Hoắc Triển Bạch tung mình xuống ngựa ở Dương Châu nhị thập tứ kiều.
Lúc này vừa mới lập xuân, Giang Nam vẫn còn lành lạnh, nhưng so với cái lạnh tàn khốc nơi tái ngoại thì thật không biết thời tiết đã tốt hơn bao nhiêu lần.
Hoắc Triển Bạch toàn thân lấm lem bụi đường, gã vất vả kiêm trình ngày đêm cản ngàn dặm, cuối cùng cũng trở về Dương Châu ở ngày thứ mười chín. Nhìn thành thị thân quen dưới ánh chiều hôm, gã chợt thấy nhẹ bỗng cả người, rồi cuối cùng không chống lại được cảm giác mệt mỏi cực độ, quyết định ở lại nghỉ ngơi một đêm. Thông đường thuộc lối, gã đem theo Tuyết Diêu, dắt tuấn mã đi vào Hoa giới. Cưỡi ngựa bên cầu, tay áo phất phơ. Hòa mình trong đám thiếu niên công tử tầm hoan áo quần rực rỡ, sắc mặt ngời ngời ấy, Hoắc Triển Bạch trông rõ là nổi bật: bạch y rách bươm không biết bao nhiêu lỗ, đầu tóc bù xù, sắc mặt nhợt nhạt – nếu không phải con ngựa Đại Uyển của Tiết Tử Dạ tặng gã cũng tạm cho là oai phong thì có khi gã đã bị đám a hoàn của Linh Lung hoa giới này coi như ăn mày mà đánh đuổi đi rồi.
“Liễu Phi Phi, Liễu cô nương.” Gã đã mệt mỏi hết sức, chỉ lấy ra một túi hương đung đưa trước mặt. Mụ tú bà nhận ra đó chính là túi thơm Liễu hoa khôi tặng cho Hoắc thất công tử nửa năm trước, liền giật thót mình, vội vàng ngẩng đầu lên: “Thất công tử! Thì ra là ngài! Làm sao lại ra nông nỗi này vậy? Lâu lắm không thấy ngài đến rồi… mau mau, đến nhã tọa phía sau nghỉ ngơi đi.”
Hoắc Triển Bạch chẳng buồn để ý đến sự tiếp đón nhiệt tình của mụ, chỉ đưa ngựa cho tên tiểu nhị, lắc lư lảo đảo bước lên lầu, tự đi đến gian phòng quen thuộc, hắng giọng gọi: “Phi Phi, Phi Phi!”
“Thất công tử, thất công tử!” Mụ bà bà cuống cuồng chạy theo: “Liễu cô nương hôm nay…”
“Hôm nay có khách rồi à?” Gã dừng chân.
“Không sao, để thất công tử vào đi!” Trong phòng chợt vang lên một giọng nói quen thuộc, mỹ nhân áo xanh mở cửa, yểu điệu đứng đó: “Mẹ, mẹ xuống lầu chiêu đãi những khách nhân khác đi!”
“Nhưng… Tiền viên ngoại…” Mụ tú bà ngập ngừng do dự.
“Nhờ mẹ giúp con từ chối là được rồi.” Liễu Phi Phi che miệng cười. Đợi mụ tú bà đi khỏi, nàng mới khép cửa phòng lại, nhìn kẻ gục mặt xuống giường ngủ vùi kia, ánh mắt từ từ biến đổi: “Trở về rồi à?” Nàng ngồi xuống mép giường, ngắm gương mặt mệt mỏi nhợt nhạt của gã.
“Ừm.” Gã đáp một tiếng, cảm giác như vừa chạm lưng vào giường, mí mắt đã không cưỡng lại được mà cụp xuống.
“Chuyện đó… đã hoàn thành chưa?” Liễu Phi Phi vẫn không để gã ngủ yên, đưa tay vuốt vuốt hai hàng lông mày thẳng tắp của gã, lẩm bẩm nói: “Lần trước chàng nói, nếu lần này thành công, vậy là mọi chuyện đều kết thúc cả.”
Chân mày gã dãn ra, thở hắt ra một hơi dài: “Kết thúc rồi.”
Liễu Phi Phi ngẩn người, phảng phất như không tin bao năm bôn ba của gã cuối cùng cũng có điểm dừng, rồi chợt bật cười: “Vậy thì hay quá… còn nhớ trước đây hỏi chàng, lúc nào thì cho ta chuộc thân đi theo chàng? Chàng nói phải đợi “chuyện ấy” kết thúc rồi mới nói được. Lần này, coi như là ta đã đợi được rồi.”
Hoắc Triển Bạch đột nhiên giật bắn mình, mở bừng hai mắt: “Phi Phi… lần này ta trở về, là muốn nói với nàng…”
Nhưng không đợi gã nói dứt câu, Liễu Phi Phi đã cười lên khúc khích, đưa ngón tay bịt miệng gã lại. “Nhìn điệu bộ sợ hãi của chàng kìa,” nàng cười vui vẻ: “Gạt chàng thôi. Một kẻ lưu lạc giang hồ như chàng, lấy đâu ra tiền mà chuộc thân cho ta chứ? Trừ phi là đi cướp đi trộm… không phải chàng không có bản lĩnh ấy, nhưng… chàng có vì ta mà đi cướp đi trộm không?”
Gã khẽ nhíu mày lại, đột nhiên cảm thấy mới hơn nửa năm không gặp mà vị hoa khôi xinh đẹp này đã đổi thay không ít. Gã cũng quên mất bị đám bằng hữu vô lại nào kéo đến đây tiêu khiển rồi quen biết với vị Dương Châu Linh Lung Hoa giới đệ nhất mỹ nhân này. Nàng là loại nữ tử thông minh, hiểu rõ thế thái nhân tình, nói năng lại rất hài hước dễ nghe. Mới đầu gã không quen với những chuyện tầm hoan tác lạc này, nên đã ngồi riêng một góc uống rượu, không ngờ bị nàng phát hiện, ân cần hỏi han. Lần ấy hai người đã nói chuyện rất lâu, cuối cùng say khướt lảo đảo đỡ nhau về.
Nàng là nữ nhân đầu tiên của gã.
Từ đó, hầu như năm nào gã cũng đến đây một hoặc hai lần… mỗi lần đến, đều gọi nàng ra bồi tiếp. Quan hệ đó, cơ hồ cũng chỉ là giao tình của nữ tử chốn ăn chơi với khách quen mà thôi. Thỉnh thoảng khi đi đâu xa về, gã cũng mang cho nàng vài thứ đồ tâm kỳ mới lạ, nàng cũng vì chuyện ấy mà lấy làm cao hứng. Gã chưa bao giờ nó với nàng về quá khứ và hiện tại của bản thân. Khoảng cách giữa hai người gần như thế, nhưng cũng xa như thế đó.
Có một lần trước khi gã ra đi, nàng giúp gã chuẩn bị hành trang , đưa ra tận cửa, rồi nửa đùa nửa thật hỏi: có muốn nàng đi theo không? Gã chỉ điềm đạm thoái thác, nói đợi ngày sau hãy tính. Kể từ lần đó trở đi, nàng không bao giờ nhắc đến chuyện này nữa… Kiếm khách phiêu bạt chân trời góc bể và hoa khôi tuyệt sắc chốn thanh lâu, nói cho cùng là người của hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Nàng là người thông minh, những lần hồ đồ như vậy tất nhiên cũng rất ít. Rồi sau đó, nàng cũng từ từ hiểu ra rằng, gã đến nơi đây, thực ra chỉ vì gã không còn nơi nào để đi nữa.
“Đêm nay, chỉ sợ không thể giữ chàng ở lại qua đêm được rồi.” Náng với tay lấy chiếc lược ngọc, chầm chậm chải tóc, soi mình trong gương, u uất nói: “Hai ngày trước, ta đã nhận lời làm vợ kế của một thương nhân người Hồ. Giờ cũng có thể coi như người đã hoàn lương rồi.” Gã nằm trên giường, thoáng ngẩn người: “Chúc mừng!”
“Hà… đa tạ.” Nàng cười cười, vấn tóc lên thành một búi: “Phải rồi, kết cục tốt nhất cho một cô gái thanh lâu chắc cũng không còn gì ngoài việc này… có lúc ta cũng cảm thấy mình khác với những tỷ muội khác, nói không chừng còn có được một kết thúc viên mãn. Nhưng cho dù ta cảm thấy mình khác người, thì làm được gì cơ chứ? Con người làm sao thắng được số mệnh?”
Hoắc Triển Bạch nhìn nàng chải tóc điểm trang, nhất thời không biết nên nói gì.
“Lần này chàng trở về, có phải là để từ biệt ta hay không?” Liễu Phi Phi nối lại chủ đề gã đang nói dang đở khi nãy, thông minh như nàng, hiển nhiên là đã đoán được nửa câu sau mà gã chưa kịp nói ra miệng.
Gã lặng im gật đầu, rồi chầm chậm lên tiếng: “Sau này, ta sẽ không đến đây nữa.”
“Có phải có nơi khác rồi không? Hay là trong lòng đã có người nào? Nhưng mà đằng nào thì ta cũng không ở đây nữa. Chàng có đến, cũng chẳng biết tìm ai đâu.” Liễu Phi Phi nở một nụ cười mệt mỏi, vừa quyến rũ lại vừa nồng nàn, đột nhiên cúi người thọc cho gã một cái, làm mặt giận trách móc: “Ôi, thật đúng là… ta sắp gả cho người ta, tốt xấu gì chàng cũng làm bộ hụt hẫng một chút đi chứ… lẽ nào Liễu Phi Phi này chẳng có chút quyến rũ nào hay sao?”
