ hồ, đầy tưởng tượng, thì nay bỗng nhiên đã thành hình, hiện ra trong trí óc anh dưới hình dạng một sự việc không thể chối cãi được. Tuy nhiên, một sự việc mới quái gở làm sao! Một sự việc chưa từng có bao giờ? Ở ngoài tất cả mọi tưởng tượng của con người. Một vị quan tòa vô tư, ngay cả đến một người bạn đi theo sát bên anh, đều sẽ nói một cách đơn giản rằng cặp mắt anh đã lừa dối anh rằng cái xác ướp lúc nào cũng nằm trong cái hòm của nó, rằng cậu trai Lee bị ngã xuống nước vị bất cẩn, và rằng những viên thuốc màu xanh là vị thuốc tuyệt hảo cho một buồng gan không hoạt động tốt. Anh cảm thấy anh cũng sẽ nói như vậy nếu cái ngôi vị được thay đổi ngược lại. Tuy nhiên anh có thể đoan chắc rằng kỳ thực Bellingham là một kẻ sát nhân, và hắn ta có một loại khí giới mà chưa bao giờ có ai sử dụng trong lịch sử của tội ác. Hastie đã từ biệt anh để trở về phòng, không quên làm anh nhức óc bởi những lời bình phẩm nghiêm ngặt và khoa đại về sự thiếu xã giao của người bạn hàng xóm của anh. Abercrombie Smith đi ngang qua cái sân, và khi đi về phía cái tháp nhỏ, anh cảm thấy một mối ác cảm dữ dội đối với các căn hộ và những người ở trọ. Anh sẽ theo lời khuyên của Lee và sẽ dọn đi càng sớm càng tốt vì làm sao mà anh có thể làm việc được nếu lúc nào tai anh cũng phải căng ra để rình nghe bất cứ một tiếng thầm phào nào hay một tiếng bước chân nhẹ nhất trong căn phòng bên dưới? Anh nhận thấy rằng cửa sổ của Bellingham còn thắp đèn sáng. Khi anh đi qua trước cửa phòng hắn, thì cánh cửa mở ra và Bellingham bằng xương bằng thịt bước tới chỗ anh. Với cái mặt béo phị và hung ác, anh ta có dáng bộ một con nhện mập mạp từ trong mạng tơ giết người đi ra. Anh ta nói: - Xin chào! Anh có muốn vào chơi không? - Không! - Smith hét lên với một giọng hung hãn. - Không à? Lúc nào cũng bận rộn như thế phải không? Tôi muốn hỏi thăm anh về tin tức của Lee. Tôi rất buồn nghe tin tai nạn xảy ra với anh ấy. Anh ta có một vẻ mặt nghiêm trọng; nhưng trong khi nói hai mắt anh ta sáng ngời một sự mãn nguyện được che giấu một cách vụng về; Smith nhìn thấy điều đó; suýt nữa thì anh chồm lên người anh ta. Anh đáp lại: - Anh sẽ còn buồn hơn nữa khi biết rằng Monkhouse Lee rất khỏe mạnh và anh ấy đã hoàn toàn thoát khỏi hiểm nguy. Lần này thì các thủ đoạn quỷ quái không thành công rồi. Ồ, vô ích thôi, đừng cố làm ra vẻ bạo dạn nữa! Tôi đã biết hết rồi. Bellingham lùi lại một bước trước chàng sinh viên đang nổi giận, và anh ta khép cái cửa lại một nửa hình như để tự bảo vệ. Anh ta nói: - Anh điên à! Những lời anh nói là nghĩa làm sao? Anh có ý cho rằng tôi có liên can tới vụ tai nạn của Lee? Smith gầm lên: - Phải! Anh và cái bao xương phía sau anh kia kìa. Chính anh đã bày mưu lập kế tất cả vụ này. Tôi sẽ nói cho anh rõ việc này, ông B. ạ? Bây giờ người ta không còn thiêu sống những kẻ thuộc loại người như anh, nhưng người