(Lời vị thủ tướng D’AGUESSEAU khuyên con khi ra trường)
Sự học chuyên nghiệp là phần học quan trọng nhất và chúng ta cần phải học trước nhất bởi lẽ nó giúp cho chúng ta mưu sống, mà chúng ta bao giờ cũng phải lo sống trước đã…
Song ngoài phần học cần thiết ấy ra còn một phần học khác mà ai cũng nhận thấy ích lợi của nó: đó là phần học phổ thông tri thức.
Chúng ta không thể mà cũng không cần có sở học uyên bác của nhà thông thái, song mỗi người đều cần phải có một số vốn tri thức vừa đủ để khỏi mang tiếng là dốt nát.
Con người sở dĩ được hơn vạn vật là nhờ có một khối óc biết suy nghĩ. Nên sự khai thác khối óc ấy, dầu ở thời đại nào cũng được người ta chú trọng, và sự học thức bao giờ cũng được người ta xem như một thế lực, nhất là ở thời đại văn minh này mà khoa học đóng một vai tuồng quan trọng.
Công dụng học vấn trong việc lập thân. Sự lợi ích của việc học vấn tưởng không có ai là không rõ. Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại vài điều đại khái.
1) Học vấn giúp sự phát triển của chức nghiệp.
Muốn trở nên một bậc “sư” trong nghề chúng ta cần phải có một sở học chuyên nghiệp. Điều đó đã hẳn, song nếu ngoài sở học chuyên nghiệp chúng ta lại được một sở học phổ thông trợ giúp thì nghề nghiệp chúng ta càng dễ phát triển.
Tài năng của một luật sư, một bác sĩ, một nhà văn cần phải có một học lực chắc chắn nâng đỡ đã đành, song một người thợ máy, một người thợ mộc cũng cần có số vốn tri thức kha khá. Hai người thợ mộc cùng ra mở xưởng đóng bàn tủ, người có học thức bao giờ làm ăn cũng dễ phát đạt hơn người thiếu học. Trên đường doanh nghiệp người có học mạnh dạn tiến bước không sợ ai gạt gẫm, nhờ biết rõ quyền lợi của họ. Sự học vấn lại vạch cho họ thấy những đường đất mới, giúp họ nhiều sáng kiến để khuếch trương nghề nghiệp, những điều lợi mà những người thiếu học không thể hưởng.
Sức sáng tạo của mỗi người thường do theo sự mở mang phần tri thức của họ, càng học rộng hiểu sâu, tài năng của họ càng dễ nẩy nở.
2) Học vấn giúp ta sống một cách đầy đủ.
Trong phim ảnh Thời Đại Mới, anh hề Charlot đã cho thấy cảnh tượng một người thợ cùn trí bởi cách tổ chức việc làm như cái máy: suốt ngày công việc của anh ở xưởng là vặn bù lon và chỉ vặn bù lon. Đến khi ra đường, thấy những bộ nút tròn ở túi quần người ta, anh cũng cho là bù lon, con ốc nên đã xách kềm tới vặn.
Tuy chưa đến mức cực đoan như trong phim hài hước, song ở ngoài đời không thiếu những khối óc thiên lệch vì chức nghiệp. Có những viên bút toán chỉ thấy trước mặt những con số. Có những nhà võ sĩ ở đâu cũng thấy những quả đấm, những đá. Có những nhà buôn chỉ sống chung quanh kết bạc. Ra ngoài phạm vi của nghề nghiệp họ là những người đại gàn, chẳng có một chút kiến thức về xã hội, về văn chương hoặc về mỹ thuật.
Đành rằng một tay thợ khéo, một nhà buôn giỏi vẫn có thể lập nên những sản nghiệp to mặc dầu họ không hiểu chi về vấn đề nói trên.
Song đã là người, sống mà không hưởng được những nguồn mỹ cảm, nghe một khúc nhạc êm, ngâm một bài thơ hay, nhìn một bức tranh đẹp mà tâm hồn họ không rung chuyển thì họ có thể tự cho rằng họ đã “sống” một cách đầy đủ chăng? Có mắt có tai mà không hưởng được những kho tàng vô giá: tư tưởng, học thuật, mỹ thuật của bậc tiền bối lưu lại thì họ có khác nào người mù, người điếc, sống một cách thiếu sót.
3) Học vấn giúp ta biết suy nghĩ.
Một nhà giáo dục nói: “Những đầu óc thật đầy đặc là những dầu óc khó làm xoay trở nhất”.
Phải là người có học chúng ta mới nhận thấy mối tương quan của sự vật và không “nhắm mắt” tin theo những “chân lý” đúc sẵn bởi một nhà văn hoặc ông “thánh” nào. Giữa những luồng tư tưởng phản trái nhau ta có thể điềm tỉnh mà nhận xét đâu là giả, thiệt, không để cho “tên tuổi” của nhà văn hoặc cái khéo léo của lời văn quyến rũ.
Học vấn cũng giúp ta phân biệt điều thiện ác. Tội lỗi thường là con đẻ của sự dốt nát.
Ở trước đã nói: sự lợi ích của học vấn hiện giờ hẳn ai cũng đã nhận thấy. Bằng chứng: có con, ai cũng muốn cho nó được đến trường học.