Gã liền cụp mắt xuống, làm bộ khổ sở: “Có thể bị Liễu hoa khôi bỏ rơi cũng là điều may mắn của ta rồi.”
Liễu Phi Phi bật cười khanh khách, đẩy khẽ lên ngực gã một cái: “Hứ, đã bị thương thế này rồi mà vẫn còn bẻm mép được.”
Rồi chỉ một khoảng khắc sau đó, nàng đột nhiên trở nên trầm mặc, cúi thấp người vuốt ve gương mặt phong sương của gã, chăm chú nhìn vào đôi mắt mệt mỏi ấy, thở ra khe khẽ: “Có điều… Triển Bạch, chàng cũng nên tính toán cho mình đi.” Nàng dịu dàng đặt lên trán gã một nụ cười từ biệt, sau đó quay người đi thẳng, không ngoảnh đầu lại nhìn gã thêm một lần.
Nhìn cánh cửa từ từ khép lại, Hoắc Triển Bạch chợt cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Đúng vậy… không trở lại nữa… không trở lại nữa. Tất cả đều kết thúc. Tám năm rồi, những tháng năm điên cuồng đốt cháy tuổi xuân đó cũng sắp trở thành quá khứ. Đúng vậy… gã cũng phải tính toán cho mình rồi, đằng nào cũng không thể tiếp tục thế này mãi được… đang nghĩ vậy, trong đầu gã chợt hiện lên hình bóng của nữ tử áo tím kia.
Gã chìm sâu vào giấc ngủ trong tình trạng mệt mỏi tột cùng.
Hoắc Triển Bạch đã đi được hơn nửa tháng, mọi thứ ở Dược Sư cốc lại quay về vẻ yên tĩnh thường ngày.
U cốc ở nơi cực Bắc Mạc hà này tựa như chốn đào nguyên thế ngoại, chó gà thi nhau kêu sửa, việc canh tác rộn ràng tấp nập, chừng như những ân oán giang hồ, tranh bá võ lâm chẳng hề liên quan gì tới nơi đây vậy. Bên ngoài gió tuyết mịt mùng, lạnh cắt da cắt thịt, trong cốc lại trời trong nắng ấm. Mười bệnh nhân của năm nay đã chữa bệnh hết, đợt Hồi Thiên lệnh mới vừa được Sương Hồng mang ra khỏi cốc, đi về phương Nam, bí mật phát ra tại các nơi khác nhau trên giang hồ, sau đó đợi những người may mắn lấy được đem trả về - Tiết Tử Dạ được nhàn rỗi một thời gian, ngồi nhìn đám thị nữ đang hối hả thu hoạch và gieo hạt dược thảo trong vườn, đột nhiên lại thấy ngẩn ngơ.
Minh Giới đi rồi, Hoắc Triển Bạch cũng đi rồi. Bọn họ đều có con đường riêng của mình, chẳng liên quan gì tới nàng hết.
Thật như một giấc mộng… những người đó đột nhiên xuất hiện trong cuộc sống của nàng, vội vàng đến, rồi cũng vội vàng đi, kết quả là chẳng để lại gì đã tiếp tục đi con đường của mình. Giờ chỉ còn lại mình nàng là vẫn ở nơi bốn mùa không đổi này, hoang mang đợi chờ tuơng lai mờ mịt của bản thân.
Nàng vô thức đưa tay lên sờ mái tóc, rồi chợt nhận ra cây trâm ngọc tím đó mình đã đem tặng người ta mất rồi. Bỗng nhiên nàng thấy lạnh, lạnh tới thấu xương, bất giác ôm chặt lấy chiếc lò ấp vàng, không ngừng ho sù sụ.
“Cốc chủ!” Đột nhiên bên ngoài nhốn nháo hết cả lên, nàng nghe thấy Lục Nhi vừa chây vừa gọi mình: “Sao hả?” Tim nàng chợt đập mạnh, vừa kinh ngạc lại vừa mừng rỡ - lẽ nào, y đã trở lại rồi?
“Cốc chủ! Cốc chủ!” Lục Nhi suýt chút nữa thì thở không ra hơi, chống tay xuống đầu gối hổn hển, lắp ba lắp bắp nói: “Không… không xong rồi… ngoài kia, ngoài kia có một quái nhân tóc xanh đòi gặp người…”
“Ồ?” Tiết Tử Dạ thất vọng, hờ hững nói: “Không có Hồi Thiên lệnh, không gặp.”
Hồi Thiên lệnh năm nay mới phát đi được mấy ngày, chắc cũng không có bệnh nhân tìm đến nhanh như vậy đâu – mỗi năm, Hồi Thiên lệnh được phát ra ở những địa điểm bí mật, sau đó lưu lạc giang hồ, trải qua vô số lượt tranh tranh đoạt đoạt, cuối cùng mới cho người cần nhất và có thực lực nhất đoạt được để tới Dược Sư cốc nhờ nàng giúp đỡ. Thông thường, ít nhiều cũng phải 3 tháng sau mới có bệnh nhân đầu tiên tới đây.
“Có! Có Hồi Thiên lệnh!” Lục Nhi thở dốc, ấp úng đáp: “Có nhiều lắm!”
“Cái gì?” Tiết Tử Dạ đứng bật dậy, kinh hãi thốt lên.
“Y, y mang theo mười tấm Hồi Thiên lệnh!” Lục Nhi khoa tay, trong mắt đầy vẻ kinh hoàng: “Mười tấm!”
“…” Ánh mắt Tiết Tử Dạ ngưng tụ lại một điểm, chắp tay đi đi nhanh vài bước bên cửa sổ: “Sương Hồng đâu?”
“Bẩm cốc chủ,” Tiểu Tranh đứng bên cạnh thấp giọng bẩm báo: “Sương Hồng vẫn chưa trở về.”
Sương Hồng ra ngoài phát Hồi Thiên lệnh vẫn chưa trở về mà đối phương đã mang cả mười tấm Hồi Thiên lệnh tìm đến cửa! Tiết Tử Dạ thầm thở hắt ra một hơi – nàng ở Dược Sư cốc này mười mấy năm, đây là lần đầu tiên gặp phải tình huống kỳ lạ như vậy. Rốt cuộc đối phương là nhân vật thế nào, mà có thể thần xuất quỷ mạt như vậy?
“Dẫn ta ra xem thử.” Nàng dặn dò, ra hiệu cho Tiểu Tranh lấy chiếc áo lông khoác lên.
Ngoài cửa cốc gió thổi rất mạnh, làm những tảng đá lớn cũng lăn loạn xạ. Khi kiệu dừng lại, nàng vén màn lên, chỉ thấy bên kia thạch trận thấp thoáng một bóng áo trắng phấp phới. Vì khoảng cách quá xa nên không nhìn rõ mặt mũi đối phương thế nào, chỉ thấy mái tóc dài màu xanh lam tung bay trên nền tuyết trắng, khiến người ta khó mà quên được. Lạ một điều là, gió tuyết tuy lớn, nhưng trên người y cả một bông tuyết cũng không thấy bám vào, phảng phất như thân thể y toả ra một sức mạnh ấm áp nhu hoà, làm tan đi sương tuyết lạnh buốt kia vậy.
“Tiết cốc chủ?” Nhìn thấy kiệu của Tiết Tử Dạ hạ xuống phía đối diện, người kia mỉm cười cúi đầu hành lễ, giọng y không lớn, nhưng vẫn vượt qua gió tuyết truyền tới rất rõ, dịu dàng mà rất dễ nghe: “Diệu Phong sứ của Đại Quang Minh cung ở Côn Luân sơn phụng mệnh đến Dược Sư cốc cầu y.”
Đại Quang Minh cung? Tiết Tử Dạ ngẩn người, bàn tay sững lại trên màn kiệu, nheo mắt nhìn bạch y nam tử đang mỉm cười kia.
Dưới trướng Giáo vương ở Đại Quang Minh cung có Tam Thánh Nữ, Ngũ Minh Tử và Tu La trường tam giới. Trong Ngũ Minh Tử, Phong, Hoả, Thuỷ, Không, Lực thì Diệu Thuỷ, Diệu Hoả, Diệu Không và Minh Lực đều là những nhân vật mà người trong võ lâm nghe tên là biến sắc, duy chỉ có Diệu Phong là thần bí nhất, nhiều năm nay trên giang hồ chưa từng có ai nhìn thấy mặt thật của y, nghe đồn người này là tâm phúc của Giáo vương, xưa nay đều luôn ở bên cạnh lão.
Vậy mà kẻ thần bí này giờ lại đột nhiên xuất hiện ở Dược Sư cốc!
Nhất thời nàng cũng không biết nên trả lời thế nào, chỉ giương mắt lên nhìn đối phương lấy ra một bọc Hồi Thiên lệnh, lần lượt bày cả mười tấm xuống đất.
Diệu Phong phẩy phẩy vạt áo, hành lễ rồi nói: “Tại hạ nghe nói Tiết cốc chủ ưa thanh tịnh, phải dựa vào vật này mới có thể vào cốc khám bệnh,” từ đầu đến giờ y vẫn mỉm cười, ngôn từ cũng vô cùng lễ độ, “vậy nên đã theo sau Sương Hồng cô nương, thu những tấm Hồi Thiên lệnh này lại.”
Tiết Tử Dạ nhìn mười tấm Hồi Thiên lệnh, lại lạnh lùng hỏi: “Có mười bệnh nhân cần chữa à?”
