Cách mạng Tân Hợi
Thời gian Nghĩa hòa đoàn làm loạn ở Bắc Kinh đã tạo nên một hiện tượng chính trị đáng chú ý là Thượng Hải thay thế Bắc Kinh làm trung tâm văn hóa. Trước đây Bắc Kinh từ đời nọ qua đời kia vẫn là nơi phát xuất và trung tâm văn hóa, nay văn hóa di chuyển xuống miền Nam. Lý do là phần tử trí thức tiến bộ tránh né tình trạng hỗn loạn khủng bố của Nghĩa hòa đoàn nên di tản xuống miền Nam. Trên mặt chính trị thủ đô bị tám nước hoành hành đem đến sỉ nhục cho T.Q. nhưng trên văn hóa thì lại là một hoàn cảnh có lợi. Phần tử trí thức tiến bộ rời bỏ Bắc Kinh ra đi với tâm lý càng quyết liệt hơn với cách mạng, với canh tân bởi vì họ thấy rõ ràng những hành động chính trị thần quyền cổ lỗ không còn hiệu lực gì nữa trước chiến hạm, đại bác.
Ở Bắc Kinh, sau khi bị tám nước Tây phương chiếm giữ, sinh hoạt và trật tự của nhân dân hoàn toàn bị phá hoại. Phần tử trí thức hủ lậu cay chua bi phẫn trở về với triết lý Lão Trang sống lối tuyệt thánh khí trí, phần tử trí thức quen lối giáo dục nô tài thì từ bỏ phụng sự Mãn Châu quay sang phụng sự Tây phương. Các sĩ đại phu đua nhau nịnh nọt Tây, họ đi mua thánh giá về đeo, kinh về đọc. Họ trước là nô lệ Mãn nay là nô lệ Tây. Trong khi Thượng Hải tư tưởng cầu tiến bộ hừng hực bốc lửa thì Bắc Kinh đi mua quần áo giày dép cũ của Tây phương về mặc. Trong khi thi ca Thượng Hải bồng bột với khí thế cách mạng thì ở Bắc Kinh thi nhân ca tụng tình yêu người đẹp của T.Q. với thống đốc Tây già (kịch thơ Trại Kim Hoa).
Uông Tinh Vệ hành thích Nhiếp Chính Vương không thành bị hạ ngục, Vệ làm bài thơ tứ tuyệt sau đây:
Khảng khái ca Yên thị
Thung dung tác sở tù
Dẫn đao thành nhất khoái
Bất phụ thiếu niên đầu
Thi ca cách mạng đã chuyển tới hành động cách mạng. Năm Tân Hợi cuộc khởi nghĩa ở Vũ Xương bùng nổ, chừng hai tháng sau cách mạng hoàn thành. Hai tháng! thật là một cuộc cách mạng chớp nhoáng, một kỳ tích của lịch sử. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sở dĩ nhanh chóng như vậy là vì Tân Hợi chẳng qua chỉ là cái quả chín, hoa nụ của nó đã có từ lâu rồi. Cũng như cuối đời Tần, khi Trần Thiệp-Ngô Quảng trương cờ khởi nghĩa, khắp nước ứng theo nên nhà Tần vong mệnh trong phút chốc. Khởi nghĩa Ngô Quảng-Trần Thiệp chỉ là trái chín, hoa nụ của nó là hoạt động cách mạng của các vong thần vong dân cứu nước cả mấy chục năm trước. Cách mạng Tân Hợi là sự gom góp vận động Mậu Tuất, vận động Nghĩa hòa đoàn do phần tử trí thức lãnh đạo, những bang hội giang hồ và nông dân làm thành.
Bang hội giang hồ là gì?
Trên tổ chức là những đảng hội bí mật Hồng Môn. Trên đơn vị cá nhân theo ý nghĩa “élite” của Paréto là những cao thủ của mọi tầng lớp sinh hoạt xã hội mà chúng ta thường đọc trong kiếm hiệp danh từ “cao thủ” võ lâm. Có lẽ chữ cao thủ để phiên dịch danh từ élite của Paréto sát nghĩa hơn hết.
Như đã nói ở trên bây giờ tìm hiểu thêm. Các đảng hội bí mật tức các tổ chức bang hội của T.Q. phát triển từ khi nhà Minh mất ngôi. Dưới thống trị Mãn Thanh, các tổ chức bang hội không ngừng đấu tranh phục quốc, tên tuổi nhất gồm có: Bạch Liên giáo, Thiên Địa hội, Tam hợp hội, Ca Lão hội. Các hội này lại phân chia ra làm nhiều chi phái nhỏ như Chủy Thủ hội, Song Đao hội, v.v…
Địa bàn của Bạch Liên giáo hoạt động là miền Nam Hoa Bắc.
Địa bàn của Tam hợp hội hoạt động là miền Hoa Nam. Đất khởi nghĩa của cách mạng Tân Hợi là miền Hoa Nam, khởi đầu do Hưng trung hội của Tôn Trung Sơn.
Tôn Trung Sơn là con của một gia đình trung nông. Sau khi họ Tôn ra đời thì gia đình ông bỏ ruộng nương ra tỉnh doanh thương, vì doanh thương mà liên hệ nhiều với ngoại quốc mà Tôn Trung Sơn xuất du Anh quốc theo học. Tốt nghiệp về nước, thấy sự thất bại của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu trong công cuộc vận động cải cách và biến pháp, ông liền tổ chức một đoàn thể cách mạng, lấy tên là Hưng trung hội với cương lĩnh chính trị: Đuổi giống Mãn khôi phục Trung Hoa, sáng lập hợp chủng chính phủ.
Trong Hưng trung hội có một người tên là Trịnh Sĩ Lương cấp bậc đàn anh của bang hội giang hồ Hồng Môn. Trịnh Sĩ Lương là bạn học với Tôn Trung Sơn. Nhờ giới thiệu của Lương, Tôn Trung Sơn thiết lập quan hệ với Hồng Môn và đảng hội với Hồng Môn về sau chính là chủ lực vũ trang của cách mạng Tân Hợi vậy, bởi lẽ Hồng Môn là chủ tể hầu hết các tổ chức lục lâm ở miền Nam. Tôn Trung Sơn theo học Tây phương từ tấm bé cho nên ông phản đối lề lối cách mạng của Nghĩa hòa đoàn. Nhưng Hưng trung hội của họ Tôn trên tính chất chẳng khác Nghĩa hòa đoàn bao nhiêu, cả hai đều lấy bang hội giang hồ làm cơ sở.
Tổ chức bang hội giang hồ nặng mùi mê tín và lạc hậu xa cách hẳn tư tưởng tiến bộ của Tôn Trung Sơn thế mà hai bên kết hợp được với nhau. Tại sao? Dưới một tình thế cần thiết nào đó, chính trị có thể thiết lập hai khuynh hướng trái ngược, vả lại bấy giờ chỉ quảng đại quần chúng lạc hậu mới có dũng khí hoạt động thôi, còn phần tử trí thức vì hay suy nghĩ nên thường gia nhập phong trào chậm trễ.
Giữa Nghĩa hòa đoàn và Tam hợp hội có một điểm khác nhau là Tam hợp hội nhờ phần tử trí thức tiến bộ nên đã tiến bộ hơn.