Có khi người ta quá tin tưởng ở giá trị của học vấn, của cấp bằng. Họ cho rằng nó là chìa khóa mở hết các cửa nẻo, nó sẽ dẫn dắt đến mọ nơi. Bác sĩ V. Pauchet nói:
“Bằng cấp dẫn ta đến mọi nơi”. Thậm phải, nếu những viên luật sư đều có nó trong ví da thì những thân chủ của tòa đại hình cũng có nó trong túi họ. Nếu người thầy thuốc treo nó ở nhà thì họ cũng gặp nó mỗi ngày trên giường của một bệnh nhân đáng thương hại đã bị đời đánh bại mà phải trôi nổi đến đó…”.
Bởi tin tưởng một cách mù quáng ở quyền lực của học vấn nên họ thường phải thất vọng. Sự thật học vấn chỉ là một món đồ dùng. Sắm một món đồ dùng không chưa đủ, phải biết qua cách dùng nó. Mua một chiếc ô tô 40 mã lực mà không khéo tay lái có khi nó đưa mình xuống hố cách mau lẹ. Học vấn có ích là khi nó được phần giáo dục kèm theo. “Khoa học thiếu tâm đức chỉ là sự tàn rụi của tâm hồn”.
Chúng tôi không nhớ đã xem ở đâu câu chuyện sau đây:
Có dịp viếng một khám đường, nhà du lịch kia có ý vẽ phác một vài cảnh trong khám. Chợt có một tội nhân vẻ mặt khôi ngô, liếc thấy du khách vẽ sai nét mới xin phép sửa lại. Ngạc nhiên, người du khách hỏi:
- Anh cũng biết vẽ?
Người tội nhân đáp:
- Vâng. Tài năng, người ta đã dạy cho tôi đủ, song bởi người ta chỉ dạy cho tôi ngần ấy thôi nên ông mới gặp tôi ở chốn này.
Tự học. Mục đích chính của nhà trường là ban bố cho chúng ta những tri thức phổ thông. Khi nói đến việc học người ta chỉ nghĩ đến trường học. Song ngoài sự học ở nhà trường còn có cách tự học cũng là một phương tiện đắc lực trong việc tu bổ và mở mang tri thức.
Những người may mắn được một sở học chắc chắn do nhà trường tạo nên, những người mà sở học của họ được công nhận chính thức bởi những bằng cấp khi ra đời làm nên sự nghiệp là việc rất dễ hiểu. Song có những người chưa bao giờ mài đũng quần ở ghế nhà trường, hoặc có những người khi ở trường chỉ là những học trò dở dang, không cử nhân, không tấn sĩ mà họ cũng tạo nên một địa vị vẻ vang bất luận ở một nghành hoạt động nào trong xã hội.
Những gương tự học không thiếu. Gương nhà phát minh Thomas Edison lúc 12 là trẻ bán báo, thế mà có chí tự học ông đã trở nên nhà thông thái phát minh nhiều thứ máy. Gương Rintaro Katsou thủy tổ của hải quân Nhật, không tiền đi học phải giả vờ đến mua sách ở các hàng sách để có dịp học, đã đủ chí nhẫn nại ngồi chép tay những bộ sách như Binh Thư và cả bộ từ điển tiếng Hà Lan. Gương cậu bé chăn trâu làng Tùng Châu, ông Đào Duy Từ cũng là một gương sáng về cách tự học. Nhưng hãy lấy ngay gương những người ở gần chúng ta, những bậc đàn anh trong văn giới, báo giới nước ta phần đông là những nhà tự học: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Phan Long, Phan Khôi v.v…
Từ Hà Nội Báo độ nọ thuật lại cách tự học của những bậc đàn anh ấy:
Ông Phan Khôi đậu tú tài hồi 20 tuổi. Nhưng hồi ấy ông đã chán khoa giáp và thích học chữ Tây. Tìm thầy học được ít tháng, kế có việc phải thôi. Song ông vẫn tiếp tục tự học. Ông cứ theo sách “Lecture coutante”, “ Machuel” v.v... mà học. Lối học của ông hồi đó là gặp chữ chi khó không hiểu, ông lại lật tự vị ra tra, biên vào sổ tay, gặp bài chi thích thì dịch.
Ông Phạm Quỳnh kể lại lối tự học của ông: Hồi ấy trên Hồ Hoàn Kiếm bên cạnh Đền Ngọc Sơn có một thư viện gọi là thư viện bình dân. Nói là thư viện bình dân chứ thật ra là thư viện của người Pháp, người mình muốn vào khó lắm. Nhưng muốn học, tôi tìm mánh khóe làm quen với người coi thư viện và nộp mỗi tháng 2 đồng. Mỗi buổi chiều năm giờ, tôi vào ngay thư viện học đến 8 giờ. Đọc sách văn chương đều đều như thế trong hai năm. Thật là hai năm kham khổ. Trong tuổi thanh niên, tôi không khỏi thiên về lãng mạn. Tôi đọc tiểu thuyết, học thuộc những thơ của Masset. Nhưng thời gian lãng mạn của tôi rất ngắn. Tôi tỉnh ngộ rất sớm và qua học các môn chính trị, triết lý. Nghĩa lý không có quê hương, ai đủ trí khôn suy đoán, nghiềm ngẫm mà hiểu thì hiểu được cả. Tuy thế, trong lúc học cũng phải cẩn thận và phân biệt, phê bình mới được… Trong những năm tự học đó tôi gặp nhiều sự may mắn. Phần tôi có sẵn tính hiếu học, phần ra khỏi trường được sa ngay vào rừng sách, phần bị công việc hằng ngày buộc tôi phải học thêm chữ Hán, đọc lịch sử, phần nhờ Hà Nội bấy giờ còn tịch mịch, không có thứ ăn chơi như ngày nay và gặp được bạn tốt, nên bao nhiêu tâm trí tôi đều chú vào sự học cả…”.