“Bệnh nhân thì chỉ có một.” Diệu Phong mỉm cười cúi mình, gương mặt như đang đeo một tấm mặt nạ vô hình: “Nhưng tại hạ sợ cốc chủ không nhận lời cứu chữa hoặc bị người khác đoạt mất, làm cản trở cốc chủ chữa bệnh giúp tại hạ, vậy nên dứt khoát lấy thêm vài tấm nữa… đằng nào cũng tiện tay.”
Tiết Tử Dạ ngấm ngầm tức giận, chau mày nói: “Rốt cuộc là ai muốn trị bệnh?” Diệu Phong cúi người thật thấp: “Là Giáo vương đại nhân của bản giáo.”
Đôi mắt Tiết Tử Dạ chợt sáng rực lên, bàn tay nắm chặt lại trong vô thức: “Giáo vương?”
“Giáo vương đại nhân trong lúc bế quan tu luyện vì bất cẩn đã tẩu hoả nhập ma,” Diệu Phong vẫn khom người, đứng bên kia thạch trận dùng truyền âm nhập mật đối thoại với nàng, giọng nói rõ ràng rành rọt như đang ở ngay bên cạnh vậy, “Người đã điều dưỡng nhiều ngày, nhưng vẫn chưa thấy khởi sắc… nghe nói Dược Sư cốc y thuật quán tuyệt thiên hạ, nên đã lệnh cho tại hạ vượt ngàn dặm đường tới đây cầu y.”
Tiết Tử Dạ ngây người: “Lệnh cho các hạ?” Cuối cùng cũng tìm được một lý do đường hoàng để cự tuyệt, nàng chợt nhoẻn miệng cười, vẫy tay ra lệnh cho Lục Nhi buông màn kiệu xuống lạnh lùng đáp: “Thứ lỗi, Dược Sư cốc xưa nay chưa từng có lệ ‘ra ngoài chữa bệnh’.”
“Dù là thế này cũng không được sao?” Sau lưng chợt vang lên một lời truy vấn, giọng nói vẫn êm dịu dễ nghe như thế, song đã mang theo ba phần áp lực, kế đó là một tiếng vỗ tay.
“Ôi da!” Lục Nhi và mấy ả thị nữ bên cạnh nàng đột nhiên buột miệng kêu lên một tiếng, đưa tay lên che mắt.
Tiết Tử Dạ giật mình, liền vén màn kiệu lên, rồi cũng bị chói mắt trong khoảnh khắc – trên mặt tuyết, đột nhiên loé lên sắc vàng chói lọi!
Mười hai tên Côn Luân Nô đặt chiếc rương lớn xuống đất, 24 rương vàng xếp đều tăm tắp bày hàng ngang trước cửa cốc.
“Nghe nói tiền trị bệnh của Tiết cốc chủ rất cao, 10 vạn lượng cứu một người,” Diệu Phong mỉm cười khom mình: “Giáo vương đặc biệt bảo thuộc hạ mang theo một chút quà nhỏ này tới, mong được trả gấp mười lần để cầu y.”
Lục Nhi nhìn mà trợn mắt le lưỡi, số vàng này nào chỉ đáng có 100 vạn lượng bạch ngân?
Ả biết rõ cốc chủ của mình xưa nay vốn rất coi trọng tiền tài, nay thấy hoàng kim chất đống trước mặt thế này, trong lòng cũng không khỏi thoáng động tâm, nghiêng đầu xem phản ứng chủ nhân thế nào. Không ngờ màn kiệu đã buông xuống từ lúc nào, chỉ nghe giọng nói của Tiết Tử Dạ lạnh lùng truyền ra: “Thiếp thân mang bệnh trong người, hành động bất tiện, chuyện ra ngoài khám bệnh đó, xin thứ cho… Diệu Phong sứ, mời ngài về đi!”
Ngưng một chút, rồi như không kiềm chế được, nàng lại bổ sung thêm một câu: “Các hạ cũng nên chú ý đến bản thân… màu tóc xanh lam, chỉ e đã nhiễm Băng tằm hàn độc rất nặng.” Diệu Phong không ngờ Tiết Tử Dạ đứng tận bên kia thạch trận, chỉ dựa vào màu tóc mà đoán ra được căn nguyên bệnh của mình, cũng thoáng ngây người, nhưng nét mặt vẫn giữ nguyên nụ cười tự tại: “Cốc chủ quả nhiên là bậc quốc thủ trong nghề y, xin người đem phần hảo ý này trị bệnh cho Giáo vương, tại hạ sẽ cảm kích bất tận!”
“Chuyện này, thứ cho ta không thể tuân mệnh,” Tiết Tử Dạ lạnh lùng buông màn kiệu xuống. Đúng lúc chiếc kiệu được nhất lên thì chợt nghe Diệu Phong cao giọng nói: “Trước khi tại hạ tới đây, cũng từng thăm dò qua… nhiều năm nay, Tiết cốc chủ không tiện xuất cốc là vì thân thể bị nhiễm lạnh, sợ gió tuyết bên ngoài, chẳng hay có đúng như vậy không?”
Tiết Tử Dạ không trả lời, chỉ ra lệnh cho Lục Nhi trở về. Nhưng giọng nói phía sau lại cất lên lần nữa: “Nếu là như vậy, Diệu Phong có thể giúp cốc chủ trừ đi hàn khí trong người.”
“Hứ,” Tiết Tử Dạ không nén nổi tiếng cười: “Xem ra y thuật của Diệu Phong sứ còn cao minh hơn cả thiếp thân rồi.”
“Cốc chủ y thuật thông thần, không biết đã từng nghe đến ‘Dục Xuân Phong’ (tắm gió xuân) bao giờ chưa?” Y mỉm cười, chầm chậm xoè hai tay ra, khẽ áp vào nhau – xung quanh như đột nhiên có một chiếc lồng vô hình từ từ khuếch trương, bất luận gió tuyết lớn thế nào, hễ cứ đến bên cạnh y là đều bị luồng khí ấm áp đó làm cho tan biến trong lặng lẽ.
Diệu Phong đứng trên mặt tuyết, vạt áo bay bay, nét mặt vẫn nở nụ cười ôn hoà, giọng nói cũng dịu dàng dễ nghe, cả người y như toát lên một thứ ấm áp từ trong ra ngoài. Nàng trầm ngâm ngước mắt nhìn, không khỏi thoáng ngẩn người – cảm giác ấm áp như mặt trời mùa xuân này hoàn toàn trái ngược với trời băng đất tuyết xung quanh y!
“Tại hạ từ nhỏ đã bị trúng độc Băng tằm, để kháng cự lại hàn độc đã tốn mất 20 năm, cuối cùng cũng luyện thành được bí thuật khắc trên Thánh Hoả lệnh.” Diệu Phong sứ nhẹ nhàng chập hẳn 2 tay lại, phảng phất như có một luồng khí ấm áp từ lòng bàn tay y chảy ra, dịu dàng nhưng cuồn cụôn, khuấy động hoà trộn với gió lạnh ngoài cửa cốc. Chỉ trong khoảng khắc, tuyết trắng trong không gian 3 trượng xung quanh y đã hoàn toàn biến mất!
Lục Nhi nhìn mà trợn mắt há hốc miệng, kế đó thì mừng rỡ như phát cuồng – Không sai! Tâm pháp này với bệnh tình của tiểu thư quả là đúng thuốc đúng bệnh!
Diệu Phong mỉm cười buông thõng tay, hoa tuyết xung quanh lại tiếp tục rơi xuống, chỉ thấy y khom mình hỏi tiếp: “Cốc chủ y thuật tuyệt luân, nhưng so với nội công, kim châm diệu dược cũng có chỗ không bằng… chẳng hay tại hạ có may mắn đựơc trục xuất hàn khí giúp cốc chủ hay không vậy?”
“Tiểu thư… tiểu thư!” Lục Nhi vặn hai tay vào nhau, nhìn người khách tóc lam áo trắng kia, nét mặt kích động khôn cùng: “Y, y có thể trị bệnh cho người đó! Chi bằng…”
“Lục Nhi, câm miệng!” Tiết Tử Dạ cương quyết gắt giọng quát. Lục Nhi giậm chân, không cam tâm nói: “Tiểu thư! Người mang bệnh đã nhiều năm…”
“Sinh tử có số.” Tiết Tử Dạ cười lạnh với gió tuyết, hai hành lông mày thanh tú khẽ nhướng lên: “Đại phu không thể tự chữa cho mình, từ xưa đã vậy… Diệu Phong sứ, Tiết Tử Dạ này đâu phải kẻ tham sống sợ chết để cho người ta uy hiếp? Khởi kiệu!”
Đám thị nữ không có cách nào, đành nhấc kiệu lên lần nữ, đi vào trong cốc.
Diệu Phong đứng trên mặt đất tuyết phủ, nụ cười cuối cùng cũng ngưng kết lại – nữ nhân này quả thật là khó đối phó, mềm cứng đều không xong, thậm chí cả tính mạng bản thân cũng không màng tới! Y nhận lệnh tới đây, trên đường vốn đã nghĩ qua rất nhiều cách, cũng đã chuẩn bị khá đầy đủ, thật không ngờ liên tiếp đổi mấy cách rồi mà vẫn đụng phải đinh. “Tiết cốc chủ! Nếu cô vẫn chấp ý không chịu…” Giọng nói dịu dàng dễ nghe bỗng nhiên trở nên nghiêm lạnh, thấp thoáng ẩn hiện sát khí.
Tiết Tử Dạ cười lạnh: cuối cùng cũng lộ ra chân tướng rồi hả? Ma giáo hành sự, chẳng phải vẫn như vậy hay sao?