ta còn các cột xử giảo và những đao phủ, và xin thề có thánh Geoges, nếu bất cứ một người nào trong trường học bị chết vì tai nạn trong khi anh ở đây là tôi sẽ cho bắt giữ anh, và nếu anh không bị treo lủng lẳng ở đầu một sợi dây thừng, thì dó không phải lỗi ở tôi, hãy tin tôi đi! Anh sẽ thấy rằng những thủ phạm dê hèn kiểu Ai Cập không có hiệu lực ở nước Anh này. - Anh là một thằng điên nói mê sảng! - Được lắm! Chỉ cần anh nhớ lấy những điều tôi đã nói với anh; nếu không, anh sẽ có thể nhận thấy rằng tôi là một kẻ giữ lời hứa! Cánh cửa đóng sập lại; Smith tức giận điên cuồng, đi lên phòng mình đóng và khóa cửa lại, rồi thức suốt một nửa đêm hút cái píp cũ kỹ làm bằng rễ cây của anh để suy nghĩ về các biến cố kỳ quặc trong buổi tối. Sáng hôm sau Abercrombie không nghe thấy động tĩnh gì trong căn hộ của gã hàng xóm; nhưng buổi chiều thì Harrkington tới gặp anh để báo tin rằng Lee đã gần như hoàn toàn hồi phục. Suốt cả ngày Smith đã làm việc như một kẻ điên khùng; lúc chiều tối, anh quyết định đi thăm người bạn là bác sĩ Peterson, nơi mà anh đã muốn tới trước đây hai mươi bốn giờ. Một cuộc đi dạo và một buổi chuyện trò thân mật sẽ rất bổ ích cho các dây thần kinh đang căng thẳng của anh. Cửa phòng của Bellingham đóng kín; nhưng khi anh quay đầu lại ở trong sân, nơi cách cái tháp nhỏ một khoảng ngắn, anh trông thấy một bên đầu của gã hàng xóm ở cửa sổ; ánh sáng ngọn đèn soi rõ toàn thể người anh ta, mặt anh ta đang áp sát vào cửa kính, làm như đang nhìn xoi mói vào khoáng tối tăm. Tránh xa tình trạng quái gở của anh ta, dù chỉ là trong một vài giờ, cũng là một điểm hay! Smith rảo bước đi, hít thở không khí mùa xuân căng đầy buồng phổi. Vành trăng một nửa nhô lên ở phía tây giữa hai tháp chuông kiểu gô tích. Một cơn gió mát nhẹ nhàng đẩy những đám mây nhỏ ùn ùn như những nắm bông trên trời. Trường cao đẳng tọa lạc ngoài rìa thành phố, chả mấy chốc Smith đã thấy mình đi giữa những hàng rào trên con đường nhỏ của thị trấn Oxfordshire thơm ngát mùi hương của ngày hè. Con đường nhỏ ít người qua lại, như con đường dẫn tới nhà của bạn anh? Tuy đêm chưa khuya mà Smith chẳng gặp một người nào. Anh đi tới trước tầm lưới sắt mở vào lối đi dài lát sỏi dẫn lên tới Farlingford. Trước mặt anh, anh nhìn thấy những ánh sáng đỏ và dịu dàng của các cửa sổ lập lòe qua lớp lá cây. Anh dừng lại, một bàn tay đặt lên sợi dây xích sắt của tấm lưới sắt và anh quay lại nhìn con đường nhỏ mà anh vừa đi qua một vật gì đang di chuyển rất nhanh, đang chạy tới phía anh đứng. Đó là một hình thù đen sẫm, lom khom lướt đi dưới bóng tối của hàng rào, một cách lặng lẽ và lén lút trên cái nền đen kịt này, thật khó mà nhìn thấy nó. Trong lúc anh quan sát nó, thì nó đã rút ngắn dược hai mươi bước khoảng cách giữa nó và anh. Nó đang làm một cuộc săn đuổi anh. Từ trong bóng tối âm u hiện ra một cái cổ trơ xương và hai