Môn tự học cần thiết cho tất cả mọi người. Những người không thể đeo đuổi đến cùng chương trình ở nhà trường cần lo tự học để bổ túc chỗ khuyết kém ấy đã đành. Song người có học ngay những bạn trẻ đang học ở nhà trường cũng cần phải lo học thêm luôn. Như vậy vì ba lẽ:
1) Việc học không biết đâu bờ bến, càng học nhiều chúng ta càng thấy mình dốt, cần phải học thêm. Bởi nghĩ thế nên nhà chính trị Pháp G. Clémenceau đã nói: “Suốt đời chúng ta vẫn đi học”.
2) Sự học ở nhà trường chỉ là một lối dạy theo sách vở. Những kiến thức của nhà trường dạy chỉ thật có giá trị khi chúng ta đem ra đối chiếu với cuộc đời và thêm vào đó sự kinh nghiệm riêng của chúng ta. Một người học trường thuốc dầu đã đoạt lấy bằng y khoa bác sĩ cũng chưa hẳn là người trị bệnh giỏi. Cái bằng cấp bác sĩ chỉ chứng thật người ấy có được chuẩn bị để chữa bệnh cho người. Còn cái tài trị bệnh người ấy cao hay thấp là do cách họ dùng sự hiểu biết, sự kinh nghiệm về nghề nghiệp mà họ đã thâu thập trong khi gần gũi với bệnh nhân, trong khi xem sách vở hoặc báo chí về nghề nghiệp.
Vị thủ tướng nước áo D’ Aguesseau khuyên con khi cậu này sắp ra trường: “Những lớp học của con đã mãn, sự học của con mới bắt đầu”. Lời khuyên này đáng cho các bạn thanh niên để tâm suy nghiệm.
3) Khối óc cũng như các năng lực của con người đều tuân theo quy luật: sinh trưởng bởi sự hoạt động. Có được luyện tập, có được giồi mài mới được nẩy nở. Thiếu hoạt động nó sẽ lụn bại. Một người có công tập thể dục trong mười năm, rồi mười năm kế đó bỏ phế hết sự luyện tập thì thân hình của họ chẳng nở nang hơn người chưa bao giờ tập thể dục.
Phần trí thức cũng thế, khối óc chúng ta là một miếng đất, chúng ta phải luôn luôn ra công cày bừa, trồng trọt thì mới mong hưởng huê lợi, không thể trồng một lần gặt mãi mãi. Chúng ta không lấy làm lạ khi có nhiều người lúc trẻ được học nhiều, đổ bằng cấp cao, song về sau khi chểnh mảng với việc học mà phần trí thức họ phải kém sút gần như lụn bại. Miếng đất trí thức họ rộng lớn mà bỏ hoang không trồng trọt thì họ không hưởng huê lợi nhiều hơn một người chỉ có một thửa ruộng bé song có công trồng tỉa.
Bốn cách tự học. Một khi đã quyết chí tự học thì chẳng thiếu chi dịp cho chúng ta học hỏi. Trong buổi nói chuyện, trong khi xem sách, xem báo, trong khi du lịch hoặc trong cuộc đi dạo thường ở ngoài phố, ở đâu chúng ta cũng có dịp để học thêm. Điều cần là lúc nào chúng ta cũng phải chực sẵn để đón lấy những cơ hội ấy. Nghĩa là chúng ta phải có tính tò mò trí thức. Có tính tò mò ấy chúng ta mới cố tìm hiểu, mà cố ý tìm hiểu thì mới mong gặp những điều để học. Đã không cố ý tìm vàng thì dầu vàng rơi bên đường mắt ta cũng không thấy. Người đã quyết đi bòn vàng thì dầu vàng chôn dưới mấy lớp đất họ cũng có thể đào ra.
Điều cần hơn là phải biết cách thâu thái những điều đáng học. Chúng tôi xin kể bốn phương tiện đắc lực nhất:
1) Biết xem sách.
2) Biết nghe.
3) Biết nhìn.
4) Biết suy nghĩ.
1) Học bằng cách xem sách. Hẳn nhiều người đã biết đến phương tiện này. Song thực ra đã có mấy người biết cách xem sách thế nào cho thật đắc dụng. Trước hết, hãy phân biệt lối xem sách để giải thích và lối xem sách để học.
Xem sách để giải trí là xem một cách thụ động không cần suy nghĩ nhiều, xem sách để giết thời gian như người ta thường nói. Những người xem báo để biết những tin tức vụn vặt: tướng cướp số một bên Mỹ bị bắn mấy phát súng, lông mi cô đào X dài bao nhiêu hoặc anh kép Y có mấy chiếc áo sơ mi v.v… Những người xem truyện để biết chàng Huyết Hùng tráng sĩ có đoạt được núi Hồng Lam chăng hoặc anh học trò nghèo kia sau khi thi rớt có cưới được con gái viên tuần phủ kia chăng, là những người sem sách để giải trí hoặc để thỏa tính tò mò độc hại của họ. Ấy thế có nhiều người xem sách theo lối này cũng tự cho rằng họ học thêm nhiều. Chúng tôi thường nghe nhiều người nói “tiểu thuyết dạy đời” hoặc “xem tiểu thuyết để hiểu tâm lý”. Sự thật thì tiểu thuyết chẳng “dạy” cho ta được nhiều như người ta tưởng. Nếu cần hiểu tâm lý về phụ nữ hoặc về vấn đề tình yêu chúng ta xem một quyển “Tâm Hồn Phụ Nữ” của bà Gina Lombroso hoặc một quyển “Tâm Lý Ái Tình” của P. C Jagot, chúng ta sẽ học thêm nhiều hơn xem hằng tá tiểu thuyết bàn về ái tình hoặc tâm lý phụ nữ của M. Prévost, của P. Bourget hoặc của Lê Văn Trương.