Từ Hưng Trung Hội đến Đồng Minh Hội
Đầu thế kỷ thứ 20, người đi du học mỗi lúc mỗi đông. Nhật Bản là điểm chuyển vận để người T.Q. tiếp thụ văn minh Tây phương. Đồng thời ở trong nước các trường mới mở ra cũng nhiều, xã hội T.Q. đang dâng lên phong khí mới.
Lưu học sinh ở Nhật tổ chức Thanh niên hội để làm cách mạng, rồi đến Ái quốc học xã do Sái Nguyên Bồi lãnh đạo, Hoàng Hưng ở Nhật về nước thành lập Hoa hưng hội. Ở Hồ Bắc thanh niên học sinh tổ chức Khoa học bổ tập sở. Ở Thượng Hải có Quang phục hội.
Thanh niên trí thức ồ ạt hoạt động cách mạng dưới nhiều hình thức: bí mật, công khai, hợp pháp, bất hợp pháp. Họ tuyên truyền dân chủ, sách vở chính trị được in ra rất nhiều khiến cho ngòi bút Lương Khải Siêu vốn tung hoành lâu nay bị lu mờ.
Cách mạng từng đấu tranh tư tưởng ra không chỉ nhằm thống trị Mãn Thanh, còn kịch liệt bài bác chủ trương của phái cải tạo. Phần tử trí thức cách mạng nhận rằng ngoài việc suy đảo đế chế không còn con đường cứu nước nào khác nữa. Phải cải lương biến pháp mấy năm trước đây là tiến bộ, dẫn đạo cách mạng, bây giờ trở thành lạc hậu làm vướng chân cách mạng.
Hưng trung hội nhập với Tam hợp hội để mong vận dụng các cao thủ giang hồ, trước phong trào cách mạng của thanh niên trí thức không thể không sửa đổi, do đó Tôn Trung Sơn liền đem Hưng trung hội liên kết với Quang phục hội và Hoa hưng hội để thành lập Đồng minh hội. Hưng trung hội nay chỉ còn là bộ phận để giữ mối quan hệ với đám giang hồ cao thủ mà thôi.
Thanh niên trí thức rất hoan nghênh việc làm của họ Tôn, họ đồng lòng bầu họ Tôn làm lãnh tụ Đồng minh hội. Đặc chất của Đồng minh hội là trung tâm lãnh đạo cách mạng đã về tay phần tử trí thức.
Hội viên Đồng minh hội tăng gia cực mau, chỉ non năm năm trời con số ba trăm lên tới vài vạn. Hoạt động ít lâu Đồng minh hội đã chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, tuyên ngôn xác định cương lĩnh chính trị đuổi Mãn, khôi phục Trung Hoa xây dựng Dân quốc, chia lại ruộng đất. Cơ quan ngôn luận của Đồng minh hội là tờ Dân báo. Trên Dân báo Tôn Trung Sơn trình bày chủ nghĩa tam dân của ông. Sau khi Đồng minh hội đưa ra chủ nghĩa tam dân để tiến hành cách mạng dân chủ thì bắt đầu một cuộc tử chiến với phái cải lương biến pháp.
Chính biến Mậu Tuất, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu là thần tượng được phần tử trí thức sùng kính. Khi Đồng minh hội thành lập, Khang Lương vẫn giữ mãi điệu kèn cũ nên bị đả kích thậm tệ.
Ở thời kỳ Hưng trung hội, Tôn Trung Sơn còn đau lòng vì toàn thể học sinh đồng tình với Khang Lương. Sang thời kỳ Đồng minh hội sinh viên học sinh bỏ dần Khang Lương.
Thanh niên trí thức hăng hái can đảm không kém bang hội giang hồ nhất tề tham gia lưu huyết đấu tranh.
Uông Tinh Vệ mưu sát Nhiếp Chính Vương.
Từ Tích Lân đâm tuần phủ An Huy. Lân bị bắt và bị đánh đập đến chết.
Nữ sĩ Thu Cẩn cùng Từ Tích Lân mưu đồ khởi nghĩa bị xử tử. Tô Mạn Thù thi sĩ, đòi giết Khang Hữu Vi để tiêu diệt bọn bảo hoàng.
Những tháng trước cách mạng Tân Hợi, hầu như hết thấy phần tử đoàn kết dưới lá cờ cách mạng. Về phía thống trị, bấy giờ mới đi thu nhặt lý luận, phương pháp biến pháp, cải lương để đối kháng với cách mạng.
Một cuộc cách mạng ôn hòa?
Ngày 10-10-1911 là ngày cách mạng Tân Hợi khai hỏa khởi nghĩa ở Vũ Xương. Tháng 12 chiếm Nam Kinh. Tôn Trung Sơn được bầu làm Tổng Thống lâm thời. Nguyên nhân của cuộc khởi nghĩa Vũ Xương là “phong trào đường sắt”. Chính phủ Mãn Thanh cấu kết với tư bản ngoại quốc để cướp bóc của thương gia, dẫn đến vận động thỉnh nguyện của thương giới rồi vận động phản kháng của học sinh.
Việc đường sắt là việc tranh lợi giữa quan lại và thương gia. Trên ý thức chính trị là sự phản đối chính phủ cướp bóc và là cuộc đấu tranh giai cấp giữa nhà buôn với quan lại.
Chính phủ Mãn Thanh sợ xung đột lan rộng mới sai Đoan Phương đem quân lên trấn áp. Đoan Phương chết trong hỗn loạn, mặc dầu vụ đường sắt im hơi nhưng nó đã rải ra một lớp chất dẫn hỏa để đợi cách mạng châm lửa. Ngọn lửa ấy từ Vũ Xương mang đến. Quân cách mạng chiếm toàn thành Vũ Xương rồi liền triệu tập hội nghị quyết định:
a) Tuyên bố Trung Quốc là Trung Hoa dân quốc gồm các giống Mãn, Mông, Hồi, Hán, Tạng.
b) Phế trừ niên hiệu hoàng triều Mãn Thanh.
c) Hiệu triệu các tỉnh khởi nghĩa lật đổ chính phủ Mãn.
d) Tôn trọng lợi ích của các nước trên lãnh thổ Trung Hoa.
e) Quốc kỳ gồm năm màu đỏ, vàng, lam, trắng, đen.
Năm điều trên chứng tỏ nhận thức của cách mạng Vũ Xương tương đối cao.
Chỉ có một điểm lầm lẫn là cử Lê Nguyên Hồng làm đô đốc. Lê Nguyên Hồng là tư lệnh tân quân của chính phủ Mãn Thanh. Lê Nguyên Hồng không phải là người cách mạng nên khi được cách mạng đưa lên chức đô đốc để bổ cáo an dân, Hồng không ký tên, cách mạng phải bắt Hồng ký bằng súng. Đành rằng cách mạng cần dùng đám tân quân của Hồng nhưng đưa Hồng vào hàng lãnh tụ cách mạng là một việc kém tính toán, lưu hại về sau. Phần tử trí thức cách mạng hãy còn thiếu tự tin.
Lần lượt trong khoảng thời gian năm mươi ngày, các tỉnh khác cũng theo Vũ Xương khởi nghĩa.
Cách mạng Tân Hợi thành tựu nhanh chóng.
Cách mạng Tân Hợi đồng thời cũng là cách mạng ôn hòa.