con mắt mà anh ghi mãi trong ký ức cho tới khi lìa bỏ cõi đời. Anh quay người lại thốt lên một tiếng kêu kinh hoàng, và lao người vào lối đi với tất cả tốc độ của đôi chân. Ở cuối lối đi có những ánh sáng màu đỏ, sự an toàn không còn bao xa. Smith là một chân chạy cừ khôi; chưa bao giờ anh lại chạy nhanh đến như tối hôm nay. Tấm lưới sắt nặng nề đã khép lại sau lưng anh, nhưng anh nghe thấy nó lại mở ra dưới sức đẩy của kẻ đuổi theo anh. Vừa chạy một cách điên cuồng, anh vừa lắng tai nghe tiếng động nhỏ, khô khan của những bước chân vội vã đang mỗi lúc mỗi tới gần anh. Anh ngoái cổ nhìn lại phía sau: con quái vật nhảy chồm lên đuổi theo bén gót anh như một con cọp với cặp mắt tóe lửa và một cánh tay đầy gân chằng chịt đã duỗi thẳng ra để túm lấy anh, may thay, cái cửa lại mở hờ hờ: Anh nhìn thấy một vệt sáng mỏng manh của ngọn đèn trong đại sảnh chiếu xuống. Tiếng bước chân đã vang lên ngay đằng sau anh. Anh nghe thấy một thứ tiếng gì cộc cộc ngay sát vai anh. Anh vừa hét lên vừa lao sang phía bên kia cánh cửa, sập cửa và cài chốt lại, rồi anh gục xuống, nửa tỉnh nửa mê trên cái ghế bành ở lối ra vào - Đội ơn trời đất, Smith? Chuyện gì đã xảy ra? - Peterson hỏi khi ông vừa xuất hiện trên bậc cửa phòng làm việc của ông. - Cho tôi xin một ly cô nhắc! Peterson đi khỏi để rồi lại trở ra một lát sau đó với một cái cốc và một cái bình pha lê. - Anh cần có rượu - ông vừa nói vừa nhìn khách uống một hơi cốc rượu mà ông vừa rói. - Trời ơi, anh bạn trẻ, trông anh trắng bệch như là một cục phô mai ấy? Smith để cái cốc xuống, đứng lên, và hít vào một hơi dài. Anh nói: - Tôi đã hoàn hồn rồi. Chưa bao giờ tôi để mình bị đánh ngã gục như thế này nhưng ông Peterson ạ, xin ông cho phép tôi được ngủ lại ở đây đêm nay, vì tôi không tin rằng tôi sẽ có thể mạo hiểm trên con đường này trừ khi vào lúc ban ngày. Chắc chắn đó là một sự hèn nhát; nhưng tôi không thể làm gì hơn được. Peterson chăm chú nhìn anh với một con mắt dò hỏi. - Tất nhiên rồi, nếu anh thích thì anh cứ ngủ ở đây. Tôi sẽ bảo bà Barney thu xếp giường để anh nằm nghỉ. Bây giờ anh đi đâu? - Xin ông hãy cùng tôi lên chỗ cái cửa sổ nằm trên cái cửa ra vào. Tôi muốn cho ông nhìn thấy điều gì mà tôi đã trông thấy. Họ cùng đứng ở chỗ cửa sổ từ nơi đó họ có thể quan sát các nơi xung quanh căn nhà. Con đường đi, những cánh đồng nằm hai bên con đường đều yên tĩnh và lặng lẽ dưới ánh trăng. Peterson nói thì thào: - Smith à, thực sự ra tôi biết rõ rằng anh không bao giờ uống đến say mà. Vậy thì cái gì đã làm anh sợ hãi quá đến thế? - Tôi sẽ nói cho ông biết. Nhưng nó đã có thể đi đâu nhỉ? À, chú ý nhìn kìa! Nhìn đi! ông nhìn thấy chỗ ngoẹo của con đường chứ, ngay bên ngoài tấm lưới sắt của ông đó? - Có, tôi nhìn thấy. Anh không cần phải nhéo tay tôi Tôi trông thấy một người đi qua. Tôi nghĩ rằng đó là một người đàn ông có vẻ gầy còm, và cao