Còn nói “xem tiểu thuyết để học cách ở đời” thì là một sự lầm lạc to. Vì tiểu thuyết là sản phẩm của nghệ thuật. Mà trong khi làm việc cho nghệ thuật, người viết tiểu thuyết đâu có cần phải vẽ lại cho đúng cuộc đời thực tế, đâu có nghĩ đến việc “dạy đời” hay làm “luân lý”. Những tác phẩm văn chương thường là cuộc “đời trá hình bởi nghệ thuật”, nếu chúng ta xem theo đó để học cách ở đời hoặc xử sự như các nhân vật trong truyện thì không gì ngây ngô hơn. Nhất là những bạn trẻ thiếu óc phán đoán có thể tin làm thiệt những điều chỉ có thể xảy ra trong óc tưởng tượng của nhà văn.
Xem sách để giải trí là một thú tiêu khiển tao nhã, chúng ta chớ lầm tưởng đó cũng là một dịp để học thêm.
Để học thêm cũng cần phải xem những sách học. Sách học đây không phải bắt buộc là sách giáo khoa ở nhà trường. Lối xem sách này khác hẳn với lối xem sách để giải trí. Xem sách để học là xem những sách tích cực cần nhiều suy nghĩ. Đây không phải là dịp để giải trí, đây là một dịp để trí óc làm việc. Trong một quyển sách dạy về cách làm việc bằng trí thức, J. Payot có bàn về cách xem sách: “Đọc sách là xác nhận (hoặc phủ nhận) một tình trạng, một mối tương quan trong không gian và thời gian. Người xem sách chẳng bao giờ nên lưu ý những danh từ, những mệnh đề trong quyển sách: phải đập cho vỡ miếng xương mới ăn được tủy, nói một cách khác truy đến căn đề. Đọc sách không phải là chấp nhận một cách nô lệ những điều xác nhận của tác giả, song là sự đối chiếu của nó với thực tế, với kinh nghiệm, với lẽ phải, nó là kết tinh những kinh nghiệm loài người. Chúng ta đừng tìm xem tác giả suy nghĩ cách nào, chúng ta chỉ cần xem tác giả suy nghĩ có đúng chăng…”
Đọc sách cách thụ động là hết thời giờ. Đọc sách cách tích cực là dùng thời giờ một cách hữu ích vậy.
Ba loại sách để học thêm. Đã phân biệt thế nào là đọc sách để giải trí, thế nào là đọc sách để học. Bây giờ chúng ta thử tìm xem những loại sách nào có thể dạy chúng ta.
Đứng đầu là: Loại sách về nghề nghiệp:
Mỗi người cần phải xem những sách vở, những báo chí bàn về nghề nghiệp riêng của mình để tiến cho kịp người đồng nghề. Một luật sư, nếu sau khi ra trường không bao giờ ghé mắt đến những sách, những báo về luật thì khó mà trở nên một nhà nghề giỏi giắn, vì trong khoảng thời gian ấy biết bao nhiêu đạo luật hoặc sắc lệnh mới ban hành mà không rõ. Một người thợ vô tuyến điện học nghề từ mười năm trước, nếu không tìm sách vở, báo chí về nghề để học qua cho biết những kỹ thuật tối tân, không tài nào theo kịp đồng nghiệp lớp sau này.
Ở những nước tân tiến, bất luận một nghề nào cũng có sách vở và báo chí bàn về nghề nghiệp rất đầy đủ. Các thợ may có báo chí về nghề may. Thợ nhà in có báo chí về nghề in, trong đó các nhà nghề trao đổi ý kiến về nghề nghiệp, hoặc mách cho nhau biết một phát minh, một sáng kiến gì hay có thể giúp ích chung cho nghề nghiệp. Ở xứ ta, những sách báo về loại này thiếu hẳn, đó là một khuyết điểm lớn.
Kế đó là: Loại sách phổ thông tri thức:
Nó giúp chúng ta biết tổng quát các ngành học vấn và bước tân tiến của nó hiện giờ.
Chúng ta không cần phải theo sát những chương trình học vấn ở nhà trường vì nó đầy đủ và tỉ mỉ quá. Về mỗi môn học chúng ta chỉ cần học qua cho biết:
1) Định nghĩa của nó.
2) Những yếu chỉ của nó.
3) Kết quả những công cuộc tìm tòi của các nhà chuyên môn về môn học hiện giờ ra sao.
Bên Pháp có những loại sách dành cho người tự học dùng rất tiện, đại để như loại sách: “Để Hiểu Biết” của Th. Moreux hoặc loại sách “Nhập Môn” của nhà Hachette, loại “Tôi Biết Gì?”…
Trong rừng sách Việt ngữ hiện giờ chúng ta thấy một ít sách vỡ lòng về một vài môn học nhưng đó là công việc của một vài cá nhân, lẽ cố nhiên việc làm của họ còn nhiều thiếu khuyết và chưa thấm tháp vào đâu cả. Hiện giờ, một người chỉ biết Việt ngữ muốn tự học không biết tìm đâu cho đủ để học. Hiện giờ có ít nhiều sách về sử học, về triết học, về kinh tế học, song nhiều nhất là sách về văn chương, người ta khảo đi khảo lại hết văn chương truyện Kiều đến Tỳ Bà Hành, trong khi ấy miếng đất khoa học ít ai chịu đào xới.