“Diệu Phong sứ, ngài nên biết rằng, nếu người hành y không cam tâm tình nguyện thì bệnh nhân sẽ vĩnh viễn không thể nào khỏi bệnh được.” Nàng lạnh lùng cất tiếng, trong mắt hiện lên vẻ giễu cợt: “ta không sợ chết, ngài không uy hiếp nổi ta, lại cũng không hiểu y thuật, làm sao có thể phân biệt được đơn thuốc của ta có chính xác hay không? Chỉ cần ta tuỳ tiện gia giảm một chút thành phần trong đơn, hoặc kê bừa một phương thuốc bậy bạ, Giáo vương của các vị sẽ càng chết nhanh hơn mà thôi.”
“Chuyện này lợi hại thế nào tại hạ tự nhiên hiểu rõ.” Giọng nói của Diệu Phong vẫn ung dung bình thản, nét mặt thoáng lộ nụ cười, chậm rãi nói từng chữ một: “Vì vậy, tại hạ quyết không có ý động võ mạo phạm. Nếu Tiết cốc chủ vẫn không chịu…” Y đột nhiên xoay người hướng về phía Tây quỳ xuống, một thanh đoản đao sắc như nước trượt khỏi tay áo, cổ tay khẽ lật nhẹ, kê vào trước bụng: “Diệu Phong không thể về Côn Luân phục mệnh, đành tự tận nơi đây vậy!”
Lời nói vừa dứt, 12 tên Côn Luân Nô sau lưng y đã cùng lúc rút trường đao ra, không hề do dự lật tay chém mạnh, máu tươi bắn vọt lên cao, 12 chiếc đầu lâu lần lượt lăn trên mặt tuyết, tựa như 12 đoá hoa lớn đỏ rực đang nở rộ.
“A!” Các nữ tử trong Dược Sư cốc chưa từng thấy cảnh tượng nào thảm khốc nhường ấy, nhất tề rú lên thất thanh, bịt chặt hai mắt lại. “Dừng tay!” Tiết Tử Dạ hét lớn, vạch màn kiệu ra: “Mau dừng tay!”
Lời vừa cất lên, Lục Nhi nhận được chỉ lệnh, lập tức động thân, chỉ nhấp nhô vài cái đã vượt qua thạch trận trong nháy mắt, lao tới bên cạnh Diệu Phong, đưa tay ngăn một đao tự đâm vào mình của y, nhưng chung quy vẫn chậm mất một bước, đoản đao đã cắt vào tiểu phúc (bụng dưới), máu bắn vọt ra.
“…” Tiết Tử Dạ cũng theo sau chạy tới, mắt thấy Diệu Phong gục xuống đất, nhất thời không nói được gì. Nàng cúi người, nhìn rõ gương mặt y: thì ra niên kỷ người này cũng tầm tầm như Minh Giới, mái tóc dài màu xanh lam kỳ dị, tướng mạo văn nhã thanh tú, hai mắt sáng ngời. Chỉ khác là, có lẽ vì tu luyện loại tâm pháp ấm áp điều hoà kia, nên y không có thứ khí chất cô độc lạnh lùng của Minh Giới, ngược lại từ trong ra ngoài đều toát lên cảm giác ấm áp, hoàn toàn không hề cảm nhận được chút khí chất yêu tà nào cả.
“Ư…” Đối phương ngẩng đầu lên, nhìn nàng mỉm cười, đưa cánh tay đầy máu ra, tiếng được tiếng mất: “Tiết cốc chủ… cô… cô… đã đi qua thạch trận… cũng có nghĩa là, đã đáp ứng ra ngoài trị bệnh rồi đúng không?”
Nàng để cho Diệu Phong nắm lấy tay mình, cảm nhận máu của y từ từ trở nên lạnh giá trong bàn tay, lòng không ngừng dậy sóng, chấn động đến nỗi không thể nói ra lời – kẻ đến từ Ma giáo này không ngờ cũng điên cuồng hệt như Minh Giới vậy! Cho dù từ nhỏ đã bị người ta dùng độc Băng tằm biến thành dược nhân để nuôi dưỡng, nàng có thể tưởng tượng được nhiều năm nay y phải chịu đựng bao nhiêu đau đớn giày vò, thế nhưng… tại sao y vẫn bất chấp tất cả để bán mạng cho Giáo vương như vậy? Đám người Ma giáo này đều điên hết cả rồi hay sao?
Y vẫn kiên trì gắng gượng không để mình ngất đi, khăng khăng đợi câu trả lời cuối cùng của nàng. Tiết Tử Dạ không trả lời, chỉ cất tay bịt vết thương nơi bụng y lại. “Lục Nhi, Tiểu Tranh, Lam Lam,” nàng đứng dậy, gọi mấy ả thị nữ đang ngây người ra vì sợ kia lại, “Khiêng y vào cốc.” Lúc được nhấc lên khỏi mặt tuyết, Diệu Phong đã đau đến tưởng chừng ngất đi, ấy vậy nhưng khoé môi y vẫn hé nở một nụ cười: quả nhiên không sai… Dược Sư cốc Tiết cốc chủ là người chẳng sợ gì hết. Nhược điểm duy nhất của nàng ta, chính là sợ nhìn thấy cái chết xảy ra trước mắt mình. Y thắng rồi.
Côn Luân. Đại Quang Minh cung , Tây Tắc Điện.
Trong mật thất, hai bóng người trầm mặc nhìn nhau. Nhìn những mảnh thi thể mới thu nhặt lại, đại hán tóc đỏ trên tay quấn con rắn lớn vừa mới trở về Côn Luân sơn không khỏi le lưỡi nói: “Hà, cũng may là chúng ta không kịp động thủ! Bằng không đây chính là kết cục của ta với ngươi rồi!”
“Giáo vương bế quan thất bại, tẩu hoả nhập ma, miễn cưỡng mới bình định được đám người Nhật thánh nữ, lúc này nguyên khí đã tổn thương nặng nề rồi,” Đồng ôm kiếm, dựa lưng vào cột ngước mắt nhìn lên bầu trời xám xịt bên ngoài, lạnh lùng nói: “Lão hồ ly giảo hoạt… lúc đó lão đã suy nhược hết mức, nhưng không ngờ vẫn táo gan đính thân tiếp kiến khiến ta không nghi ngờ. Nếu lúc đó mà động thủ, nhất định Lịch Huyết kiếm có thể uống máu lão rồi! Chỉ đáng tiếc, lúc ấy ta cũng bị lão hư trương thanh thế làm cho không dám vọng động.”
“Hừ, Diệu Thuỷ cũng không kịp thời báo tin cho ngươi nữa,” Diệu Hoả gằn giọng đầy vẻ không cam tâm: “Lỡ mất một cơ hội tốt như vậy!” Ánh mắt Đồng từ từ ngưng tụ lại một điểm: “Không dựa vào Diệu Thuỷ được… xem ra, chúng ta vẫn phải tự tính kế thôi.”
“Cũng phải!” Hai mắt Diệu Hoả như bốc lửa, đấm một quyền vào khoảng không: “Giờ Giáo vương đã tẩu hoả nhập ma, tên tiểu tử Diệu Phong đó thì đã bị phái đi, chỉ còn một mình Minh Lực trong cung. Cơ hội ngàn năm khó gặp đấy!”
“Diệu Phong giờ này đại khái cũng đến Dược Sư cốc rồi,” đôi mắt Đồng chuyển sang sắc tím, hai hàng môi mỏng mím chặt thành một đường thẳng: “Bất kể hắn có mời được Tiết Tử Dạ hay không, chúng ta quyết phải động thủ trước khi hắn trở về! Bằng không, khó mà bảo đảm được hắn có nghe tin ta đoạt Long huyết châu hay không… tin tức này mà lộ ra thì… Diệu Hoả, chúng ta sẽ bại lộ triệt để đó!”
Diệu Hoả có vẻ giận dữ trừng mắt lên nhìn Đồng: “Đã nói với ngươi rồi, cần phải giết nữ nhân đó đi! Thật không biết lúc ấy ngươi bị chạm dây thần kinh nào nữa, để mạng ả lại giờ đã thành hoạ lớn rồi kìa?”
Đồng chau mày lại, nhưng cũng không có cách nào phản bác lại y.
Đúng vậy, trước khi rời khỏi Dược Sư cốc, hắn cần phải giết chết nữ nhân đó đi. Nhưng tại sao lúc ấy hắn lại như bị ma xui quỷ khiến mà tha cho nàng ta? Đồng lắc đầu mệt mỏi. Xem ra, lần này kế hoạch mà thành công, bất luận ra sao cũng phải đi Dược Sư cốc một chuyến nữa – nhất định phải giết chết nữ nhân đó, để cắt đứt nốt chút tạp niệm đó mới được. Bằng không, sớm muộn gì hắn cũng sẽ mất mạng vì chuyện này.
Hắn nắm chặt Lịch Huyết kiếm, rít lên lạnh lùng: “Ta sẽ chọn trong Tu La trường một đội tâm phúc chặn đường bọn chúng… Diệu Phong võ công cao tuyệt, ta cũng không hy vọng hành động này thành công. Chỉ mong có thể cầm chân bọn chúng một chút, để ở đây có thêm thời gian mà ung dung hạ thủ.”
Diệu Hoả gật đầu nói: “Còn ở đây sắp xếp ra sao?”
“Giáo vương đã muốn che giấu thương thế của mình với bên ngoài, tất sẽ dẫn ngao khuyển tản bộ trong Lạc viên trên đỉnh núi như thường ngày,” hắn ngước mắt nhìn tuyệt đỉnh Côn Luân, lạnh lùng nói: “Ta trở về Ám giới trong Tu La trường tĩnh toạ, Tập trung Đồng lực… 3 ngày sau, chúng ta sẽ hành động.”