lớn, rất cao lớn. Nhưng hắn là ai chứ? Và hắn có gì liên hệ với anh? Anh run rẩy như một cái lá liễu vậy? - Chỉ cách hai ngón tay nữa là tôi đã bị con quỷ này chộp được, đó là tất cả câu chuyện. Nhưng ta hãy xuống phòng làm việc của ông, tôi sẽ kể tất cả câu chuyện cho ông nghe... Anh kể lại câu chuyện. Dưới ánh đèn sáng, một cốc rượu trong tay, trước vẻ mặt tươi cười của người bạn, anh thuật lại tất cả mọi biến cố lớn và nhỏ đã hên tiếp xảy ra một cách quá bất thường. Rồi anh kết luận: -... Sự việc như thế đấy! Nó thật là quái dị, không thể tin dược, nhưng lại là có thật. Bác sĩ Plumptree Peterson vẫn ngồi yên không nói gì, rõ ràng là ông rất băn khoăn... Rồi ông nói: - Tôi chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như vậy, chưa từng bao giờ! Anh đã cho tôi biết các sự việc. Bây giờ xin anh cho tôi biết sự suy diễn của anh. - Ông chỉ cần lấy ra những sự suy diễn của chính ông thôi! - Phải, nhưng tôi muốn biết sự suy diễn của anh. Anh đã suy nghĩ nhiều về sự việc. Không phải tôi. - Nói một cách miễn cưỡng, kết luận của tôi sẽ đôi phút mơ hồ về các chi tiết, nhưng tôi thấy nhưng điểm chính khá rõ ràng. Gã Bellingham, trong các môn học về Đông phương, đã học được một bí quyết ma quái nào đó, nhờ bí quyết này một cái xác ướp, hoặc có thể chỉ nguyên cái xác ướp này, có thể được tạm thời làm cho sống lại. Hắn ta đang thử nghiệm thủ đoạn ghê tởm đó vào buổi tối mà hắn ngất xỉu đi. Chắc chắn là cảnh tượng cái xác này bắt đầu cứ động đã quá mãnh hệt đối với các dây thần kinh của hắn, ngay cả khi hắn đang chờ đợi sự việc. Ông còn nhớ rằng những tiếng đầu tiên hắn thốt ra là dùng để nói hắn là đồ ngu ngốc. Sau đó hắn trở thành chai lì và hắn kiên tâm theo đuổi mà không ngất xỉu nữa. Sức sống mà hắn có thể đưa vào cái xác ướp chỉ là một sức sống thoảng qua trong chốc lát, vì tôi đã nhìn thấy nó không biết bao nhiêu lần trong cái hòm của nó, nó cũng bất động như cái bàn này. Tôi đoán rằng nhờ vào một phương cách phức tạp hắn đã đạt tới chỗ gọi lên được và trừ bỏ được sức sống đó. Khi hắn đã nắm vững được phương cách, dĩ nhiên là hắn có ý tưởng dùng cái xác ướp của hắn như là một tên tay sai. Nó có trí thông minh và sức mạnh. Vì một mưu đồ nào đó, hắn đã cho Lee biết bí mật; nhưng Lee vốn là một tín đồ Cơ đốc ngay thẳng, đã không muốn nghe một chút nào: do đó mới có sự cãi lộn, và Lee thề rằng anh ta sẽ nói cho em gái biết về bản chất thật sự của Bellingham. Lúc đó ý định của Bellingham là nhằm ngăn cản không cho Lee tiết lộ việc này, và hắn ta đã gần đạt được mục đích khi tung cái xác ướp đuổi theo Lee. Hắn cũng đã thử quyền năng của hắn với một thanh niên khác là Norton, người mà hắn có một mối hận thù. Nếu hắn không bị hai vụ án mạng đè lên lương tâm cũng hoàn toàn vì sự ngẫu nhiên thôi? Rồi lúc tôi kết tội hắn là một tên sát nhân, thì hắn có đủ mọi lý do để gạt tôi ra