Vì quá nhanh chóng và ôn hòa nên mới dẫn tới bao năm không ngừng hỗn chiến. Nó cũng nói lên khí chất của phần tử trí thức đương thời. Phần tử trí thức lãnh đạo cách mạng Tân Hợi dùng tư tưởng triết học Nho gia vào cách mạng. Không giết người và triệt để áp dụng điều hòa chủ nghĩa. Chỉ cần đổi cờ, cắt đuôi sam, không nhận hoàng đế Mãn Châu là cách mạng rồi. Vì thế các quan chức Mãn Thanh bị giết rất ít, dân gian cũng tránh được khổ ải hãi hùng. Lắm nơi mọi người vẫn ngủ an giấc, sáng dậy để nghe tin hoàng đế bị truất phế. Đỡ được cho dân điều đại bất hạnh. Tuy nhiên nếu luận về bản thân cách mạng thì thật không triệt để chút nào. Không triệt để nên sau này vấn đề lãnh đạo gặp nhiều trở ngại khó khăn phức tạp, làm cho nội bộ chia rẽ, cựu thế lực trỗi dậy, gây thành một thời kỳ ảm đạm.
Hướng về Trung Hoa
Nhật bắt tay Pháp đuổi học sinh đông du và các lãnh tụ cầm đầu phong trào đông du.
Đông kinh nghĩa thục bị giải tán.
Phần tử trí thức âm thầm đau xót.
Một buổi tối mùa đông năm Tân Hợi, ông Phương Sơn đang nằm đọc sách thì ông Chân Thiết xồng xộc vào hỏi: Nằm làm gì đó? Người ta thành công rồi đó có biết không. Người ta thành công rồi mà mình vẫn nằm chờ chết ở đây ư?
Nói xong ông ôm mặt khóc hu hu.
Ông Phương Sơn ngạc nhiên hỏi:
- Chuyện gì thế? Ai thành công?
- Tôn Văn chứ còn ai nữa. Họ thành công trước mình rồi.
Ông Phương Sơn vẫn bình tĩnh:
- Tin tức ở đâu thế? Sao báo Tàu không thấy nói.
- Đi với tôi thì biết. Bọn Hoa kiều đang mở hội ở hàng Buồm để kỷ niệm ngày mồng mười tháng mười dân quân thắng ở Vũ Xương. Lại mà xem.
- Thế thì đi.
Lát sau, hai ông rẽ khỏi phố Mã Mây một chút đã thấy người ta nô nức tiến về phía hội quán Quảng Đông. Không nhìn cảnh chưng đèn rực rỡ ở cửa, cũng không nhận nét mặt hân hoan của Hoa kiều, hai ông len lỏi tới một chỗ dán những tờ báo cáo, đọc những tin cuối cùng về trận Vũ Xương rồi trở ra, xuôi về phía hàng Ngang.
Ông Chân Thiết nói trước:
- Ngẫm người mà thẹn cho mình.
Ông Phương Sơn cười:
- Việc gì mà thẹn. Người ta làm trước thì thành công trước, mình làm sau thì thành công sau chứ gì?
- Thành công cách nào? Cứ nằm chết dí ở đó mà đòi thành công?
- Thế chú có chương trình gì không?
- Tôi sẽ qua bên đó. Chắc Tôn Văn và bọn Vân Nam du học sinh còn nhớ tôi. Thế nào họ chẳng giúp mình.
Tối đó hai ông đi lang thang hết những phố có Hoa kiều như hàng Ngang, hàng Bồ, rồi trở về hàng Gai, hàng Đào mà bùi ngùi nhớ lại thời hoạt động của Nghĩa Thục. Đồng chí nay đã mỗi người mỗi nơi mà nước nhà thì biết bao giờ mới đổi thay. Khi chia tay ông Chân Thiết nói:
- Thế nào tôi cũng qua Trung Quốc càng sớm càng hay (trích Đông Kinh Nghĩa Thục của Nguyễn Hiến Lê).
Phần tử trí thức thuộc phái Nho gia của chúng ta sau khi đã thất vọng với người Nhật nay thấy cách mạng Tân Hợi thành công hết thảy đều hướng vọng về phía Trung Hoa. Hoạt động cách mạng Việt chuyển qua thời kỳ mới. Chiến sĩ cách mạng lấy Trung Hoa làm trung tâm hoạt động cách mạng. Họ hy vọng ở cách mạng Tân Hợi sẽ là người đồng chí, họ muốn học hỏi ở cách mạng Tân Hợi những kinh nghiệm cần thiết.
Diễn tiến của cách mạng Tân Hợi
Cơn sóng dữ cách mạng nhấn chìm một khu vực rộng lớn ở Trung Hoa. Chính phủ Mãn Thanh liền đưa Viên Thế Khải lên hàng lãnh đạo tối cao. Viên Thế Khải lợi dụng phe cách mạng thiếu tổ chức và lãnh đạo thống nhất đưa ra đề nghị giảng hòa. Khải yêu cầu nói chuyện với Lê Nguyên Hồng. Đa số đảng viên cách mạng từ lâu vẫn có mặc cảm với thanh uy của Viên Thế Khải nên trong lúc hoang mang đã mắc mưu họ Viên.
Tôn Trung Sơn ở nước ngoài về nhận chức Tổng Thống, ông thấy phái hệ trong hàng ngũ cách mạng hết sức phức tạp. Không thể nắm được nếu thiếu thời giờ. Ông tuy được dân chúng ngưỡng mộ nhưng thanh vọng của Viên Thế Khải đối với ông lại cao hơn.
Mặc khác, các phe phái ủng hộ cách mạng có thực quyền bắt đầu lủng củng. Lê Nguyên Hồng và Hoàng Hưng tranh giành nhau quyền lãnh đạo, khiến cho các phần tử tiến bộ bất mãn. Lê Nguyên Hồng thấy mình khó có thể đứng lâu dài với cách mạng liền bí mật cấu kết giảng hòa với Viên Thế Khải.
Quân lực của Khải cố nhiên không thể đánh bại lực lượng võ trang của cách mạng, nhưng nếu cứ tiếp tục vừa dùng áp lực vừa lợi dụng chia rẽ nội bộ của phe cách mạng thì Viên Thế Khải cũng là một mối nguy hại lớn cho cách mạng. Phần tử trí thức T.Q. vốn sẵn quan niệm “tòng long” đối với cách mạng. Tòng long nghĩa là theo rồng như kiểu đi theo Tấn Trùng Nhĩ bôn ba để khi về cùng hưởng phú quý với Tấn Trùng Nhĩ hoặc đi theo Lưu Bang là vận hên theo Hạng Vũ là vận xui. Bởi thế trong hàng ngũ cách mạng, đại đa số nhìn cách mạng bằng con mắt lợi ích cá nhân, cho nên khi Viên Thế Khải mới thắng vài trận nhỏ, phe cách mạng đã có nhiều người lo ngại cho sự nghiệp mình mới khởi vận mà đã sớm bị phá hủy. Sự lo ngại ấy làm thành chủ trương tranh thủ Viên Thế Khải gia nhập hàng ngũ cách mạng, lấy mồi lãnh tụ để câu nhử.
Về việc này một nhà văn Cộng sản viết như sau:
“Tên quỷ quyệt Viên Thế Khải đã dựa vào sự ủng hộ của chủ nghĩa đế quốc, lấy giai cấp mãi biện, giai cấp địa chủ làm cơ sở lợi dụng nhược điểm của cách mạng. Khải tấn công cách mạng bằng lối vừa đánh vừa lay. Đánh để cho cách mạng nhượng bộ, lay để cho cách mạng lơi lỏng đấu chí cách mạng".