“Được!” Diệu Hoả suy nghĩ một lát, rồi gật đầu đồng ý: “Có cần báo với Diệu Thuỷ không?”
Đồng nghĩ ngơi giây lát, cuối cùng lắc đầu: “Không cần. Nữ nhân ấy là địch hay bạn còn chưa biết được, đừng hy vọng gì ở thị thì hơn.”
Cơ hội sẽ không đến lần thứ hai, nếu không nắm lấy có thể cả đời này cũng không còn cơ hội để lật đổ Giáo vương nữa!
Không thành công, thì cũng thành nhân. Ít nhất cũng tốt hơn cả đời quỳ dưới chân người ta làm chó làm lợn.
Dược Sư cốc. Trong Hạ Chi viên, Tiết Tử Dạ ngẩng mặt nhìn bầu trời phương Nam, hàng lông mày thanh tú khẽ chau lại. Đã hơn 20 ngày rồi, Hoắc Triển Bạch giờ chắc đã tới Dương Châu – không biết y có tìm được sư phụ không? Tám năm nay, nàng chưa từng đi tìm sư phụ cũng không biết người có còn ở Dương Châu không nữa? Chỉ mong tên mặt dày đó may mắn, có thể thuận lợi tìm được Liêu Thanh Nhiễm sư phụ nàng. Bằng không… bệnh của Mạt Nhi, trên đời này tuyệt đối không còn ai trị nổi nữa. Nàng thở dài một tiếng, không thể đoán nổi nét mặt của Hoắc Triển Bạch sẽ thế nào khi gã biết nàng đã gạt gã suốt 8 năm trời.
Rồi nàng lại nhìn lên trời Tây, vẻ lo âu càng thêm đậm nét – Minh Giới, giờ nó thế nào rồi? Cho dù nó đã từng gạt ta, làm ta bị thương, nhưng thủy chung ta cũng không thể nào không lo lắng cho nó. Dù có lấy được Long huyết châu, hoàn thành mệnh lệnh lần nay, nhưng sau khi trở về Đại Quang Minh cung, cuộc sống của nó liệu có tốt hơn không? Hay là vẫn như trước đây, trở lại Tu La trường, đợi chờ mệnh lệnh tiếp theo như những sát thủ khác. Minh Giới, Minh Giới. Đệ đã quên hết thật rồi sao? Hay là, vì dù có nhớ lại những hồi ức đó thì cũng không có tác dụng gì, mà chỉ làm tăng thêm nỗi thống khổ mà thôi? Ta phải thế nào, mới có thể dẫn đệ ra khỏi nơi tối tăm đó đây…
Nàng đang trầm mặc nghĩ ngợi, chợt nghe phía sau có tiếng lạo xạo. “Đừng cử động!” Tiết Tử Dạ chẳng buồn quay đầu lại, chỉ khẽ mắng: “Vết thương ở bụng quá sâu, còn chưa thể xuống giường.”
Nhưng nam tử có mái tóc màu xanh lam kia đã đến sau lưng nàng: “Ủa, khoẻ nhanh vậy sao?” Tiết Tử Dạ không khỏi bật ra một tiếng cười lạnh lùng, nhìn vết thương nơi bụng y: “Quả nhiên khi hạ đao các hạ đã cố ý tránh nơi có mạch máu, Diệu Phong sứ ngài cược rằng ta sẽ không nhìn ngài chết hả?”
“Tại hạ có thể lập tức tự tận để làm vơi nỗi giận trong lòng Tiết cốc chủ.” Diệu Phong dâng đoản đao lên, trên mặt vẫn nở một nụ cười ôn hoà như trước, người khẽ khom lại: “Nhưng trước đó, xin Tiết cốc chủ tranh thủ đi Côn Luân càng sớm càng tốt, tránh để lỡ dở bệnh tình của Giáo vương.”
Tiết Tử Dạ nhất thời không biết phải nói sao. Gương mặt Diệu Phong dường như lúc nào cũng có nụ cười ôn hoà ấy – nụ cười đó như đang phát sáng, mang theo cả sự bình yên tĩnh lặng trong nội tâm toả ra ngoài. “Dục Xuân Phong” là võ học tối cao được ghi lại trên Thánh Hoả lệnh, cùng với “Thiết mã băng hà” được coi là tâm pháp tuyệt đỉnh của hai hệ âm dương, nhưng thuật này yêu cầu người tu luyện phải có tâm địa ấm áp bình hoà, nếu kẻ tâm địa gian tà tàn độc mà luyện tất sẽ nửa đường tẩu hoả nhập ma. Người này luyện “Dục Xuân Phong” 20 năm, không ngở đã có thể dung hợp một cách nhịp nhàng nội tức và khí chất của bản thân vào như thế.
Nàng nhìn y với ánh mắt khó hiểu: “Từ nhỏ đã bị nuôi bằng độc Băng tằm, mà vẫn cam tâm tình nguyện mất mạnh vì ông ta sao?”
Diệu Phong mỉm cười: “Giáo vương đối với tại hạ có ân tái tạo.”
Tiết Tử Dạ cau mày: “Ta không hiểu.”
“Tiết cốc chủ không biết đó thôi, tại hạ vốn là người của Hoàng tộc Lâu Lan,” Diệu Phong cười điềm đạm, “sau rồi quốc vận suy vong, bị bức phải lưu lạc. Trên đường gặp phải lũ phỉ tặc, tất cả đều nhờ Giáo vương mới sống được đến ngày hôm nay.”
“Ồ…” Tiết Tử Dạ lẩm nhẩm, ngẩng đầu nhìn trời: “Nói như vậy, Giáo vương đó cũng đã làm chuyện tốt hay sao?”
Diệu Phong cung kính: “Xin Tiết cốc chủ ra tay tương cứu.”
“Được rồi, ta đồng ý đến Côn Luân chữa bệnh cho Giáo vương của ngài…” Tiết Tử Dạ phất tay áo đứng lên nhìn người thanh niên trẻ tuổi từ đầu đến cuối vẫn luôn mỉm cười ấy, giơ một ngón tay lên: “Nhưng, ta có một điều kiện.”
Diệu Phong gật đầu: “Tiết cốc chủ cứ nói.”
Tiết Tử Dạ cười lạnh hỏi: “Ngài làm chủ được sao?”
“Tại hạ có thể.” Diệu Phong khom người, lấy trong tay áo ra một vật, cung kính đưa lên: “Đây là thánh vật Giáo vương trao cho tại hạ trước khi lên đường… Giáo vương khẩu dụ, chỉ cần Tiết cốc chủ xuất thủ cứu chữa, bất cứ yêu cầu nào cũng có thể đáp ứng.”
“Thánh Hoả lệnh!” Tiết Tử Dạ vừa nhìn thấy vật đó, liền thất thanh kêu lên.
Lệnh phù được đúc từ Huyền thiết đó cực nặng, toát lên một thứ ánh sáng lạnh lẽo, bên trên khắc đầy những văn tự kỳ lạ mà nàng không hiểu. Tiết Tử Dạ cũng từng nghe người trong giang hồ nói loáng thoáng về vật này, biết đây là thánh vật chí cao vô thượng của Ma giáo, duy chỉ mình Giáo chủ mới được sở hữu. “Ồ…” Nàng khẽ cười: “Xem ra Giáo vương của ngài lần này bệnh cũng không nhẹ đâu”
Diệu Phong không nói gì.
Nàng nhận lấy Thánh Hoả lệnh, gật đầu với y, nói: “Được, ngày mai ta sẽ theo ngài đến Côn Luân.”
“Đa tạ.” Diệu Phong bật cười mừng rỡ, thầm thở phào nhẹ nhõm, đột nhiên cảm thấy vết thương đau nhói đến không thể chịu đựng, khẽ rên lên một tiếng, ôm lấy bụng loạng choạng ngã xuống, máu từ từ rỉ ra nơi kẽ tay.
“Ôi…” Tiết Tử Dạ vội lao tới, cúi người đỡ lấy y, thở dài một tiếng: “Giống y như Minh Giới vậy, toành những kẻ không cần mạng.”
Minh Giới? Diệu Phong thầm kinh ngạc, lại nghe nữ tử kia lẩm bẩm bên tai: “Lần này, bất luận thế nào cũng phải mang nó ra khỏi nơi ấy…”
Tu La trường. Ám giới.
Bên tai liên tiếp vang lên những tiếng kêu thảm thiết, cùng tiếng xương thịt vỡ nát, cùng tiếng gào điên loạn trước khi giao tính mạng cho tử thần – đó là âm thanh từ Súc Sinh giới bên cạnh truyền tới. Đám người mới vừa được đưa vào Tu La trường đang tiến hành đợt đào thải tàn khốc đầu tiên. Ở Súc Sinh giới, sinh mạng con người chẳng khác nào nhành cây ngọn cỏ, 500 đứa trẻ, ở đây sẽ chết đi tám phần mười, chỉ còn lại 100 đứa sống vào được Sinh Tử giới, tiến hành tu luyện tầng thứ hai. Cuối cùng, cỏ thể ra khỏi Sinh Tử giới cũng không quá được 50 người.
Ám giới là cảnh giới cao nhất của các sát thủ trong Tu La trường: vượt trên Súc Sinh giới và Sinh Tử giới. Là tượng trưng của kết quả nhiều năm khổ luyện. Trải qua nhưng đợt đào thải nghiêm khắc, chỉ có rất ít sát thủ sống được để bước vào Quang Minh giới – những kẻ sống sót ấy đều trở thành sát thủ tinh anh nhất của Đại Quang Minh cung. Chẳng hạn như… hắn và Diệu Phong.