khỏi con đường của hắn trước khi tôi có thể nói chuyện này với một người nào khác. Hắn đã thử thời vận lúc tôi đi ra khỏi nhà, vì hắn biết rõ các thói quen của tôi và hắn biết tôi đi đâu. Tôi đã thoát được tay hắn một cách yên lành, ông Peterson ạ, và cũng là một sự ngẫu nhiên mới nữa nếu ông đã không phát hiện ra tôi nằm chết trên bậc cửa nhà ông. Nói chung ra, tôi không phải là người nhút nhát, nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng tôi lại sợ hãi như tôi đã sợ lúc vừa rồi. Ông bạn của anh nói: - Anh bạn trẻ ơi, anh đã xem xét các sự việc một cách quá quan trọng đó! Anh đã có các dây thần kinh bị hủy hoại vì công việc của anh, và anh đã phóng đại các sự cố. Làm thế nào mà một cái xác ướp lại có thể đi dạo chơi trong các đường phố của Oxford, ngay cả vào ban đêm, mà không bị nhìn thấy? - Nó đã bị nhìn thấy. Tất cả thành phố đều nói về một con khỉ sổng chuồng, họ gọi nó như vậy. - Đúng là thế, tình tiết câu chuyện thật kỳ lạ! Anh bạn trẻ ạ, tuy nhiên anh cũng phải chấp nhận rằng mỗi sự cố tự thân nó cũng có thể được giải thích một cách hợp với tự nhiên hơn. - Thế nào! Ngay cả tai họa của tôi buổi tối nay à? - Chắc chắn là vậy, anh ra khỏi nhà rất căng thẳng, đầu óc chứa đầy các lý thuyết quái gở. Một tên lang thang sắp chết đói đi theo gót anh, thấy anh chạy nó cũng vội vã chạy theo sau anh. Sự sợ hãi và óc tưởng tượng của anh đã làm nốt phần còn lại. - Không, Peterson ạ. Luận điểm của ông không đứng vững. Tôi bác bỏ nó. - Và còn nữa, nghe đây, về nhuyễn cái hòm đựng xác ướp bị bỏ trống rồi lại có cái xác! Ngọn đèn bị vặn nhỏ đi và anh đã không có một lý do đặc biệt nào để nhìn cái hòm một cách chăm chú. Rất có thể là lần đầu tiên anh đã không nhìn thấy cái xác ướp. - Chắc chắn là không! Tôi không nghi ngờ chút nào! - Rồi thì Lee ngã xuống nước, và Norton là nạn nhân của một tên bóp cổ. Rõ ràng là một sự giả định đáng sợ chống lại Bellingham, nhưng nếu anh đưa việc này ra trước một vị quan tòa thì ông ấy sẽ cười vào mũi anh. - Tôi biết rõ điều đó. Đó là lý do tại sao tôi muốn một mình giải quyết vụ này. - Thế nào? - Đúng vậy. Tôi có cảm tưởng là tôi có một nhiệm vụ đối với sự lành mạnh của xã hội và hơn nữa tôi phải hành động cho sự an toàn của chính bản thân tôi: nếu không, có thể nói rằng, tôi thích bị xua đuổi ra khỏi trường cao đẳng bởi một cái xác ướp; đó sẽ là một sự hèn nhát không thể tưởng tượng được? Tôi đã quyết định việc mà tôi sắp làm. Và trước hết, tôi có thể mượn cái bút của ông trong một giờ được không? - Được thứ! Abercrombie Smith ngồi trước một tờ giấy học trò, và trong một giờ đồng hồ, rồi trong một giờ thứ hai, ngòi bút của anh lướt đi một cách nhẹ nhàng. Ông bạn của anh ngồi một cách thoải mái trong chiếc ghế bành, nhìn anh với vẻ hiếu kỳ và nhẫn nại. Sau cùng, Smith thốt lên một tiếng kêu đứng phắt lên, gom nhưng tờ giấy nhỏ của anh, xếp