Ngoài sách vở ra chúng ta cũng có thể học thêm nhiều bằng cách xem những tạp chí về văn hóa hoặc phổ thông khoa học.
Bên xứ ta ngày xưa có những tạp chí Nam Phong, Thanh Nghị, Tri Tân, Khoa Học, đều đáng cho chúng ta xem và để dành tra cứu.
Sau cùng nên kể: Loại sách dưỡng tinh thần:
Những sách mà J. des Vignes gọi là những quyển “sách bổ”.
Có những quyển sách sau khi xem qua chúng ta đâm ra mơ mộng, thấy lòng mềm nhũn, đó là những tập thơ, những quyển tiểu thuyết mà tác giả đã khéo dùng văn chương để ru ngủ lòng người. Trái lại, có những quyển sách sau khi đọc nó chúng ta trở nên hăng hái, phần khởi lạ. Đó là những quyển sách tập chúng ta theo đường đức hạnh, dạy ta rèn tâm sửa tánh, nêu cho chúng ta những gương nghị lực.
Khi thấy thân thể mệt mỏi, sức khỏe yếu kém, người ta thường tẩm bổ bằng sâm nhung, máu bò. Tại sao khi thấy chán đời, thiếu nghị lực để chiến đấu, thiếu lòng tin ở mình, những triệu chứng sự suy nhược của tinh thần chúng ta không biết chạy đi tìm những quyển “sách bổ” ấy?
Rất tiếc, sách Việt ngữ về văn chương thì không thiếu, song “sách bổ” theo nghĩa nói trên thì thật rất hiếm.
Một vài quy tắc về cách xem sách.
Quy tắc thứ nhất: Đọc trong năm phút suy nghĩ trong một giờ. Đã nói đọc sách để học là đọc sách một cách tích cực, nghĩa là làm một công việc trí thức thì nếu đọc nhiều quá hoặc “ăn tươi nuốt sống” những trang sách thì sao đủ thì giờ để suy nghĩ những điều mình đã đọc. Đọc sách như vậy chỉ làm mỏi mắt, không bổ ích cho tinh thần. Bằng chứng: một tuần lễ sau, nếu chúng ta thử xét lại mình đã đọc những gì, tác giả bàn những gì trong quyển sách ấy chắc chắn là chúng ta không nhớ gì cả. Nhà văn pháp J. Michelet nói: “Một quyển sách độc nhất người ta đọc đi đọc lại, người ta nghiền ngẫm, người ta tiêu hóa giúp ích nhiều hơn là vô số sách đọc mà không tiêu hóa”.
Nguy hại hơn nữa là chúng ta có thể mượn cớ xem sách theo lối nói trên để cho rằng mình đã làm việc trí thức rất nhiều. Song đọc sách theo cách nói trên chỉ là một thói lười biếng của tinh thần, của một tinh thần biếng nhát thích để cho tác giả suy nghĩ hộ cho mình hơn là mình chịu khó suy nghĩ. Đọc ít, suy nghĩ nhiều là quý hơn cả.
Quy tắc thứ hai: Phải xem sách với cây bút chì trên tay. Nghĩa là phải biết ghi lại những điều hay chúng ta đã đọc qua. Hoặc tổng luận ý kiến của tác giả, hoặc thử bàn lại chủ đề của quyển sách theo kiến giải của mình, hoặc ghi lấy những đoạn, những trang sách cần phải xem lại để về sau khi cần không mất thời gian xem lại suốt quyển sách. Như vậy để đỡ công việc cho trí nhớ. Cái hay không phải là nhồi nhét tất cả những điều cần biết vào trí nhớ để thành một pho từ điển sống. Cái hay là đọc rồi quên tất cả, song mỗi khi cần dùng đến là có thể biết điều cần biết ấy ở nơi đâu mà tìm, nghĩa là chúng ta phải biết cách ghi chép và xếp đặt những tài liệu để về sau dùng đến.
Quy tắc thứ ba: Phải biết chọn món ăn tinh thần thích hợp với mình. Một nhà văn nói: “Con người sống nhờ những thức ăn người ta đã tiêu hóa chứ không phải nhờ những thức ăn người ta đã ăn”. Nguyên tắc này đúng về thể chất cũng như về tinh thần. Người dạ dày khỏe có thể ăn những thức ăn khó tiêu mà nếu chúng ta bắt chước họ ăn vào bị bội thực ngay. Đối với sách vở là món ăn tinh thần, chúng ta cũng phải có sự dè dặt ấy. Lúc đầu chúng ta phải chọn những sách vừa tầm hiều biết để lần hồi đi đến những sách mắc mỏ hơn.
Bàn về cách học, ông A. Maurois viết trong quyển MộtNghệ Thuật Sống:
“Phải bắt đầu mọi sự học hỏi ở nguyên lý của nó và đừng bao giờ vượt bậc. Hầu hết những thất bại, những sụp đổ của trí tuệ là do sự thiếu một nền móng vững chắc. Một thông bệnh của thời đại là người ta muốn biết đến những môn học rất phức tạp, những vấn đề rất mắc mỏ trong khi ấy người ta quên hẳn khoa học đại số học hoặc kỷ hà học sơ lược. Chúng tôi biết nhiều đàn bà nói đến Einstein mà không hiểu gì đến Euclide cả…”.