Nói thế vẫn là lối quy loại máy móc mà cộng sản thường nói. Sự thật là các cựu quan liêu Trung Quốc lúc ấy không hề có quan niệm về giai cấp một cách rõ rệt. Còn giai cấp mãi biện và địa chủ thì kịch liệt chống đối nhau, làm sao Viên Thế Khải có thể hợp hai giai cấp này thành một chiến tuyến. Những hành động của Viên Thế Khải thuần là lợi ích cá nhân, chẳng có mảy may ý niệm giai cấp nào. Tập đoàn của Viên như Phùng Ngọc Chương, Đoàn Kỳ Thụy v.v… cũng vậy, họ chỉ biết nhìn quyền lợi cá nhân, họ vâng lệnh chủ soái và bất biết giai cấp mãi biện, giai cấp địa chủ là gì. Tóm lại nếu lấy lý luận giai cấp để phê phán Viên Thế Khải sợ đi quá sự thật.
Phần Tôn Trung Sơn, ông phản đối giảng hòa, ông nói: nếu mục đích cách mạng không đạt thì không có gì để nghị hòa. Nhưng trận doanh cách mạng quá phức tạp, đa số cấp công cận lợi, mỗi phe nhóm làm việc theo ý riêng khiến cho Đồng minh hội tan rã.
Với nội bộ lủng củng như thế mà tiếp tục chính sách quân sự thì không thể được. Nghị hòa là con đường duy nhất.
Phần hoàng triều Mãn Thanh nay đã hoàn toàn bị cô lập. Các người hữu dụng tập trung dưới lá cờ Viên Thế Khải vì Viên Thế Khải nắm trọn vẹn binh quyền. Biết không còn cựa quậy gì được nữa nên hoàng triều tuyên cáo thoái vị.
Cách mạng đảng đành chịu nhận một thắng lợi rẻ tiền để mất ngôi vị Tổng Thống vào tay Viên Thế Khải. Thấy làm tới được Viên Thế Khải liền thu xếp lên ngôi vua. Cách mạng Dân quốc bị áo long bào của Viên Thế Khải phủ lên trên. Phần tử trí thức do tâm chất “tòng long” nên đa số bằng lòng làm quan của dân quốc. Số khác quy tụ về phía Nam tiếp tục chủ trương của Tôn Văn, cách mạng chưa thành công, các đồng chí phải nỗ lực, hình thành cuộc đấu tranh vũ trang Nam Bắc.
Cách mạng chưa thành công là bởi tại phần tử trí thức kém tu dưỡng, kém đào luyện chính trị.
Sự phân loạn trên chính trị cũng là sự phân loạn của phần tử trí thức. Phần tử trí thức sau khi dân quốc thành lập họ thích làm quan dân quốc, quên mất lý tưởng cách mạng cho nên cách mạng Tân Hợi rất mau chóng thoát ly nhân dân. Lúc cách mạng bùng nổ, nhân dân hạ tầng tại các thành thị vui mừng, nông dân hoan hô. Đến khi chính phủ dân quốc rơi vào tay Viên Thế Khải, đại chúng bàng hoàng như bị dội gáo nước lạnh. Thấy Viên Thế Khải còn lên đế vị nữa, nhiệt tình đại chúng nguội hẳn.
Viên Thế Khải bội phản cách mạng nói cho đúng ra là phản kháng tối hậu của hoàng triều Mãn Thanh mượn Khải làm đại biểu. Quan liêu cựu trào tiếc nuối chế độ điển chương tiền triều, sĩ đại phu hãi sợ sự đổi mới quá mau nên xúm lại biến Viên Thế Khải thành tên nô lệ hoàn cảnh.
Cái tài của Khải bất quá chỉ là “trung nhân chi tài” ở mức trung bình, trí thức hẹp hòi hạn chế mà lại vọt lên ngôi vị quá cao. Đó là bi kịch cho đời Viên Thế Khải, cũng là bi kịch cho quốc gia.
Năm 1914 đại chiến bùng nổ ở Âu Châu. Nhật Bản thừa cơ hội các nước Anh, Pháp, Đức, Nga mãi xâu xé nhau, thừa cơ hội Viên Thế Khải tứ diện thù địch, muốn bành trướng thế lực ở Trung Hoa. Nhật ép buộc Viên Thế Khải chịu ký hiệp ước 21 điều. Hiệp ước này làm cho dân chúng phẫn nộ, phong trào chống Nhật nổi lên khắp nơi trong toàn quốc, đâu đâu cũng chửi rủa Viên Thế Khải. Viên Thế Khải lo buồn, sức già khó chịu đựng thành bệnh nặng mà chết.
o0o
Khai trí tiến đức - tây hóa
Đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp phát triển chương trình khai thác Đông dương sau khi đã tạm thời dập tắt được các cuộc kháng cự của nhân dân ta và chiếm đóng được hầu hết lãnh thổ Việt Nam. Ngoài sự thiết lập một bộ máy làm việc cho chúng, tạo ra một tầng lớp viên chức và một tầng lớp những người buôn bán hàng hóa của chúng hay thành phần mãi biện, Pháp liền nghĩ cách đặt bên cạnh biện pháp bạo lực một bộ máy thống trị văn hóa giáo dục. Chúng tung ra tay sai để tuyên truyền ca tụng nền văn minh nô dịch. Phần khác cũng là để ngăn chặn tư tưởng Tân Hợi tràn xuống. Do sáng kiến của toàn quyền Sarraut và chánh sở mật thám, hội Khai trí tiến đức ra đời. Mục đích của hội này là thừa cái chủ nghĩa khai hóa của nhà nước mà dùng cái cách chính đáng để giúp cho sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An nam, truyền bá khoa học của Thái Tây, nhất là học thuyết tư tưởng nước đại Pháp.
Cơ quan ngôn luận của hội Khai trí Tiến Đức là tờ Nam Phong do Phạm Quỳnh điều khiển. Tờ Nam Phong số 20 có đăng tải thêm để bổ túc cho chủ trương của hội là: Gây mối liên lạc giữa các bậc thượng lưu Tây Nam, dung hòa hai cái văn hóa Đông Tây và cổ động cho chủ nghĩa Pháp Việt đề huề.
Phạm Quỳnh viết để chống lại những ai còn nghĩ tới những lộn xộn đánh Pháp, hãy quên đi thù cũ, dĩ vãng là dĩ vãng không nên mở lại vết thương trong lòng người đã phải bao nhiêu thời gian mới hàn gắn được.
Theo Quỳnh thì nhiệm vụ của người bản xứ bây giờ là làm sao tự học canh tân để theo kịp người.
Nam Phong ví nước Pháp như vị thiên sứ đi rắc hoa thơm cho nhân loại, người An Nam hãy lấy những bông hoa thơm đó mà gột rửa mọi nếp cũ thối tha của mình. Hãy đồng đẳng đã rồi hãy đòi bình đẳng với người Tây và mệnh danh những cuộc bạo động ái quốc là cổ hủ đáng bỏ rọ trôi sông, Phạm Quỳnh viết:
Một đàng chủ nghĩa quốc gia An Nam, vì không chủ trương độc lập, không che dấu ý tưởng ly khai nào, chẳng những chấp nhận một cách thẳng thắn nền thống trị Pháp mà còn công nhận nó là cần thiết như một áo giáp chống lại những nguy hiểm từ bên ngoài, đàng khác sự bảo hộ kia được thực hiện theo một tinh thần rộng rãi và lý tưởng là truyền thống của nước Pháp sẽ phải giải thoát dần dần dân tộc mình bảo vệ chứ không phải sát nhập tiêu diệt nó… Ngày nay không có phân biệt người nào là vị nước Pháp, người nào là phản đối nước Pháp, chỉ nên phân biệt người nào là ái quốc, tức vị nước Pháp, ai phản đối nước Pháp tức là người không ái quốc vì làm ngăn trở cái công nước Pháp kinh doanh cho giống nòi An Nam được cường thịnh.