Ở nơi tối tăm nhất, một nam tử áo đen đang lặng lẽ tĩnh toạ, hai mắt nhắm nghiền.
Những tiếng kêu la thảm thiết ấy cơ hồ hoàn toàn không lọt vào tai Đồng. Hắn ngưng tự toàn bộ tâm thần, soi tâm tịnh khí, dồn hết cả sức mạnh vào hai mắt đang khép chặt. Hắn đã một mình bế quan tĩnh toạ trong Ám giới này hai ngày tròn, không ăn không uống, không nói một câu một chữ.
Sử dụng Đồng thuật sẽ tiêu hao tinh lực cực lớn, đối phó với nhân vật như Giáo vương lại càng không thể qua loa đại khái, tĩnh toạ ngưng thần ba ngày thực ra cũng vẫn chưa đủ. Đi theo Giáo vương đã mười mấy năm, hắn hiểu rất rõ con người ngồi trên ngọc toạ ấy đáng sợ thế nào. Chỉ là, giờ hắn đã không còn thời gian nữa. Hắn nhất định phải tranh thủ ra tay trước khi Diệu Phong ở Dược Sư cốc trở về, bằng không dù Diệu Phong không biết bí mật hắn tranh đoạt Long huyết châu ở đó, thì cũng mang nữ nhân kia về trị thương cho Giáo vương – thương thế của Giáo vương mà có chuyển biến tốt, hắn sẽ không còn cơ hội để hạ thủ nữa.
Song, hễ cứ nghĩ đến “Dược Sư cốc”, đôi mắt đen trắng rõ rành kia lại đột nhiên hiện ra trước mắt hắn, dịu dàng mà buồn bã. Minh Giới… Minh Giới…, trong một thoáng ngẩn ngơ, hắn nghe thấy có người đang thì thầm gọi, đôi tay vươn về phía hắn. “Cút!” Cuối cùng hắn cũng không thể chịu đựng nổi cặp mắt ấy cứ nhìn mình chằm chằm: “Ta không phải Minh Giới!” Mắt vừa mở ra, tất cả ảo ảnh đều biến mất.
“Đồng công tử,” bên ngoài có người thấp giọng bẩm cáo, là một thuộc hạ tâm phúc của hắn trong Tu La trường, “Bát Tuần đã hạ sơn.”
Bát Tuấn là tổ sát thủ tuyệt đỉnh gồm 8 người do đích thân hắn một tay huấn luyện, năng lực còn hơn cả Thập nhị Ngân Dực – lần này toàn bộ Bát Tuần đều xuất kích chỉ để chặn Diệu Phong từ Dược Sư cốc trở về, dù tên tiểu tử đó võ công có cao hơn đi nữa, trong mấy ngày cũng chẳng thể an nhiên mà phá được vòng vây. Huống hồ… bên cạnh y, quá nửa là còn dẫn theo nữ nhân không biết võ công trong Dược Sư cốc kia.
“Nếu không giết chết được Diệu Phong,” hắn nhắm mắt lại trong bóng tối, lạnh lùng dặn dò, “thì cũng phải lấy được thủ cấp của nữ đại phu kia.”
“Vâng!”
Tên thuộc hạ “dạ” một tiếng, rồi quỳ xuống cáo từ. Đồng ngồi ở nơi tối tăm nhất, nhắm mắt lại lần nữa, ngưng tụ tinh thần vào giữa hai mắt. Cây kim sau ót ngấm ngầm nhói đau. Cặp mắt kia lại thấp thoáng ẩn hiện, lặng lẽ nhìn hắn… Minh Giới. Minh Giới. Giọng nói đó lại cất lên, xa xa gần gần, cứ làm cháy bùng lên vô số ảo ảnh. Lửa. Máu. Trốn chạy. Bóng đêm chìm ngập… cuối cùng hắn không thể chịu đựng được nữa, đấm mạnh một quyền xuống nền đá lạnh lẽo bên cạnh, toàn thân run nhè nhẹ.
Hoắc Triển Bạch tỉnh lại thì mặt trời đã lên ba con sào.
Gã giật bắn mình, vội lật mình ngồi lên – không ngờ lại ngủ lâu như vậy! Bệnh của Mạt Nhi còn đang đợi thuốc về Lâm An trị bệnh, vậy mà ta còn nằm đây ngủ say như chết thế này!
Nha hoàn thân cận của Liễu Phi Phi, Yên Chi Nô bưng bữa sáng lên, đặt mạnh cái khay xuống bàn, dường như có vẻ rất tức tối: “Này, ăn xong rồi đi đi! Thật không biết tiểu thư thấy ngươi tốt ở điểm nào nữa? Nói đến là đến, nói đi là đi, không tiền không thế, vô tình vô nghĩa, vậy mà tiểu thư lại cứ nhớ mãi đến ngươi! Đúng là ma xui quỷ khiến mà!” Hoắc Triển Bạch bị tiểu nha hoàn nói cho sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, cảm thấy cháo hạt sen trong miệng chẳng còn mùi vị gì: “Ta xin lỗi!”
“Hứ… không cần xin lỗi ta làm gì,” Yên Chi Nô hừ nhẹ một tiếng. “Cũng may là lần trước, đám bằng hữu đó của ngươi đến đây uống say, nói với tiểu thư chuyện của ngươi trong tám năm qua, thật đúng là kinh thế hãi tục đấy nhé! Tiểu thư nghe xong, cuối cùng cũng lạnh lòng.”
“Hạ Tiên Vũ…” Hoắc Triển Bạch đương nhiên biết những kẻ ấy là ai, không khỏi nghiến răng kèn kẹt. Đã nói ba bốn lần rồi, không được nhắc lại chuyện năm đó, nhưng đám người lắm mồm lắm miệng ấy vẫn không biết tốt xấu mà toang toác đi kể với người khác.
“Vừa hay có một vị thương gia ở Tây Vực đến đây, tay Hồ thương đó đúng là tiền nhiều đè chết được người, vừa gặp đã say mê tiểu thư. Vợ y đã chết, nay muốn tục huyền… kể ra cũng tốt hơn là làm thiếp cho người ta, nên tiểu thư đồng ý rồi.”
Cằn nhằn xong, Yên Chi Nô liền bỏ gã lại đó: “Ngươi tự ăn đi, sáng nay tiểu thư phải xuất giá rồi!”
Một mình gã ngồi ngẩn ra trong phòng, hững hờ ăn lấy vài miếng. Bên ngoài bất ngờ vang lên tiếng sênh sáo trống kèn, vô cùng náo nhiệt. Hoắc Triển Bạch liền đi tới cửa sổ, mở ra nhìn xuống dưới, chỉ thấy một đội nhạc đang dừng lại trước cửa, rương hòm gấm vóc, thanh thế rất lớn. Một người Hồ tầm bốn mươi tuổi cưỡi ngựa hiên ngang dừng lại trước cửa Linh Lung hoa giới, tóc nâu mắt xanh, gương mặt râu ria rạng rỡ nét cười, sau lưng là một đội gia đồng và người hầu khiêng lễ vật, pháo nổ đinh tai nhức óc. Thiết tưởng đây chính là vị thương gia đến từ Tây Vực mà Yên Chi Nô đã nói tới.
Rước một nữ tử thanh lâu về làm vợ vốn chẳng phải chuyện vinh quang gì, vậy mà vị thương gia người Hồ này lại khoa trương không chút ngại ngần, chắc hẳn y phải rất sủng ái Liễu Phi Phi. Mụ tú bà không biết đã thu bao nhiêu ngân lượng mới chịu buông cái cây tiền này đi, vừa khóc ròng ròng vừa đỡ Liễu hoa khôi đầu che vải đỏ ra ngoài. Trước kia bước vào kiệu hoa, không biết vô tình hay cố ý, tân nương quay đầu lại liếc qua khe hở của khăn chùm nhìn về phía căn phòng cũ của mình. Nơi ấy, một nam nhân áo trắng đang đứng bên cửa sổ, trong như cây ngọc trước gió. Tạm biệt, Bạch!
“Sao thế? Thấy tình nhân cũ xuất giá, không nỡ hả?” Bên tai gã chợt vang lên tiếng bỡn cợt, một bàn tay đặt lên vai.
Ai vậy? Ai mà nhân lúc gã không chú ý đã lặng lẽ vào phòng? Hoắc Triển Bạch kinh hãi, lập tức bắt về bên phải, vươn người chộp lấy túi gấm đặt trên đầu giường, Mặc Hồn kiếm trong tay phải đã tuốt ra khỏi bao. “Dừng tay!” Đúng vào khoảng khắc xuất kiếm, gã chợt nghe thấy đối phương kêu lên: “Ta đây mà!”
“Tiên Vũ?” Gã ngẩn người, lưỡi kiếm dừng sững lại. Thanh niên áo gấm kia cũng giật thót mình, vội vàng vớ lấy chiếc giá nến bạc giơ lên trước mặt, thở hắt ra một tiếng nói: “Ta nghe Trùng nương nói tối qua ngươi về đến Dương Châu liền chui vào đây ngủ, sáng sớm nay đến xem thử… lão Thất, ngươi phát bệnh gì vậy?”
Khi Đỉnh Kiếm các mới thành lập, đã định ra Tứ Đại Danh Kiếm làm hộ pháp, về sau tăng lên thành tám người, đều là tinh anh trong các môn phái ở Trung Nguyên. Hạ Tiên Vũ này chính là độc tử của chưởng môn Kiếm tông Hoa Sơn phái, lớn hơn Hoắc Triển Bạch một tuổi, đứng hàng thứ tư trong Bát Kiếm. Tuy xuất thân danh môn nhưng tính tình y ngang ngạnh phóng túng, bình thường rất thích ở những nơi phong hoa tuyết nguyệt, đến giờ vẫn chưa lấy vợ. Lần đầu tiên gã tới nơi này cũng là do y kéo đến.