Hay hỏi thì biết rộng, tự dụng thì hẹp hòi.
Hán học danh ngôn
2) Học bằng cách biết nghe. Biết nghe là một phương tiện để chúng ta học hỏi thêm nhiều điều mà chẳng phải mất tiền mua. Nghe để học không phải là nghe “tin tức rẻ tiền”, những lời bàn suông, tán rỗng về chiến tranh Triều Tiên, về bom nguyên tử mà chúng ta thường nghe ở quán cà phê. Biết nghe đây là biết nghe những điều hay lẽ phải đáng cho chúng ta học hỏi.
Mỗi khi giao tiếp với một người có học thức, có nhiều lịch duyệt nếu chúng ta biết nghe họ nói chuyện, chúng ta có thể học thêm nhiều điều mà chẳng mất xu lớn xu nhỏ nào cả.
Trong khi tiếp chuyện với một nhà họa sĩ chúng ta có thể nghe họ giảng về môn hội họa. Với một người thợ chụp hình chúng ta có thể học lóm một vài mánh khóe trong nghề nhiếp ảnh. Với một người thầy thuốc chúng ta có thể nhặt một vài phương thuốc để phòng thân.
Song ít người biết dùng đến phương tiện này bởi phần nhiều người ta ham “nói” hơn là thích “nghe”. Mà trong một buổi nói chuyện nếu chúng ta mắc nói nhiều quá thì khó để tâm nghe và thâu thái những lời hay lẽ phải do người khác nói. Có lẽ vì thế mà người ta thường bảo: nghệ thuật nói chuyện là nghệ thuật im lặng.
Trong quyển Đắc Nhân Tâm nhà tâm lý học Dale Carnegie có thuật chuyện một chàng thanh niên được một nhà đại doanh nghiệp cho mời đến nói chuyện. Suốt buổi nói chuyện anh ta chỉ nín lặng để nghe nhà đại doanh nghiệp nói, nói thật nhiều. Thế mà về sau, khi chàng thanh niên ấy về nhà doanh nghiệp bảo: “Tôi chưa từng thấy một người nào nói chuyện khéo như anh”.
Không phải vô cớ mà chúng ta có được hai lỗ tai mà chỉ có một cái miệng. Nghe nhiều bao giờ cũng được lợi hơn nói nhiều. Nín lặng để nghe người khác nói chúng ta không sợ lầm vấp, chúng ta có dịp học được cái hay của người ta và vừa được người ta khen là người lịch sự.
Biết nghe cũng là nghệ thuật đặt câu hỏi. Tự nhiên ít ai chịu mách cho mình cái hay của họ. Muốn nghe người ta nói, mình phải biết hỏi han và khôn khéo hơn là mình biết gợi chuyện cho người ta nói. Gặp một nhà buôn, nếu chúng ta muốn học một vài chiến thuật trong thương trường mà chúng ta lại đem câu chuyện văn chương ra bàn với họ thì chắc họ sẽ “cụt hứng” ngay. Trái lại, nếu chúng ta biết đưa đẩy họ vào những câu chuyện có dính dấp đến nghề nghiêp củ họ, hoặc tỏ vẻ khâm phục tài buôn bán của họ thì chắc chắn họ sẽ trút hết “bầu tâm sự” cho chúng ta nghe.
Ngoài những cuộc nói chuyện thường ngày ra còn có những cuộc nói chuyện có tổ chức: những buổi diễn thuyết. Đó là những dịp tốt cho người hiếu học thâu thập nhiều kiến thức. Đến nghe diễn giả bàn về một vấn đề có khi chúng ta được thấu hiểu rõ ràng và mau chóng hơn xem trong sách vở. Lời nói bao giờ cũng dễ cảm kích và có ảnh hưởng sâu và mạnh hơn câu văn. Tiếc rằng ở xứ ta chưa có một cơ quan hoặc một học hội nào đứng ra tổ chức những buổi nói chuyện cách thường trực. Hiện giờ, chúng ta thỉnh thoảng cũng được mời nghe vài buổi diễn thuyết. Đáng phàn nàn một điều: những buổi nói chuyện này phần nhiều chỉ bàn về văn chương. Hết bàn về tâm sự của Nguyễn Du người ta bàn đến cái cười của Tú Xương và quanh đi quẩn lại cũng không vượt khỏi lĩnh vực văn chương. Rằng hay thì hay thật song còn bao nhiêu vấn đề khác cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ, cũng cần đem ra bàn tại sao chẳng thấy ai nói đến? Có cần gì phải là một vấn đề to tát mới đáng làm đề mục cho một buổi nói chuyện? Nếu có ai đứng ra tổ chức những buổi nói chuyện về vấn đề giáo dục, vệ sinh, âm nhạc, bàn về cách tổ chức việc nhà, cách giáo dục trẻ con thiết tưởng chẳng kém hào hứng. Gần dây có những buổi nói chuyện do hội Khuyến Học tổ chức, ước rằng luôn luôn có những “bữa tiệc trí thức” như thế.
3) Học bằng cách biết nhìn xem. Biết nhìn xem là biết quan sát để tìm hiểu lý do, mối tương quan của tất cả những gì đã diễn qua mắt chúng ta hằng ngày.
Đây cũng là một cách học: học với chung quanh chúng ta. Nó bồi bổ sự học bằng sách vở. Nó quan trọng hơn cả sự học bằng sách vở vì nó thiết thực hơn. Học bằng sách vở chúng ta chỉ hiểu biết lờ mờ theo kiến thức của tác giả, của một người thầy. Lấy vạn vật ở chung quanh chúng ta làm đối tượng cho sự học hỏi, cái học ấy mới xác thật hơn và thực tế hơn. Bởi thế người ta quen phê bình những “con mọt sạch”: “Hắn chỉ biết làm theo sách vở”.