Mặc dầu bọn Tây lại cố gắng hoạt động mang lợi khí văn hóa để hòng đánh lạc hướng phản tỉnh của dân tộc, nhưng bọn trí thức thư lại chim mồi chỉ dụ dỗ được một số ít người có quan hệ quyền lợi với thực dân mà thôi.
Bởi thế trong thời gian chiến tranh bên “mẫu quốc” trên giải đất Việt vẫn không ngớt những cuộc bạo động xảy ra do ảnh hưởng Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông du Tân Hợi âm vang lại. Các cuộc bạo động lớn nhất là trận cướp phá đồn bốt do Việt Nam Quang Phục hội cầm đầu, vụ phá khám lớn Saigon, âm mưu khởi nghĩa của Vua Duy Tân, binh lính Thái Nguyên nổi dậy đánh phá.
Nhưng rồi mọi cuộc hoạt động đều thất bại vì lẽ thiếu lãnh đạo, cho nên bạo động khởi nghĩa chỉ rộp lên rồi bước ngay vào cái thế phiêu lưu cho đến lúc không đủ chống với sức đàn áp của địch thì quỵ xuống mà tiêu đi không còn tiếp nối nữa.
Nói phiêu lưu vì bạo động thường làm đơn độc thiếu kế hoạch có quy mô lớn, thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu phối hợp những điều kiện chủ quan với khách quan. Tuy mục đích đề ra là giành độc lập nhưng khởi nghĩa lại không đề ra được sự giải quyết những thắc mắc chính thiết thân với sinh hoạt chung cho cả dân tộc, cho từng tầng lớp người trong xã hội, vấn đề ruộng đất, vấn đề kiến thiết sẽ được giải quyết ra sao, không được ai đặt ra. Thất bại là bởi tại phần tử trí thức lãnh đạo khởi nghĩa bạo động kém tu dưỡng, kém đào luyện chính trị.
o0o
Tình cảnh xã hội trong thời kỳ vận động ngũ-tứ
Ngày 4 tháng 5 năm 1919, từ hừng đông tại Bắc Kinh học sinh sinh viên tụ tập diễn hành qua Thiên An Môn phản kháng hiệp ước Versailles, đòi xé bỏ hiệp ước bất bình đẳng Trung-Nhật. Quân đội giải tán, súng nổ máu chảy, nộ trào dâng lên. Ngày đó mở đầu một cuộc vận động tư tưởng chính trị, vận động văn học. Ngũ Tứ nghĩa là mồng 4 tháng 5.
Viên Thế Khải đang mải mê với giấc mộng đế vương thì bên Âu châu xảy ra đại chiến, sinh hoạt kinh tế nhân dân T.Q. do cuộc đại chiến đó chuyển hướng.
Trước kia kinh tế quốc dân thật là cùng khốn, tài quyền ở cả trong tay người ngoại quốc và dương vụ phái (như kiểu comptoir de l’Inde một tổ chức mãi biện). Nay vì chiến tranh Âu châu nên công nghiệp dân tộc hưng thịnh. Công xưởng dệt khoảng chừng ba năm tăng lên gấp bảy lần. Kỹ nghệ sợi gấp sáu lần. Kỹ nghệ bột mì tăng gấp 15 lần, v.v… Kỹ nghệ nhẹ phát triển, thợ thuyền có công ăn việc làm, mậu dịch hồng phát, nghiệp vụ ngân hàng bành trướng. Sinh hoạt thoải mái. Nhờ sinh hoạt dễ chịu con em các nhà nghèo được ăn học mỗi ngày đông đảo. Chương trình giáo dục tam tự kinh, ấu học quỳnh lâm, thiên gia thi mất dần rồi được thay thế bằng những môn học: quốc tế tri thức khoa học, toán học, thương phẩm, v.v… Tin tức Âu chiến làm cho người Trung Quốc sáng mắt, cùng một lúc tạo ra sự thoái trào của kinh tế xâm lược Anh, Pháp, Đức. Nhưng tránh được Tây phương thì lại rơi vào tay Nhật Bản. Trong việc làm ăn cạnh tranh, Nhật Bản lúc nào cũng thắng người T.Q. cả trên thương mại lẫn kỹ nghệ. Thái độ nhù nhờ yếu kém của tập đoàn Viên Thế Khải tạo ra cho Nhật Bản nhiều cơ hội chiếm ưu thế tuyệt đối. Kinh tế T.Q. bị Nhật Bản chèn ép còi cọp dần. Bởi vậy phong trào phản kháng xâm lược chuyển hướng tập trung cả vào Nhật Bản.
Nhật Bản đồng minh với Anh tuyên chiến với Đức nên Anh để cho Nhật xơi hết những quyền lợi ở Sơn Đông thay thế Đức. Nhật mang quân chiếm Sơn Đông, Viên Thế Khải nhượng bộ. Chiếm Sơn Đông rồi Nhật đưa ra 21 điều buộc Viên Thế Khải chấp nhận.
Âu chiến đem lại cho T.Q. một thời cơ hồi phục, nhưng thời cơ đó lóe lên chưa được bao lâu đã bị Nhật bản dập tắt.
Phần tử trí thức phát khởi đấu tranh. Cuộc đấu tranh không phải chỉ chống Nhật, còn nhằm vào đánh bật gốc chính quyền Viên Thế Khải. Họ nhận thấy cách mạng triều đại chẳng đi đến đâu, dân chủ hay quân chủ chẳng khác gì nhau nếu chỉ làm cái công việc thay đổi quan danh.
Phe cách mạng trong tân chánh bây giờ hoàn toàn biến ra những tượng gỗ, dân chúng hết tin tưởng. Tôn Trung Sơn gắng sức hoạt động và gây được rất ít kết quả, các chi phái cách mạng khác rơi vào tình trạng cô độc đấu tranh. Nhìn các đảng phái khuynh loát nhau, tranh giành nhau, phần tử trí thức chán ghét và thờ ơ.
Ai ai cũng cùng chung một ý nghĩ: Trung Quốc đang cần cuộc cách mạng mới.
Ngũ tứ vận động thành hình.
Người giác ngộ trước nhất là Tôn Trung Sơn, ông biết rằng hành động cách mạng múa may thôi không đủ phải có lý luận cách mạng mới xong. Tôn Trung Sơn rút về tô giới viết cuốn “Tôn Văn học thuyết”.
Khởi sự bằng cách mạng tư tưởng
cách mạng văn học
Dân chủ giả sau Tân Hợi không thể cứu nước. Chỉ biết cải cách chính trị mà không có phương pháp kiến thiết khoa học cũng không thể cứu nước.
Do nhận định trên mà vận động Ngũ Tứ trương ra hai tiêu đề: Dân chủ và Khoa học.