lại theo thứ tự và đặt tờ sau cùng lên bàn giấy của Peterson. - Xin ông vui lòng đặt chữ ký vào trong tư cách một người làm chứng, - anh nói. - Người làm chứng? Làm chứng cái gì? Làm chứng chữ ký của tôi và làm chứng ngày tháng. Ngày tháng là điều quan trọng nhất. Ký đi ông Peterson, tính mạng của tôi có thể tùy thuộc vào nó! - Anh Smith thân mến ạ, anh nói như một người quá kích động. Anh cho phép tôi mời anh lên giường nằm. - Ngược lại! Chưa từng bao giờ mà tôi nói với sự điềm tĩnh hơn bây giờ. Và tôi hứa với ông là tôi sẽ đi nằm ngay tức thì sau khi ông đã ký vào. - Nhưng đó là giấy gì thế? - Đây là lời khai chứa đựng tất cả những việc mà tôi đã kể lại với ông tối hôm nay. Tôi muốn ông chứng nhận đây đúng là chữ ký của tôi. - Chắc chắn rồi! - Peterson trả lời trong lúc ký tên vào phía dưới chữ ký của bạn ông. - Ký rồi đó! Nhưng ý nghĩ của anh ra sao? - Xin ông vui lòng cất giữ tài liệu này, và xuất trình nó trong trường hợp tôi bị bắt giữ. - Bị bắt giữ ư? Vì nguyên nhân nào? - Vì tội giết người. Sự việc hoàn toàn có thể xảy ra. Tôi lo chuẩn bị sẵn trước bất kỳ một biến cố nào. Tôi chỉ còn một việc phải làm, và tôi nhất quyết hoàn thành việc đó. - Nhân danh Chúa, anh chớ nên làm việc gì một cách khinh suất! - Ông hãy tin ở tôi: mọi phương pháp khác đều còn liều lĩnh hơn nữa. Tôi hy vọng là tôi sẽ không phải làm phiền ông, nhưng tinh thần tôi sẽ bình tĩnh hơn nếu tôi biết là ông đã cất giừ tờ biện minh cho các động lực của tôi. Và bây giờ thì tôi đã sẵn sàng để theo lời khuyên của ông, vì tôi muốn được hoàn toàn khỏe mạnh vào lúc sáng mai. Abercrombie Smith không phải là người để đùa cợt nếu anh có một kẻ thù. Chậm rãi và điềm đạm, anh lại rất đáng sợ khi bị buộc phải hành động. Anh mang tới các mục đích của đời anh cùng một sự quyết tâm đã làm cho anh nổi bật giữa các sinh viên y khoa. Anh đã quyết định gác bỏ công việc trong một ngày, nhưng anh hiểu rõ rằng cái ngày đó không phải là uổng phí. Anh từ chối không thông báo các kế hoạch của anh với ông chủ nhà, và vào lúc 9 giờ thì anh đi trở về Oxford. Đến đường High Street anh ghé vào hiệu Clifford bán vũ khí, và mua một khẩu súng ru-lô lớn với một hộp đạn. Anh nhét sáu viên đạn vào ổ súng, lên cò và để súng vào túi áo. Sau đó anh đi tới phòng của Hastie; anh chàng chèo thuyền cường tráng đang vừa đọc tờ Sporting Times vừa nhấm nháp bữa điểm tâm. - Hà! Chuyện gì vậy? - Anh ta hỏi - Anh uống một tách cà phê nhé? - Không, cảm ơn. Hastie này, tôi muốn anh đi với tôi, và anh sẽ làm điều gì mà tôi yêu cầu làm. - Đồng ý, chàng trai của tôi! - Và tôi muốn anh mang theo một cái gậy. - Này, này... Hastie trợn mắt, ngạc nhiên. - Đây là cái gậy đi săn, nó có thể đánh gục một con bò. - Thứ khác nữa. Anh có một hộp dao giải phẫu. Đưa cho tôi cái dài nhất. - Đây này. Tôi thấy như anh đang đi ra trận chiến. - Không còn gì khác nữa