Nhiều người có mắt nhưng không bao giờ biết nhìn xem. Họ có thể sống thật nhiều năm, họ có thể mất nhiều tiền đi du lịch khắp năm châu bốn bể, song bởi không biết nhìn xem nên họ không súc tích được bao nhiêu kiến thức. Bởi thiếu óc quan sát nên họ chỉ thấy lớp vỏ ngoài của những vật, những cảnh, những việc xảy ra trước mắt họ. Mà nếu chỉ xét sơ ở bề ngoài thì hiện tượng nào cũng như hiện tượng nào.
Trước nhà vật lý học Denis Papin đã có bao nhiêu người được thấy: một nồi nước nấu sôi, hơi nước bốc lên làm tung nắp nồi lên từng cơn. Song bởi đã biết “nhìn xem” nên ông này nhận thấy một điều mà những người trước ông không thấy: sự ứng dụng lực lượng hơi nước làm cho máy chạy.
Một quả “táo” rơi xuống đất. Đó không phải là một hiện tượng lạ. Song bởi nhà thông thái Newton đã “nhìn xem” nên ông đã do một hiện rất thường mà suy ra luật hấp dẫn của vũ trụ.
Những nghệ sĩ có tài, văn sĩ hay họa sĩ là những người có cặp mắt điêu luyện, biết nhìn thấy những nét tân kỳ để diễn tả hoặc ghi lại trên giấy hay trên lụa cho người đời thưởng thức.
Bởi có mắt mà không biết nhìn xem nên lắm người luôn luôn mơ ước những “chân trời mới lạ” trong khi ấy nơi đất đã sinh trưởng ra họ không thiếu gì cảnh đẹp.
Biết nhìn xem là biết quan sát, biết tìm hiểu và biết giải thích. Đứng trước một vật, một người, một cảnh hoặc một việc, muốn quan sát chúng ta phải xét theo những phương diện này:
1) Những đặc tính của nó.
2) Những ý kiến nó dẫn khởi ra.
3) Sự công dụng của nó.
Xét xem nó có thể giúp ích ta về phần nào, bằng cách nào.
Thí dụ: gặp một người, nếu chúng ta chỉ nhìn xem họ mặc đồ tussor hay đồ vải, mũi họ cao hay tẹt là chúng ta chỉ xem vẻ bề ngoài. Trái lại nếu biết quan sát người ấy theo những phương diện kê trên, chúng ta sẽ tự hỏi:
1) Người ấy có gì khác hơn người? Hắn ít nói, đi đứng chậm chạp, song với cặp mặt lanh lợi, cái trán rộng của hắn, chúng ta biết đây không phải là bộ vẻ lừ đừ của một người chậm trí, song là dấu chỉ một người “khỏe” về tinh thần lẫn vật chất. Hắn ít nói mà hắn suy nghĩ nhiều. Hắn đi đứng chậm chạp song hắn hoạt động nhiều vì hắn không có những cử chỉ rối rít và vô ích.
2) Sự quan sát này dẫn khởi cho chúng ta những ý kiến gì? Tính điềm đạm: ít nói, đi đứng chỉnh tề giúp chúng ta chinh phục lòng người rất dễ. Chúng ta lại liên tưởng đến nguyên do tính rối rít của nhiều người. Chúng ta lại nghĩ đến việc học cách giữ điệu bộ đúng đắn, học cách nói chuyện v.v…
3) Nếu phải giao tiếp với hắn, hắn sẽ giúp ích ta được việc gì? Bằng cách nào?
Hắn sẽ là một tay cộng sự tốt: tuy ăn nói cộc cằn, không mềm dẻo nhưng không xảo trá. Hắn có thể là một người bạn tốt: không nịnh nọt, hay nói thẳng.
Xem thế, nếu biết quan sát cho tận nơi, tận chốn thì chỉ một việc “biết nhìn xem” một người cũng đã giúp chúng ta bao nhiêu kiến thức.
Đã luyện cặp mắt “biết nhìn xem” một cách đắc lực như thế, bất luận là lúc nào, ở đâu chúng ta cũng có dịp để học hỏi.
Đi xem một cuộc triển lãm, đi viếng một xưởng kỹ nghệ, một bảo tàng viện, đi du lịch là những dịp tốt để chúng ta thâu thái thêm nhiều kiến thức đã đành, song trong lúc thả rong ngoài phố, ngồi ở một hiệu ăn, đứng chờ trong một công sở, chen lấn với đám đông giữa nhà ga, ở đâu chúng ta cũng có thể quan sát và học thêm.
4) Học bằng cách biết suy nghĩ. Biết suy nghĩ, theo ý chúng tôi muốn nói đây không phải là viết suy nghĩ đúng phép lý luận để hiểu rành mọi việc, để đạt chân lý. Bàn về phép luận lý về cách luyện trí xét đoán là công việc của những nhà tư tưởng, những triết gia.
Ở đây, chúng tôi chỉ đứng về mặt thực tiễn mà bàn. Biết suy nghĩ đây chỉ có nghĩa hẹp hòi là biết cách nghiên cứu một vấn đề, biết tìm mối liên tưởng do vấn đề ấy phát ra để có thể thêm nhiều điều.
