Món nợ lớn nhất của tôi đối với Phạm Xuân Ẩn là ông đã cho phép tôi viết về cuộc đời không bình thường của ông. Tôi đã nhớ nhiều cuộc trao đổi dài của chúng tôi. Tôi mắc nợ với vợ ông Phạm Xuân Ẩn, bà Thu Nhàn, vì bà đã nói chuyện với tôi trong lúc bà đang phải để tang chồng. Cháu Ân và tôi đã nói với nhau nhiều lần trong thời gian 5 năm qua, nhưng cháu còn giúp tôi nhiều hơn nữa là đồng ý đọc và nhận xét cho bản thảo cuối cùng của tôi. Cháu chưa bao giờ một lần bảo tôi phải sửa một câu nào về cha của cháu, mà chỉ thỉnh thoảng lại đánh dấu "Cháu không biết chuyện này về ba cháu".
Tôi dần dần hiểu được vì sao các nhà báo lại coi Frank McCulloch là người giỏi nhất trong nghề.
Frank đã dành nhiều giờ để nói chuyện với tôi về một người mà ông đã tuyển để làm việc cho Tạp chí Time, cũng như nói về chuyên môn nghề báo của Phạm Xuân Ẩn. Robert Sam Anson đã giúp sắp xếp lại các sự kiện liên quan đến việc ông bị bắt và thả, cũng như việc ông cung cấp những tài liệu quan trọng liên quan đến việc cháu Ân học tập tại Mỹ. Stanley Karnow chia sẻ quan điểm của ông về Phạm Xuân Ẩn, về bác sĩ Trần Kim Tuyến, và những âm mưu nằm trong những âm mưu làm nên các đặc điểm của Sài Gòn đầu thập kỷ 1960. Dick Swanson và Germaine Lộc Swanson, mỗi người đều đã hướng dẫn tôi ngay từ khi bắt đầu cuốn sách này và sau này hai người đã giúp xem lại những phần chủ chốt của bản thảo. Tôi đặc biệt được hưởng lợi từ cách nhìn của Germaine về tình bạn, sự trung thành, và chiến tranh. Dick cũng đã giúp đỡ tôi rất hiệu quả trong việc trả lời nhiều câu hỏi về những tấm ảnh, đồng thời giới thiệu tôi với các đồng nghiệp của ông. Dan Southerland đã giúp tôi sắp xếp lại các sự kiện tháng 4/1975, khi ông và Phạm Xuân Ẩn giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến chạy trốn khỏi đất nước và ông cũng đã đọc rất thận trọng bản thảo. Ron Steinman, Trưởng phân xã truyền hình NBC đã đọc toàn bộ bản thảo và cung cấp cho tôi những cái nhìn quí giá vào bên trong. Đại sứ Bùi Diễm đã cố vấn cho tôi về tình hình chính trị Sài Gòn và sự giao lưu của ông với Phạm Xuân Ẩn. Đại sứ Nguyễn Xuân Phong đã dành nhiều giờ để nói với tôi về Phạm Xuân Ẩn và về khái niệm kẻ thù anh em. Nguyễn Thái cung cấp những cái nhìn bên trong quí báu về quan hệ của Phạm Xuân Ẩn với gia đình họ Ngô.
Tôi được hưởng lợi từ những cuộc trao đổi với một số đồng nghiệp trước đây, cũng như những bạn riêng của Phạm Xuân Ẩn như: David Lamb, George McArthur, Horst Faas, Eva Kim, Jolynne d Ormano, Bernard Kalb, Neil Sheehan, David Halberstam, David Burnett, Judith Ladinsky, Gerald Hickey, Nick Turner, Ted Thái, Rufus Philips, Jon Larsen, Stanley Cloud, David De Voss, Alison Krupnick, và Wendy Larsen.
Tôi có ba món nợ đặc biệt về tri thức đối với bản cuối cùng. Merle Pribbenow, một cựu sĩ quan ngôn ngữ, sĩ quan tác chiến, và sĩ quan nhân sự cho CIA tù năm 1968 đến 1995, đã thường xuyên cung cấp cho tôi các bản dịch sang tiếng Anh của hầu hết những tài liệu viết bằng tiếng Việt về Phạm Xuân Ẩn và mạng lưới tình báo của ông. Liên Hằng T. Nguyễn tại Trường Đại học Kentucky đã dịch một số bài báo và đọc toàn bộ bản thảo cũng như các trang bìa. Eward Miller tại Dartmouth đã đọc một số bản thảo đầu tiên, kiếm giúp cho bản copy về cuộc phỏng vấn kỹ lường của David Butler với bác sĩ Trần Kim Tuyến từ các số báo Butler ở Dartmouth và cung cấp cho tôi các bản sao về những cuộc phỏng vấn Phạm Xuân Ẩn.