à? - Không, thế là đủ rồi. Smith dắt con dao giải phẫu vào trong áo và dẫn Hastie tới phía sân nhà anh. - Cả anh và tôi, chúng ta không phải là hạng người hèn nhát, Hastie ạ. - anh nói - Tôi nghĩ rằng tôi có thể hành động một mình nhưng tôi yêu cầu anh đi với tôi là để phòng hờ. Tôi sẽ nó i chuyệ a vớ Bellingham. Nếu tôi chỉ có chuyện với mình hắn, thì tôi sẽ không cần tới anh. Tuy nhiên, nếu tôi kêu lên thì anh sẽ chạy lên và sẽ dùng cái gậy đập hết sức mạnh vào tất cả những gì xuất hiện. Hiểu chứ? - Hiểu. Tôi sẽ chạy lên nếu tôi nghe thấy anh kêu. - Trong khi chờ đợi, anh cứ ở đây. Có lẽ tôi sẽ vắng mặt trong chốc lát thôi, nhưng chớ động đậy gì trước khi tôi đi xuống. - Tôi không nhúc nhích một tí nào. Smith leo lên cầu thang, mở cửa phòng Bellingham và đi vào Bellingham đang viết trên bàn. Bên cạnh hắn, cái hòm đựng xác ướp đứng ngay ngắn, với số 249 ghi bên ngoài và kẻ chiếm ngụ gớm ghiếc cứng đờ ở bên trong. Smith quan sát kỹ càng các ngõ ngách trong phòng, đóng cửa lại, đi về phía lò sưởi, đánh một que diêm và đốt lửa lên. Bellingham nhìn anh với một vẻ lẫn lộn vừa hoảng sợ vừa tức giận điên cuồng. - Này, anh tưởng là nhà anh đây hả? - Anh ta nói với một giọng thiếu tự tin. Smith ngồi xuống một cách cương quyết, để cái đồng hồ của anh lên bàn, móc súng ru-lô ra, kiểm tra lại để thấy nó vẫn có đạn trong ổ, và đặt nó trên đầu gối anh. Rồi anh móc con dao giải phẫu từ trong túi ra và quăng nó cho Bellingham. Anh nói: - Bây giờ bắt tay vào công việc! Hãy cắt nát cái xác ướp này đi cho tôi. - Ồ, là như vậy à? - Bellingham cười ngạo nghễ. - Phải, là như vậy! Người ta nói chắc với tôi rằng pháp luật không thể làm gì chống lại anh. Nhưng tôi đem đến một thứ pháp luật, nó sẽ giải quyết vụ việc. Nếu trong năm phút mà anh không bắt tay vào công việc, tôi xin thề có thượng đế là người đã tạo ra tôi là tôi sẽ bắn nát óc anh! - Anh ám sát tôi à? Bellingham đứng nhỏm lên khỏi ghế, mặt anh ta xám ngắt. - Phải. - Nhưng tại sao? - Để chấm dứt những hành vi tệ hại của anh. Đã quá bốn phút rồi. - Nhưng tôi đã làm gì? - Tôi biết diều đó, và anh biết điều đó. - Thật là chuyện bịp bợm!!! - Ba phút. - Nhưng tóm lại, hãy cho tôi biết các lý do của anh! Anh điên rồi... một thằng điên nguy hiểm! Tại sao tôi lại phải phá hủy các xác ướp của tôi? Nó thuộc về tôi mà, và nó đắt tiền lắm! - Anh phải cắt rời nó ra và anh phải đốt nó đi! - Không đời nào! - Anh chỉ còn hơn một phút nữa thôi. Smith nâng khẩu súng lục lên và nhìn Bellingham với cặp mắt không thương xót. Trong khi cây kim giây của đồng hồ đang quay, anh nhằm vào Bellingham và đặt ngón tay lên cò súng. - Này! Này! Tôi sẽ đốt nót - Bellingham gào to. Trong một sự vội vã mê loạn anh ta giật lấy con dao giải phẫu và cắt vụn thân mình của cái xác ướp, vừa cắt vừa quay nhìn lại để coi chừng người khách khủng khiếp đang theo dõi anh ta, cái xác