Muốn có kiến thức rõ ràng và đầy đủ về một vấn đề, một nghệ thuật hoặc một khoa học chúng ta nên theo năm phương diện sau đây mà suy nghĩ, mà nghiên cứu:
1) Nguồn gốc – Nguyên ủy:
Ở phương diện thứ nhất chúng ta sẽ truy tầm cội rễ của nó, những nguyên nhân đã phát sinh ra nó, ai đã phát sinh ra nó, tức là đứng về phương diện lịch sử mà xét.
2) Cách cấu thành – Những yếu chỉ:
Ở phương diện này chúng ta sẽ xét về hình thái, về chân tướng của nó, về những yếu tố cấu thành nó.
3) Sự biểu hiện – Sự thích dụng – Những đặc tính:
Ở đây chúng ta tra cứu để thấy những biểu hiện của nó. Thí dụ về văn chương chúng ta sẽ xét qua các lối văn: ca dao, thi phú, văn xuôi v.v…
Hoặc về công dụng của nó. Hoặc về những đặc tính của nó.
4) Những quy tắc – Bước tiến hóa:
Ở phần này chúng ta sẽ lượm lặt những ý kiến, những lý thuyết người ta đã bàn về vấn đề ấy. Chúng ta sẽ theo dõi bước tiến triển của nó từ xưa đến giờ.
5) Nguyên nhân chung cuộc – Kết luận:
Sau cùng, chúng ta sẽ nghĩ đến nguyên nhân cuối cùng của nó. Thí dụ khảo xét về một khoáng chất thì là sự hao mòn, tiêu diệt của nó, nếu về vấn đề con người thì chúng ta suy nghĩ đến sự chết, hoặc đến mục đích của sự sống tức là về phần siêu hình học.
Hoặc chúng ta tóm luận vấn đề theo quan niệm riêng của ta.
Tùy theo vấn đề chúng ta có thể thêm, bớt một vài phương diện cho tiện việc khảo xét, song đại để trong khi nghiến cứu bất luận về vấn đề gì luôn luôn chúng ta có thể áp dụng những “danh từ chủ yếu” vừa kể trên.
Một thí dụ cho dễ hiểu: trong một buổi nói cuyện giữa anh em, có người đem vấn đề thi ca ra bàn. Đó là một vấn đề mà chúng ta chưa hiểu rõ nên chúng ta chỉ ngồi yên để các anh em phát biểu ý kiến của họ.
Song những câu chuyện chấp nối, những ý kiến rời rạc như thế chỉ giúp chúng ta hiểu về thi ca một cách lờ mờ, thiếu mạch lạc.
Để hiểu rành mạch hơn chúng ta sẽ nghiên cứu vấn đề ấy theo năm phương diện vừa kể qua:
1) Nguồn gốc: Sự phát sinh của thi ca: Nó thoát thai ở ca dao. Lịch sử của thi ca. Ai làm thơ đầu tiên? Có phải cụ Hàn Thuyên là người đã đặt thơ chữ nôm đầu tiên?
2) Cấu thành: Phép làm thơ. Cách gieo vần. Luận về âm điệu trong thơ.
3) Biểu hiện: Các thể thơ, từ ngạn ngữ, ca dao đến lục bát, ngũ ngôn, thơ tự do v.v…
4) Bước tiến hóa: Những khái niệm về thi ca. Thơ là gì? Nhìn qua các phái thơ: lãng mạn, thuần túy, tả chân, siêu hình v.v… Chủ trương của những phái ấy ra sao? Lãnh tụ của các phái ấy.
5) Nguyên nhân chung cuộc: Ảnh hưởng của thi ca đối với con người, với xã hội ra sao? Bước tương lai của thi ca ra sao?
Nghiên cứu có hệ thống như vậy chúng ta sẽ hiểu rõ hơn và nhớ kỹ hơn.
Biết suy nghĩ cũng là biết nhận xét mối tương quan giữa một vấn đề với nhiều vấn đề khác.
Như vậy chúng ta mới thấy nhiều ý tưởng mới nẩy ra, cho chúng ta có dịp nghiên cứu rộng và học thêm.
Thí dụ, chúng ta vừa đọc một quyển sách bàn về họa nha phiến. Những ý tưởng chính do vấn đề ấy phát ra là thuộc về y học: những chất độc của nha phiến, nó phá hoại cơ thể, tinh thần chúng ta như thế nào, cách chữa trị bệnh ghiền.
Song nếu biết suy rộng ra, chúng ta sẽ thấy mối tương quan của vấn đề nha phiến với nhiều vấn đề khác: về giáo dục, về luật pháp do đó nó khiêu gợi thêm bao nhiêu ý tưởng mới trong trí óc chúng ta.
Một vấn đề về địa chất học mới xem qua chẳng có liên đới gì với việc tra cứu của nhà tâm lý học. Song một khi suy rộng ra người ta sẽ thấy: bản chất lớp đất dưới có ảnh hưởng với mặt đất và do đó có ảnh hưởng với thảo mộc, với cầm thú. Mà như thế đã có ảnh hưởng đến sự ăn uống của dân cư ở vùng đó. Vần đề ăn uống lại có liên quan đến sức khỏe, đến tinh thần con người, những yếu tố mà nhà tâm lý học không thể bỏ qua.
Cũng như nhiều đàn bà biết cách trau dồi, có thể làm đẹp con người họ với một vài món trang sức không ra chi. Nếu biết suy nghĩ như cách nói trên, chúng ta có thể làm giàu cho trí thức với những ý tưởng rất tầm thường hằng ngày phát hiện qua trong óc chúng ta.