Hằng và Ed đã giúp đỡ tôi trong những lúc tôi còn nghi vấn và bối rối. Tôi đã yêu cầu các đồng nghiệp trẻ của tôi phải kiên trì và họ đã làm việc chẳng tiếc sức. Ed và Hằng đại diện cho những người tốt nhất trong thế hệ tiếp theo nghiên cứu về Việt Nam. Tôi hân hạnh cám ơn sự giúp đỡ và tình bạn của James Reckner, Steve Maxner, và Khanh Lê ở Trung tâm Việt Nam thuộc Trường Đại học Texas Tech. Nhờ có Jim, tôi mới được gặp Phạm Xuân Ẩn. Khanh đã giới thiệu tôi với phía Việt Nam; Steve đã tạo điều kiện để tiếp cận với các nguồn tài liệu và ảnh gốc. Cũng giống như các quyển sách trước của tôi, để làm chứng, mọi tài liệu nghiên cứu của tôi sẽ được gửi lưu giữ tại trung tâm Lưu trữ về Việt Nam.
Một số đồng nghiệp và bạn bè đã cung cấp những lời khuyên vô giá. Kathy Olmsted, Nguyễn Kỳ Phong, Fred Brown, Nguyễn Mạnh Hùng, Andy Birtle, David Seerman, Bill Laune, Mark Clodfelter, David Biggs, John Prados, Anh Thu Lu và Sedgwick Tourison đã giúp đỡ bất cứ khi nào tôi đề nghị. Stepphen Routh và H. M. Baker đọc toàn bộ bản thảo và đưa ra nhiều gợi ý bổ ích. Rosann Rhodes (Martin), Judy Coleman (Lanini), Ross Johnson, Pete Conaty và Bruce Nott đã cung cấp cho tôi những đồ vật sưu tầm lại. Rosann đọc bản thảo cuối cùng trong chương về OCC, Bruce - người đã chắp nối lại với Phạm Xuân Ẩn, luôn cố gắng giúp đỡ tôi nhiều hơn cả sự chờ đợi của tôi. Pete đã cung cấp cho tôi những bản gốc của báo Barnacle. Jim Carnett, Douglas C. Benentt, và Mary Roda tại Trường Orange Coast College đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian tôi đến thăm OCC.
Tôi cám ơn Jul Owings và Jud Brandes vì đã cung cấp cho tôi rất nhiều thông tin về cha của họ và về mối quan hệ của gia đình với Phạm Xuân Ẩn.
Người trợ lý nghiên cứu của tôi, TiTi Mary Trần đã dịch toàn bộ phần tiểu sử bằng tiếng Việt của Phạm Xuân Ẩn, cũng như rất nhiều bài báo và bài luận. TiTi sau này đi Sài Gòn đề tiến hành hai cuộc phỏng vấn một mình rất giá trị với Phạm Xuân Ẩn. Tôi được hưởng lợi từ băng video dài hai giờ đồng hồ phỏng vấn của San McMorris với Phạm Xuân Ẩn. Tracy Eckard đã thực hiện công việc mang tính chuyên môn cao, dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Anh.
Tôi biết ơn những người bạn của tôi tại Tổng lãnh sự Mỹ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng lãnh sự Seth Winnick, Phó Tổng lãnh sự Kenneth Chern, nhân viên phụ trách các vấn đề công cộng Kimberly Gillen Bruce Nash, cựu sĩ quan liên lạc tổ chức phi chính phủ tại Tổng lãnh sự quán Mỹ đã giúp tìm kiếm ảnh của Phạm Xuân Ẩn trên boong tàu USS Vandegtiff. Cựu Đại sứ Mỹ tại Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nan Raymond Burghardt đã nói chuyện dài với tôi về Phạm Xuân Ẩn.