“Xin lỗi!” Hoắc Triển Bạch cười ngượng ngùng, thu kiếm về bao: “Ta căng thẳng quá!”
Hạ Tiên Vũ buông giá nến xuống, chau mày hỏi: “Thuốc đó năm nay xong rồi hả?”
“Xong rồi.” Hoắc Triển Bạch mỉm cười, thở hắt ra một hơi. Hạ Tiên Vũ cũng thở hắt ra theo: “Coi như xong rồi… nếu còn không xong, ta thấy ngươi sẽ điên mất!”
“Ta thấy nguoi sắp điên thì có,” Hoắc Triển Bạch không nhường gã bằng hữu rượu thịt này chút nào, châm chọc lại luôn: “Đã đến tuổi nhi lập rồi mà vẫn lông bông ở đây… nhìn lão ngũ người ta có con bế rồi kìa.”
“Đừng so ta với tên già Vệ Phong Hành ấy.” Hạ Tiên Vũ khịt khịt mũi: “Ta còn trẻ tuổi anh tuấn mà.”
Trong Bát Kiếm của Đỉnh Kiếm các, Ngọc Thụ Công Tử Vệ Phong Hành và Bạch Vũ Kiếm Hạ Tiên Vũ là phong lưu nhất. Hai người này từ thuở thiếu niên đã song hành phiêu lãng giang hồ, để lại không ít chuyện tình lãng mạn. Nhưng tám năm trước Vệ Phong Hành đột nhiên thay tâm đổi tính, tự nhiên biến mất trên giang hồ, tạ tuyệt đám bạn bè ăn chơi, nghe nói đã lấy vợ sinh con, làm một người chồng, người cha tốt. Hạ Tiên Vũ một mình lẻ bóng, không khỏi có cảm giác bực bội vì bị bỏ rơi, từ đó đến giờ vẫn luôn rất tức tối chuyện này.
“Hiếm có dịp ngươi lại sống trở về, tối nay tụ tập một bữa đi!” Y thúc Hoắc Triển Bạch một quyền: “Mấy người chúng ta cũng cả năm không gặp nhau rồi.”
Bát Kiếm đều là huynh đệ sống chết có nhau, sau khi được triệu tập tới Đỉnh Kiếm các đã liên thủ làm không ít đại sự, duy trì trật tự cho võ lâm Trung Nguyên, ngăn cản Ma giáo Tây Vực xâm nhập, lập nên công lao hãn mã. Nhưng từ khi Từ Trọng Hoa bị giết, Bát Đại Danh Kiếm chỉ còn lại bảy người, không khí từ đó cũng lạnh lẽo dần.
“Xin lỗi, ta còn có việc gấp.” Hoắc Triển Bạch đung đưa túi gấm trong tay. Đã đến Dương Châu, chắc mở ra được rồi đây? Gã nôn nóng cởi túi gấm ra, sau đó ánh mắt lập tức hiện lên vẻ kinh hãi – không có thuốc? Bên trong chỉ có một cây tram, một phong thư và một túi gấm nhỏ hơn.
Trâm được gài trên phong thư, gã nhận ra đây là chiếc trâm ngọc tím Tiết Tử Dạ vẫn thường cài trên tóc. Bên trên phong thư viết một hàng chữ: “Ân sư Liêu Thanh Nhiễm, Cổ Mộc Lan viện Dương Châu, Tây thành.” Lạc khoản đề: “Đệ tử Tử Dạ bái thượng.” Nhìn địa chỉ trên phong thử, Hoắc Triển Bạch khẽ chau mày. Nữ nhân chết dịch này dặn đi dặn lại gã đến Dương Châu mới mở túi gấm chính là để gã kịp thời đưa bức thư này cho sư phụ nàng ta? Thật là kỳ quái… chẳng lẽ bức thư này còn quan trọng hơn cả việc đưa thuốc cho Mạt Nhi? Do dự một lúc, cuối cùng gã cũng hạ quyết tâm: nữ nhân chết dịch đó đã cẩn thận dặn dò như vậy, nhất định là có nguyên nhân, nếu không đưa thư, nói không chừng lại có chuyện gì sai sót thì sao.
“Ta đi trước một bước,” gã bảo Hạ Tiên Vũ: “Đợi hoàn thành chuyện ở Lâm An, rồi đến kiếm các người uống rượu sau.”
Không đợi họ Hạ trả lời, gã đã hú dài một tiếng, dẫn theo Tuyết Diêu nhảy ra khỏi lầu.
Cổ Mộc Lan viện nằm ở ngoại ô phía Tây, được xây từ thời Đường để giữ xá lợi của cổ Phật, được đặt tên theo cây mộc lan hơn 500 tuổi trong viện. Sau chiến tranh loạn lạc triều trước, Cổ Mộc Lan viện và Phật tháp đều bị hủy mất, nơi này biến thành điêu tàn hoang vắng, không còn tăng lữ nào cư trú nữa.
Hoắc Triển Bạch đứng trong khu nhà rách nát, cỏ dại mọc đầy, trong lòng lấy làm ngạc nhiên. Chẳng lẽ sư phụ của Tiết Tử Dạ, Diệu Thủ Quan Âm Liêu Thanh Nhiễm đã tuyệt tích giang hồ nhiều năm nay lại ẩn cứ ở nơi này?
Sau tiết Lập xuân, gió vẫn còn hơi lạnh, gã đảo một vòng, không thấy bóng người trong tự viện, đang ngần ngừ thì chợt nghe Tuyết Diêu bay ra từ hậu viện, kêu lên một tiếng. Gã bèn nhìn theo tiếng kêu, lập tức giật mình chấn động – cây mộc lan cổ thụ đã cháy đen ló ra ngoài bờ tường kia, không ngờ đang mọc lên những mầm xanh mơn mởn!
Là ai, ai có thể khiến cây khô sống lại như thế?
Gã giật thót mình, ánh mắt vượt qua bức tường kia – cách cây cổ thụ kia không xa lắm, không ngờ lại có một căn tiểu lâu gọn gàng sạch sẽ, từ trong nhà khói cơm lững lờ bay lên.
Là ở đó? Gã không nén nổi cảm giác mừng rỡ, đi tới gõ cửa.
“Bảo chàng vào thành mua mấy bao tã lót cho A Bảo, sao mà đi lâu vậy?” Bên trong vang lên tiếng oán trách của phụ nữ, cánh cửa mở ra: “Có phải lại lén lút đến nơi ấy rồi không? Cái đồ chết toi nhà chàng xem ta…” Cửa vừa mở ra thì giọng nói lập tức tắt ngấm.
Nữ nhân ôm con thơ ngước mắt nhìn nam nhân áo trắng bên ngoài, trong mắt lộ vẻ ngạc nhiên: “Công tử tìm ai? Tướng công nhà ta ra ngoài rồi.”
“Tại hạ đến tìm Diệu Thủ Quan Âm.” Hoắc Triển Bạch hành lễ như đệ tử, cung kính trả lời… Tuy vị sư phụ này của Tiết Tử Dạ trông cùng lắm cũng chỉ ngoài 30, áo trắng trâm ngọc, thanh tú cao nhã, so với gã thì chỉ nhiều hơn bốn năm tuổi, nhưng bất luận thế nào gã cũng không dám nửa câu bất kính.
“Ở đây chẳng có Quan Âm gì cả.” Nữ tử sa sầm mặt xuống, lạnh lùng nói rồi đóng sập cửa lại: “Phật đường đã hủy, chư thần đều bị diệt, công tử tìm nhầm chỗ rồi.”
“Liêu tiền bối.” Hoắc Triển Bạch vội vàng đưa tay chặn cửa lại: “Là lệnh đồ nhờ tại hạ chuyển thư cho người.”
Nữ nhân áo trắng hơi ngẩn ra, một cây trâm ngọc tím và một phong thư đã đưa tới trước mặt. Nàng ngây ra trong giấy lát, cuối cùng cũng lỏng tay xuống, mở cửa ra, lẩm bẩm nói: “Ôi, tám năm rồi… cuối cùng cũng đến hả?”
Sau khi để Hoắc Triển Bạch vào nhà, nàng cầm cây trâm lên xem một chút, rồi khẽ gật đầu: “Không sai, ta đã để lại thứ này cho Tử Dạ lúc rời khỏi Dược Sư cốc. Đến giờ cuối cùng nó cũng chịu dùng đến tín vật này rồi à?” Nàng nghiên đầu nhìn Hoắc Triển Bạch hỏi tiếp: “Công tử từ Dược Sư cốc đến đây hả? Sức khỏe Tử Dạ có tốt không?”
Hoắc Triển Bạch ngần ngừ giây lát, cuối cùng quyết định nói thật: “Không ổn lắm, càng ngày càng sợ lạnh.”
“Ôi… là sự phụ này không tốt,” Liêu Thanh Nhiễm cúi đầu, nhẹ nhàng vỗ nhẹ đứa nhỏ đang nằm trong lòng: “Tử Dạ mới 18 tuổi, ta đã bỏ Dược Sư cốc lại cho nó… nhưng cũng đã nói với nó, nếu gặp phải chuyện khó không giải quyết được, nhất định sẽ dốc hết sức giúp nó một lần.”
“Một lần?” Hoắc Triển Bạch có chút ngạc nhiên.