Phần tử trí thức gây dựng vận động Ngũ Tứ đa số không dính dấp đến trí thức Tân Hợi, cũng không quan hệ chi với các phe phái “du dân chính trị”. Họ là những con người mới.
Vận động được khai mở bằng tờ Tân thanh niên. Tờ báo này ra đời giữa lúc Viên Thế Khải tiếp thụ 21 điều của Nhật Bản, giữa lúc việc xưng đế nhộn nhịp ở Bắc Kinh, giữa lúc đảng viên cách mạng Tân Hợi quốc dân đảng thất vọng buồn thảm.
Số 1 đăng bài kính cáo thanh niên của Trần Độc Tú, còn toàn bộ tờ báo đi vào chủ trương phản kháng quân chủ và đặc quyền hô hào chính trị dân chủ. Trong số 1 còn có bài “Thanh niên tự giác và quốc gia cộng hòa” do Trần Độc Tú viết, là hai bài gây sóng gió. Chủ đích của Tân thanh niên là vận động đề cao nhân quyền, phủ nhận truyền thống T.Q. Những lời văn quá khích đẩy lý luận của Mậu Tuất và Tân Hợi xuống lạc hậu. Đối với Tân thanh niên, tư tưởng Mậu Tuất chỉ là chuyển biến cục bộ, mặc Tây đi giày Tàu. Bây giờ cần phải đổi cả xương cốt nghĩa là toàn bộ Tây hóa. Tân thanh niên xuất hiện chia hẳn hàng ngũ trí thức ra làm hai trận doanh: thủ cựu phái và cách mạng tân phái.
Số 6, Tân thanh niên lại ném ra một trái bom tư tưởng nữa. Đó là bài “Khổng Tử bình nghị” của Dị Bạch Sa phản đối Khổng giáo, phản đối lễ pháp và phản đối quan niệm luân lý cũ. Bài Khổng Tử bình nghị đến tay người đọc đúng lúc Viên Thế Khải lên ngôi Vua và tỉnh Vân Nam khởi nghĩa các tỉnh miền Tây Nam tiếp nhau phản đối đế chế. Trung ương chính phủ cơ hồ suy sụp đến nơi. Trước cơn cuồng phong của thực tế chính trị, phần tử trí thức càng thấy rằng đòi hỏi chính trị biến đổi là cần thiết nhưng biến đổi chính trị không phải là biến đổi chính phủ là là biến đổi tư tưởng. Vì nghĩ vậy nên trí thức lãnh đạo vận động Ngũ Tứ không xao động vội vã trực tiếp can dự thực tế chính trị lúc đó, họ tiếp tục đi con đường cách mạng văn hóa, cách mạng tư tưởng.
Hồ Thích viết bài: Sửa đổi văn học để chính thức phát khởi cuộc cách mạng văn học. Ông đưa ra ba điểm:
a) Lật đổ văn học quý tộc a dua, tô vẽ tỉ mẩn để kiến thiết văn học quốc dân bình dị, trữ tình.
b) Lật đổ văn học cổ điển phô trương thối tha để kiến thiết văn học tả thực, chân thành, mới mẻ.
c) Lật đổ văn học sơn lâm, u tối loanh quanh để kiến thiết văn học xã hội, thông tục dễ hiểu.
Bài sửa đổi văn học của Hồ Thích tuy bề ngoài chỉ hạn chế trong phạm vi văn học nhưng trên thực tế nó đã ảnh hưởng sâu xa đến phương thức sống, đến tư tưởng. Phản đối văn học quý tộc đề xướng văn học quốc dân hàm chứa ý thức bình dân cách mạng, phản đối văn học cổ điển chủ trương văn học tả thực là phản đối truyền thống. Phản đối văn học sơn lâm u tối, xây dựng văn học xã hội là kêu gọi văn nhân bỏ mộng đi vào thực cảnh, rời tháp ngà xuống đường phố.
Chính quyền Viên Thế Khải mải mê đối phó với thực tế chính trị, không chú ý mấy việc làm của Tân thanh niên nhưng thanh niên khắp mọi nơi thì bị Tân thanh niên khích động mãnh liệt. Thanh niên trí thức bất mãn càng sâu bao nhiêu họ càng đi tìm ở văn học một xuất lộ. Được thể, Tân thanh niên quá khích hơn. Phần tử quá khích nổi tiếng Tiền Huyền Đồng và Chu Thụ Nhân tức văn hào Lỗ Tấn. Phần tử tương đối ôn hòa lạc quan là do Hồ Thích làm đại biểu. Tiền Huyền Đồng đòi dùng tinh thần khoa học để tiêu diệt nhọt độc quốc túy Khổng học. Hồ Thích yêu cầu: nuôi dưỡng tập quán hoan nghênh tư tưởng mới, tư tưởng tự do, ngôn luận tự do. Tuy nhiên cả hai phái quá khích lẫn ôn hòa lạc quan đều có chung một rễ cái là phản đối Khổng học lũng đoạn tự học thuật, phản đối chuyên chế kinh điển.
Từ đấu tranh tư tưởng đến vận động thị uy
Âu chiến kết thúc, nước Đức bại trận. Trung Quốc ở bên kia phía đồng minh và cũng là nước thắng trận. Năm 1919 ở hòa hội Ba Lê, đại biểu Trung Quốc lên tiếng đòi hủy bỏ bảy điều của hiệp ước ký kết giữa T.Q. và liệt cường giành đặc quyền cho các nước Tây phương trên lãnh thổ Trung Hoa, đồng thời đòi thủ tiêu 21 điều do Viên Thế Khải ký với Nhật, trao trả tỉnh Sơn Đông.
Nhưng hòa hội Ba Lê không ghi vào chương trình bàn cãi hai thỉnh cầu của đại biểu Trung Quốc. Đã vậy hòa hội Ba Lê còn ghi lên vài điều kiện minh xác việc Nhật chiếm Sơn Đông từ tay Đức là hợp pháp.
Thanh niên trí thức bây giờ đã có một nhận thức chính trị khá trưởng thành và phổ biến, họ căm phẫn hành động ức chế của hòa hội Ba Lê. Chiều ngày 3 tháng 5 năm 1919 hơn một ngàn đại biểu sinh viên và học sinh tập hợp tại trường đại học bắc Kinh khai hội quyết định ngày 4 tháng 5 toàn thể xuống đường biểu tình.
Biểu tình ngày 4 tháng 5 là phản ứng quyết liệt của phần tử trí thức đối với sỉ nhục ngoại giao. Khẩu hiệu của họ là: Phế trừ 21 điều- Không ký hiệp ước Versailles- Thâu hồi tỉnh Sơn Đông- Trung Quốc của người Trung Quốc. Ngần ấy khẩu hiệu rõ ràng quy vào mục tiêu phản kháng đế quốc Nhật. Trong khi chính phủ lại thân Nhật, đa số cấp bậc cao trong chính phủ ít nhiều đều do Nhật nâng đỡ hoặc phù trợ. Cuộc biểu tình được chính phủ nhìn nhận như một tử thù.