Trong thời gian nhiều chuyến thăm của tôi đến Sài Gòn, tôi được hưởng lợi nhiều từ các cuộc giao lưu với Hoàng Hải Vân, Lê Thông Lan, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Văn Lang, và Nguyễn Thị Xuân Phong. Trợ lý nghiên cứu và phiên dịch cho tôi tại Sài Gòn Nguyễn Thị Thanh Phương là người không thể thiếu được trong nhiều trường hợp, nhưng đặc biệt là trong việc phiên dịch cuộc phỏng vấn với bà Nguyễn Thị Ba và ông Tư Cang. Đặng Đình Quy tại Đại sứ quán Việt Nam ở Washington D.C đã luôn luôn giúp đỡ khi tôi chuẩn bị cho rất nhiều chuyến đi của tôi. Các bạn của tôi tại Khách sạn Quê hương Liberty - 2 đã luôn đảm bảo cà phê hoặc trà nóng có sẵn mang đến cho tôi lúc 4 giờ sáng để tôi có thể bắt đầu viết. Bất cữ khi nào tôi cần chụp sao tài liệu, họ đều làm giúp tôi rất cẩn thận, chu đáo. Tôi đã tiến hành nghiên cứu tại một số kho tư liệu và đánh giá cao sự giúp đỡ từ Jacquelyn Sundstrand tại Trường đại học Nevada, Trung tâm Reno lưu trữ bản thảo, Carol Leadenham tại Trung tâm lưu trữ Hoover, và các nhân viên làm việc tại Trung tâm lưu trữ lịch sử xã hội Wisconsin.
Lời cám ơn đặc biệt của tôi dành cho Georgia Kyser và gia đình bà, Kimberly, Amada, Clayton, và Jay Bryan vì đã nói chuyện với tôi. Bà Gerald Barett đã từng hai lần đến thăm Phạm Xuân Ẩn, cung cấp cho tôi nhiều cái nhìn bên trong xác đáng. Chi Hà và Anh Nguyễn tại tiệm ăn Minh s ở Arlington tạo bối cảnh hoàn hảo cho những cuộc nói chuyện trong các bữa ăn trưa và tối với bạn bè và đồng nghiệp của Phạm Xuân Ẩn. John Shelton luôn đảm bảo rằng tôi không bao giờ bị trễ đối với bất kỳ cuộc phỏng vấn nào.
Người giúp việc của tôi John Wright, là người đầu tiên tin vào ý tưởng của tôi về cuốn sách này và tại nhà sách Smitthsoman Books, ông đã tìm thấy sự phù hợp hoàn hảo. Người biên tập viên của tôi Elisabeth Kallick Dyssegaard đã giúp tôi hiểu tầm quan trọng của việc sử dụng hình ảnh và đã viết về cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn như là một kịch bản sân khấu. Cô là người tiếp cận gần hơn bất kỳ ai khác để cảm nhận được câu chuyện, và tôi không thể đòi hỏi được gì hơn ở sự gắn bó với công việc của người biên tập viên này.
Dan Crissman, một trợ lý biên tập tại Smithsonian Books đã tích cực giúp đỡ tôi trong tất cả mọi chuyện phải làm với việc chuẩn bị bản thảo và các sổ lộ trình ảnh.
Raymond Tse thiết kế trang web
www.larrvber- manperfectsdv.com tại Trường Đại học California Davis, Wayne Fischer và Hielam Chan đã tiết kiệm cho tôi hơn một chiếc máy vi tính, khi chiếc máy tính của tôi bỗng dưng bị treo không chịu làm việc. Tôi đánh giá cao sự giúp đỡ của các nhân viên làm việc tại Trường Đại học California Davis, như Kelly Ramos, Gloria Castillo, Cindy Koga Simmons, Sande Dyer, và Micki Eaglc. Tại Washington, May Byrne, Karen Akerson, Rodger Rak, Mike Sesay, và Sara Lombardo đã có những giúp dỡ khác nhau trong toàn bộ dự án này.
Các đồng nghiệp của tôi Miko Nincic, don Rothchild, Emily Goldman, Ed Constantini, James Desveaux và Larry Peterman đã giúp đỡ theo cách chỉ có bạn bè hiểu.
Trong 5 năm qua, tôi đã luôn ở nơi này nơi khác, mà ít khi ở nhà; thậm chí khi ở Davis, đầu óc tôi cũng luôn nghĩ về cuốn sách này. Tôi biết ơn và đánh giá cao Nicole vì sự hiểu biết và thông cảm đối với tôi là không thể đo đếm được.
______________________
Những chỗ in sai trong sách:
1. Đã thương thì thương cho trót". (chót)
2. Ai cũng phải gia sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh (ra sức)
3. Mọi người ở nước tôi chỉ đi xe đạp, khi đi ra ngoài đường, người quê tôi vẫn mặc đồ pajamas (trang 152) (pyjama)
4. Trong đó bao gồm các bài viết Nghệ thuật chiến tranh của tác giả Sun Tzu; (trang 218) (Sun Tzu= Tôn Tử) (?)
5. Những người bạn thân nhất của chúng tôi cũng là những người làm báo như chúng tôi. Phạm Xuân Ẩn của Reuters, Nguyễn Ngọc Rao của UPI, Võ Huỳnh của NBC và Hà Thúc Cần của CBS. Trang 244
Nguyễn Ngọc Giao chứ không phải Nguyễn Ngọc Rao