ướp kêu lắc cắc và xúm xuống với những tiếng khô khan dưới mỗi nhát cắt của lưỡi dao sắc bén. Từ thân thể nó túa ra một lớp bụi dày đặc màu vàng. Những hương liệu, những tinh dầu đã khô cạn vương rải rác trên sàn gác. Bỗng nhiên, trong một tiếng rách xoạt lớn, cái xương sống gãy vụn và cái xác ướp đổ ụp xuống thành một đống màu nâu những chân và tay rời rạc. - Cho vào lửa! - Smith ra lệnh. Những ngọn lửa bốc lớn lên và nổ lốp bốp khi chúng bén vào các mảnh vụn, giống như củi khô này. Căn phòng nhỏ có thế giống như buồng đốt lò của một chiếc tàu biển. Hai người đàn ông mồ hôi nhỏ giọt; một người tiếp tục cúi gằm xuống và quăng những mánh cuối cùng còn lại của cải xác ướp vào trong lừa, trong khi người kia canh chừng người này. Một luồng khói dày đặc có mùi thịt cháy khét tuôn ra từ lò sưởi; mùi nhựa thông làm ngột ngạt không khí. Sau mười lăm phút, ở lô số 249 chỉ còn lại vài cái que nhỏ đã cháy thành than. - Có lẽ anh đã mãn nguyện rồi chứ? - Bellingham càu nhàu. Cặp mắt nhỏ xám xì của anh ta bộc lộ sự hằn học và lo sợ - Không. Tôi phải trừ bỏ hết các vật liệu của anh, để cho không bao giờ anh còn chơi những trò ma quỷ của anh với chúng tôi nữa. Đốt tất cả những giấy tờ này đi? Chúng có thể liên hệ với các âm mưu của anh. - Và bây giờ, còn gì nữa? - Bellingham hỏi, khi những tờ giấy đã được quặng vào lò than hồng. - Bây giờ hả? Cuộn chỉ thảo mà anh để trên bàn tối hôm nọ. Nó ở trong ngăn kéo này, tôi nghĩ vậy. - Không! - Bellingham kêu lên - Đừng đốt chỉ thảo! Này, anh bạn, anh không biết là anh đang làm gì? Nó là vật độc nhất. Nó chứa đựng một bài học về sự khôn ngoan mà ta không tìm được ở bất cứ nơi nào khác! - Đốt đi! - Nhưng này, Smith, không thể được! Tôi sẽ chia sẻ với anh kiến thức của tôi. Tôi sẽ dạy anh tất cả những điều ở trong đó. Ít nhất là hãy để cho tôi chép lại trước khi anh đem đốt nó. Smith tiến lên một bước và mở ngăn kéo. Anh cầm lấy cuốn giấy đã ngả màu vàng và ném nó vào đống lửa. Bellingham vừa la lớn vừa muốn giật cuốn giấy ra khỏi đống lửa. Smith đẩy anh ta ra một cách thô bạo và đứng yên, chân đè trên cuốn chỉ thảo cho tới khi nó biến thành những mảnh tro không hình dạng. - Bây giờ thì, thưa ngài B., tôi tin rằng tôi đã nhổ hết răng của anh. Anh sẽ nhận được tin tức của tôi nếu tôi lại bắt gặp anh chơi cái trò này. Và bây giờ thì chào tạm biệt, vì tôi còn phải tiếp tục làm việc. Đây là câu chuyện của Abercrombie Smith về các biến cố diễn ra trong trường cao đẳng Oxford cổ kính vào mùa xuân năm 1884, hình như Bellingham rời bỏ trường đại học ngay sau đó và hình như anh ta định cư ở Soudan, không ai có thể đưa ra sự kết tội chống lại anh ta. Nhưng trí tuệ của con người thì nhỏ, mà những đường đi của tạo hóa thì lạ lùng; ai dám liều lĩnh đặt để một giới hạn cho những sự huyền bí là những thứ có thể được khám phá bởi những kẻ săn tìm chúng không mệt mỏi?