Liêu Thanh Nhiễm nhoẻn miệng cười: “đương nhiên, chỉ một lần… ta không thể để nó mượn cớ ‘đằng nào chữa không xong thì cũng có sư phụ’ được.” Nàng cầm cây tram ngọc lên, cười khổ nói: “Có điều con nha đầu đó vừa thông minh lại vừa hiếu thắng, tám năm nay vẫn không động tới tín vật này, ta còn tưởng y thuật của nó đã đến mức tiên hạ vô song, không còn chuyện gì làm khó nó dược nữa rồi… không ngờ, vẫn phải dùng đến vật này hay sao?”
Hoắc Triển Bạch đứng cạnh lắng nghe, chỉ thấy giật thót mình một cái. Là ý gì vậy? Tiết Tử Dạ bảo gã cầm trâm ngọc đến Dương châu gặp Liêu Thanh Nhiễm, chẳng lẽ là vì…
Liêu Thanh Nhiễm giao đứa trẻ cho thị nữ trông coi, mở phong thư ra, lẩm bẩm nói: “Không phải nha đầu này tám năm nay vẫn không từ bỏ, quyết đòi ta hồi sinh cho người dưới băng kia đấy chứ? Từ đầu ta đã bảo là không thể rồi mà… a? Đây…”
Nàng vừa xem thư, đột nhiên sững lại, ngẩng đầu lên nhìn Hoắc Triển Bạch một cái thật nhanh.
“Tiền bối, sao vậy?” Hoắc Triển Bạch cũng thấp thỏm không yên. Liêu Thanh Nhiễm quay người đi vào trong: “Vào ngồi xuống rồi nói chuyện.”
Thất diệp minh chi dưới đáy Nguyệt Cung Thánh hồ, Thanh Loan hoa trong Bạch Vân cung trên Bích Thành sơn nơi Đông Hải, Long thiệt trên vách núi dựng đứng ở Động Đình Quân sơn, Tuyết anh tử ở Tây Côn Luân… những linh dược quý báu đó rơi từ trong túi gấm ra, mỗi một thứ, sắc mặt Hoắc Triển Bạch lại trắng nhợt đi một phần. “Đây, đây là chuyện gì vậy?” Cuối cùng gã cũng không nén được mà kêu lên kinh hãi, nhảy bật dậy. Đây chẳng phải những thứ Tiết Tử Dạ đã lấy đi luyện thuốc hay sao? Tạo sao tất cả vẫn còn nguyên đây?
“Tử Dạ không luyện được thuốc thật,” Liêu Thanh Nhiễm bình tĩnh đặt phong thư xuống bàn, nhìn gương mặt đang dần tái đi kia: “Hoắc thất công tử, đơn thuốc năm vị mà nó kê mới đầu thực ra là giả đó.”
“Hả… là giả?” Hoắc Triển Bạch nhất thời ngây người ra.
“Đúng vậy.” Liêu Thanh Nhiễm chỉ tay vào các thứ trên bàn: “Những vị thuốc này đều là kỳ trân tuyệt thế dược tính cực mạnh, lại không dung hợp lẫn nhau, căn bản không thể phối hợp trong một đơn thuốc. Tử Dạ năm đó không từ chối nổi lời cầu khẩn của công tử, sợ cậu nhất thời tuyệt vọng, mới cố ý kê đơn thuốc ‘không thể có’ này.”
Hoắc Triển Bạch thẫn thờ, bàn tay cầm kiếm từ từ run rẩy.
“Bệnh của Mạt Nhi, Tử Dạ có viết rất rõ trong thư rồi, đúng là rất hiếm gặp. Lần này nó tận hết tâm lực cũng chỉ luyện được một viên thuốc, có thể kéo dài sinh mạng cho đứa trẻ ấy thêm 3 tháng.” Liêu Thanh Nhiễm khẽ gật đầu, thở dài nói: “Hoắc thất công tử, xin cậu đừng trách tội đồ nhi của ta…”
“Không thể nào!” Hoắc Triển Bạch nhìn chằm chằm vào đống thuốc trên bàn, đột nhiên hét lớn: “Không thể nào! Ta, ta đã tốn mất tám năm ròng, mới…” Gã không nén nổi cơn cuồng nộ trào dâng trong lòng: “Tiền bối nói Tiết Tử Dã đã gạt ta? Cô… cô ta gạt ta?!”
Liêu Thanh Nhiễm thở dài: “Tử Dạ quá mềm lòng… đáng ra từ đầu nó nên nói cho cậu biết, bệnh của Mạt Nhi là tuyệt chứng.”
“Không thể nào! Nàng không thể gạt ta… ta lập tức trở về hỏi cho rõ.” Sắc mặt Hoắc Triển Bạch trắng bệch, vơ vội vơ vàng mấy thứ kỳ trân dị bảo trên bàn: “Tiền bối xem, Long huyết châu không có ở đây! Chắc là thuốc đã luyện xong rồi!”
“Hoắc công tử,” Liêu Thanh Nhiễm thở dài: “Cậu không cần trở lại tìm tiểu đồ nữa, bởi vì…”
Nàng quay người nhìn cây cổ mộc lan đã chết đi rồi lại hồi sinh kia, chậm rãi nói từng chữ một: “Kể từ hôm nay, bệnh của Từ Mạt sẽ do ta phụ trách.”
Hoắc Triển Bạch sững người lại, trong lòng vừa bi thương lại vừa mừng rỡ.
“Cậu đừng trách Tử Dạ, nó cũng đã cố hết sức rồi,” Liêu Thanh Nhiễm quay đầu lại nhìn gã, cầm cây trâm ngọc tím lên, thở ra nhè nhẹ: “Cậu có biết không? Đây vốn là tín vật duy nhất mà ta cho nó… ta vốn tưởng rằng nó sẽ lấy thứ này để nhờ ta phục sinh cho thi thể dưới băng kia… nó vẫn luôn cố chấp chuyện quá khứ như thế.”
Nàng nhìn bạch y kiếm khách trước mặt, chợt bật cười nói: “Nhưng, cuối cùng nó lại lấy ra để cứu một đứa trẻ không hề liên quan tới mình.”
Nghe những lời này, cơn giận và sự kinh hãi trong lòng Hoắc Triển Bạch cũng từ từ tan đi.
“Vậy… Liêu tiền bối có chắc chắn không?” Gã lung túng hỏi.
“Có năm phần.” Liêu Thanh Nhiễm gật đầu. Hoắc Triển Bạch thấy nhẹ cả người, tựa như tảng đá đè nặng trong tim vừa rớt xuống vậy.
“Bệnh của Mạt Nhi đã nguy cấp lắm rồi, giờ ta đi thu dọn hành trang ngay,” Liêu Thanh Nhiễm thu mấy thứ đồ trên bàn lại, dặn dò thị nữ vào trong sửa soạn túi thuốc đồ nghề: “Đợi tướng công về, ta báo với chàng một tiếng rồi lập tức cùng cậu đi thâu đêm tới Lâm An.”
“Vâng!” Hoắc Triển Bạch cung kính cúi đầu: “Làm phiền Liêu tiền bối rồi.”
Bên trong vừa bắt đầu chuẩn bị thì phía ngoài đã vang lên tiếng đẩy cửa, một người lao vù vào, giọng nói mang theo ba phần cảnh giác: “Tiểu Thanh, bên ngoài có dấu chân người lạ… có ai đến thế?”
“Không sao, Phong Hành,” Liêu Thanh Nhiễm thuận miệng trả lời: “Là bằng hữu của đồ đệ thiếp đến thăm.”
Giọng nói kia vừa lọt vào tai, Hoắc Triển Bạch đã cảm thấy thân thuộc đến kỳ quái, bất giác quay đầu lại đối diện với người kia, rồi đồng thanh thốt lên một tiếng kinh ngạc: “Lão ngũ?” “Lão thất!”
Hoắc Triển Bạch trợn mắt há miệng. Nam nhân cao lớn tuấn tú này tay trái xách một bao tã lót, tay phải cầm một chiếc trâm hoa mới tinh, eo lưng trống không, trường kiếm tùy thân giờ đã biến thành hầu bao đựng tiền – cho dù có sét đánh giữa đầu gã cũng không thể tưởng tượng ra Vệ ngũ công tử trong Bát Kiếm, Ngọc Thụ Công Tử Vệ Phong Hành năm xưa khuynh đảo giang hồ lại thành ra bộ dạng này! Đứa trẻ ở phòng trong bị tiếng kêu kinh hãi của hai người làm giật mình tỉnh giấc, khóc lên oe oe.
“Thì ra hai người quen nhau hả?” Liêu Thanh Nhiễm thấy hai người cứ tròn xoe mắt ra nhìn nhau, thì có chút ngạc nhiên, nhưng cũng không buồn nói nhiều, chỉ lườm Vệ Phong Hành một cái: “Còn ngây ra đó làm gì? Mau thay tã cho A bảo đi! Chàng định để con khóc đến chết đấy à?”
Vệ Phong Hành giật mình, lập tức lách người đi vào trong. Chỉ thoáng một cái, tiếng khóc đã im bặt.
Hoắc Triển Bạch mắt tròn mắt dẹt đứng ngẩn ra tại chỗ, nhìn vào bên trong. “Thủ pháp” thay tã cho trẻ sơ sinh của Vệ Phong Hành cực kỳ nhanh nhẹn nhịp nhàng, cơ hồ có thể so với Ngọc Thụ Kiếm Pháp khi xưa của y vậy.
“Thì ra…” Gã lúng túng quay đầu nhìn Liêu Thanh Nhiễm, lắp bắp nói: “Tiền bối… là ngũ tẩu của ta?”