Sáng 4-5 chừng sáu bảy ngàn thanh niên trí thức có mặt trước Thiên An Môn. Họ đi thành hàng tiến về phía sứ quán Nhật Bản. Quân cảnh chận lại. Đoàn biểu tình hướng về nhà Tào Nhữ Lâm- người ký kết hiệp ước Versailles. Mặc dầu quân cảnh gác chống giữ, thanh niên học sinh ồ ạt sấn lên đốt phá. Lúc ấy nhà Tào Nhữ Lâm đang có hội họp bộ trưởng tổng trưởng, mạnh ai nấy thoát. Đến buổi trưa khẩu hiệu vận động biến thành đả đảo chính phủ vô năng. Buổi tối, hàng loạt sinh viên học sinh bị bắt. Ngày hôm sau, các trường ở Bắc Kinh tổng bãi khóa phản đối chính phủ đàn áp học sinh sinh viên. Chính phủ tiếp tục thi hành biện pháp mạnh. Thanh niên trí thức phẫn nộ tổ chức đội diễn thuyết, đội phát truyền đơn hoạt động trên toàn thành Bắc Kinh. Học sinh sinh viên tổ chức Bắc Kinh học hiệu liên hợp hội, tung ra từng đội nhỏ quấy phá mọi nơi.
Việc chính phủ Bắc Dương (danh từ chỉ định chính quyền Viên Thế Khải) đàn áp học sinh gây bất mãn toàn quốc. Tôn Trung Sơn, Khang Hữu Vi cùng nhiều nhân vật danh tiếng tới tấp đánh điện hoan nghênh sinh viên và học sinh. Giáo sư Sái Nguyên Bồi viện trưởng viện đại học Bắc Kinh bị bức bách từ chức, ông rời Bắc Kinh. Tình trạng gay go vẫn tiếp tục. Ngày 20, quân cảnh bao vây cuộc hội của các đại biểu học sinh sinh viên. Học sinh sinh viên leo tường trốn chạy và bất ngờ tụ tập tại nơi khác in bảng hiệu triệu kêu gọi toàn nước ủng hộ cuộc đấu tranh. Đầu tháng sáu chính phủ bắt giam 3000 học sinh sinh viên. Thế là các tỉnh nổi lên một lượt, học sinh 14 tỉnh bãi khóa hưởng ứng. Ở Thương Hải bãi công bãi thị hưởng ứng. Bắc Dương chính phủ đành nhượng bộ.
Vận động Ngũ Tứ thành công huy hoàng.
Nhà văn Mã Bân viết:
Đây là cuộc vận động yêu nước do phần tử trí thức lãnh đạo. Về tính chất nó tương tự vận động Mậu Tuất nhưng vì thời đại khác nhau nên Ngũ Tứ tiến bộ tích cực và rộng rãi hơn Mậu Tuất. Hoạt động Mậu Tuất chỉ hạn chế trong bản thân giai cấp trí thức còn vận động Ngũ Tứ cũng lãnh đạo bởi phần tử trí thức nhưng các giai tầng khác đều ủng hộ. Thậm chí nhân vật hai đoàn thể ghét bỏ nhau như Khang Hữu Vi và Tôn Trung Sơn nay cũng gặp nhau trên sự vui mừng đối với Ngũ Tứ. Đặc điểm vận động Ngũ Tứ là thuần xuất từ lòng ái quốc không có đảng phái lãnh đạo.
Tiếng chuông rè…
Trong một số xuất bản năm 1918 tờ Nam Phong có đăng tải bài "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc": “Này đồng bào ta thử ngẫm mà xem, cả cái vận mệnh của Việt Nam tổ quốc ta, cái tổ quốc đáng yêu của ta chẳng phải là cầm lỏng trong cái cuộc đấu tranh kinh thiên động địa này ra.
Giống An Nam ta còn sinh tồn được trên mặt đất này, quốc dân ta còn giữ được cái hy vọng tối thiết ở trong lòng ta chẳng phải là nhờ cái tài chí của đại Pháp sao?”
… Nam Phong đứng chủ chốt việc cổ động quyên tiền giúp mẫu quốc. Nam Phong cũng đứng chủ chốt đem văn minh Thái Tây để lòe bịp vạch đường chỉ lối lạc đường nhu cầu tiến bộ của dân ta. Bọn Tây lại, bọn trí thức thông ngôn đã thành công trong công việc ngăn chặn vận động tư tưởng để dễ bề đàn áp các cuộc vận động, cho nên suốt mấy năm Âu chiến bạo động không bành trướng được, tư tưởng cách mạng cũng tiêu trầm.
Đến năm 1921, ở các thành thị phương tiện ấn loát ngày một phát triển, sinh viên học sinh hấp thụ tư tưởng mới đã khá đông, nhà văn nhà báo cũng nhiều thì lại thấy vang dội lên những tiếng đòi hỏi đấu tranh, lúc ôn hòa, lúc kịch liệt gây thành những vụ chống đối. Đấu tranh dân chủ của thời kỳ này mang tính chất một cuộc vận động ái quốc lãnh đạo bởi phần tử trí thức mới chịu ảnh hưởng tư tưởng Tây phương. Lá cờ đấu tranh cầu tiến bộ đã chuyển tay từ sĩ đại phu sang trí thức Tây học. Đấu tranh mang hình thức mới. Báo chí là công cụ chính của đấu tranh và tầng lớp thị dân đông đảo là nòng cốt lực lượng.
Trong Nam kỳ năm 1922 xuất hiện tờ báo Thổ dân diễn đàn của Nguyễn Phú Khai và Bùi Quang Chiêu đả kích Thống đốc Nam kỳ tiêu biểu cho chính quyền thực dân.
Kịch liệt và yêu nước là tờ Tiếng chuông rè (cloche fêlée) của nhóm Nguyễn An Ninh.
Ngoài Bắc có Nam Đồng thư xã, Duy Tân thư xã, Giác Quần thư xã xuất bản nhiều sách vở yêu nước như cuốn Tiếng kêu của Việt Quyên và các tập di cảo của Phan Chu Trinh.
Tại hải ngoại, lá thư vạch tội vua bù nhìn Khải Định của Phan Chu Trinh đã gây nên luồng dư luận rất sôi nổi. Cuộc vận động này về sau biến diễn thành những vụ biểu tình đòi thả cụ Phan Bội Châu năm 1925, biểu tình bãi công bãi khóa đi đám táng cụ Phan Chu Tring tạ thế ở Saigon năm 1926, vụ liệt sĩ Phạm Hồng Thái tử tiết sau khi ném bom giết hụt toàn quyền Martin (1924) mở đầu cho một giai đoạn đấu tranh mới.
Cộng Sản xuất hiện
Tháng 10 năm 1917, chính quyền Xô Viết lãnh đạo nước Nga. Năm 1919 trên tờ Tân thanh niên số năm, Lý Đại Khâm viết hai bài báo nhan đề: Thử dẫn thắng lợi của chủ nghĩa Bôn-sê-vich. Đó là lần đầu tiên dân chúng T.Q. được giới thiệu biến cố lịch sử trọng đại, đồng thời đây cũng là gạch nối giữa vận động Ngũ Tứ với cách mạng vô sản để đưa đến việc thành lập Cộng sản đảng sau này.
Ngũ Tứ đón nhận hai bài báo của Lý Đại Khâm như một sự giới thiệu tư tưởng mới cũng như đã đón nhận chủ nghĩa dân chủ Anh-Mỹ do bác sĩ Hồ Thích giới thiệu mà thôi. Dân chúng cùng phần tử trí thức hy vọng những tập đoàn đang trực tiếp lãnh đạo thực tế chính trị chấp nhận tư tưởng mới để thay đổi chính trị. Nhưng tập đoàn cách mạng tức quốc dân đảng gần như mất hết quyền hành chỉ còn vài căn cứ địa ở miền Nam, còn tập đoàn Bắc Dương sau khi Viên Thế Khải chết, quân phiệt cắt đất hùng cứ đánh lẫn nhau. Ngũ Tứ do sự phân liệt tranh chấp cũng thoái trào. Phần tử trí thức rơi vào khổ muộn. Chính trong tình thế khổ muộn, chính trong tình thế này, Cộng sản nhân khoảng trống không ai lãnh đạo đã lập đội ngũ tiến vào nắm lấy vận động Ngũ Tứ.
Năm 1920, quốc tế Cộng sản dòm ngó Trung Quốc và phái tới Thượng Hải một cán bộ cao cấp dưới cái tên hoàn toàn Trung Hoa là Ngô Đình Khang để bí mật liên lạc. Ngô Đình Khang gặp Trần Độc Tú rồi tổ chức tiểu tổ Mác xít. Phần Lý Đại Khâm về Bắc Kinh lập một tiểu tổ Mác xít nữa. Dựa vào quen biết với các phần tử trí thức đã tham gia Ngũ Tứ vận động, Tú và Khâm phát triển tổ chức Mác xít tại nhiều tỉnh khác. Tổng số đảng viên được 57 người. Đại hội đầu tiên gồm 12 đại biểu, Mao Trạch Đông là đại biểu của tỉnh Hồ Nam. Tiếp theo là tổ chức đảng vào các sinh viên du học, tiểu tổ hải ngoại thứ nhất lập ở Pháp có Lý Lập Tam, Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân và Vương Nhược Phi. Có thể nói những đảng viên tiền phong hết thảy đều là phần tử trí thức tiểu tư sản.
Kỳ đại hội thứ hai, qua một năm hoạt động mặc dầu số đảng viên đã tăng lên gấp đôi và tạo rất nhiều thành tích về vận động công nhân ở Thượng Hải, nhưng cũng vẫn là muối bỏ bể. Lần này đại hội quyết nghị một hoạt động sâu rộng hơn với chính cương mới.
1) Tiêu trừ nội loạn, đả đảo quân phiệt, kiến thiết hòa bình trong nước.
2) Đánh quỵ đế quốc quốc tế áp bách, giành độc lập hoàn toàn.
3) Thống nhất T.Q. kiến lập nước cộng hòa.
4) Nam nữ công nông có quyền tuyển cử không kể đối với cấp nghị hội nào.
5) Tự do bãi công, ngôn luận, lập hội, xuất bản.
6) Chế định pháp luật phụ nữ, pháp luật công nông.
Với chính cương ôn hòa trên, C.S nhằm mục tiêu ve vãn Tôn Trung Sơn.
Với chính cương dễ nghe trên, C.S được nhiều người ủng hộ, lần lần phát triển xuống miền Nam nơi hùng cứ của phe Quốc dân đảng.
Quốc dân đảng lúc trước Ngũ Tứ là vô địch cách mạng, chức vô địch ấy đã bị Ngũ Tứ đoạt mất, lại thêm hai cánh quân sự thuộc Việt hệ và Quế hệ xung đột mang quân đánh lẫn nhau. Tôn Trung Sơn vô kế khả thi. Giữa lúc não lòng thì Cộng sản tìm đến tranh thủ họ Tôn. C.S không đến với Tôn Trung Sơn bằng dây liên lạc đặc vụ như C.S đã tranh thủ Trần Độc Tú, họ đến bằng đại diện chính thức của chính phủ Xô viết vì lẽ nếu đem so Trần Độc Tú với Tôn Văn thì thanh vọng Tôn Văn vẫn lớn hơn nhiều. Tôn Văn còn được coi như thủ não của chính phủ miền Nam. Đại diện của chính phủ Xô viết bấy giờ là Malin ủy viên trưởng các vấn đề thực dân địa và dân tộc. Bắt tay xong với Tôn Văn, C.S không để lỡ ngày giờ triệt để áp dụng kế hoạch tu hú đẻ nhờ. Các cán bộ cao cấp C.S dùng chiêu bài Quốc dân đảng để phát triển Cộng sản đảng. Họ vận động Tôn Văn đề ra chính sách “Liên Nga, dung cộng giúp đỡ Công nông”. Hoa dân chủ khoa học đã chính thức kết thành quả Cộng sản. Phần tử trí thức sau một thời gian đằng đẵng bị áp (bức?) bị xua đuổi, một phần tự để buông xuôi theo dòng tiêu cực đi vào chủ nghĩa cá nhân hưởng thụ, một phận căm hận phẫn nộ đi theo Cộng sản.
o0o
Năm 1925 tại Marseill sinh viên, thợ thuyền người Việt phát hành tờ Việt Nam hồn rồi tờ Lao động, tờ Phục Quốc rồi tờ Tái Sinh. Quan trọng hơn, nhà xuất bản Quan hải tùng thư cho in nhiều sách biên dịch chủ nghĩa Mác xít. Trong số đó có cuốn Án thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc gây ảnh hưởng vang dội. Nguyễn Ái Quốc còn viết nhiều bài báo khác bằng tiếng Pháp và tiếng Nga, chẳng hạn như bài Lê nin và các dân tộc thuộc địa đăng trên báo Sự thật để khóc cái chết của Lê nin:
“Lê nin đã mất!...
Chúng tôi vô cùng đau đớn trước sự tổn thất không thể nào đền bù được và chia sẻ nỗi buồn chung của nhân dân các nước với những người anh, người chị của chúng tôi. Song chúng tôi tin tưởng rằng Quốc tế Cộng sản và các chi bộ của nó, trong đó có các chi bộ ở các nước thuộc địa sẽ thực hiện được những bài học và những lời giáo huấn mà vị lãnh tụ để lại cho chúng ta. Làm những điều mà Người đã căn dặn chúng ta đó chẳng phải là phương pháp tốt nhất để tỏ tình yêu mến của chúng ta đối với Người hay sao.
Khi còn sống, Người là Cha, là thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội.
Lénine bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.
Những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc đánh dấu một khúc quanh lịch sử, hướng dẫn cuộc đấu tranh chống thực dân theo đường lối vô sản. Cộng sản bắt đầu xâm nhập vào đất nước bằng vận động văn học cầu tiến bộ, bằng vận động văn học yêu nước.
Tôn Trung Sơn và chính sách đi đôi
Thắng lợi Tân Hợi chưa vui được bao lâu thì sự phân hóa nội bộ của cách mạng đã nhận chìm thành quả thực tế của Tân Hợi.
Phân hóa nội bộ chia ra làm 4 loại:
1) Đi làm quan dân quốc. Thời gian và chức vị làm tiêu mòn cách mạng tính, hết lý tưởng và sống cẩu thả.
2) Ôm lấy thắng lợi Tân Hợi, thỏa thuận cùng quân phiệt miền Bắc giảng hòa.
4) Tiếp tục kiên trì đấu tranh.
(chú thích: trong sách không có phần 3)
Loại người thứ 4 có rất ít. Tôn Trung Sơn là thủ não của loại thứ 4. Lực lượng đã ít oi lại thêm sự giằng co của ba loại kia thành thử Tôn Trung Sơn đã không thể tiến quân vào lãnh đạo vận động Ngũ Tứ. Bởi vậy, sau Ngũ Tứ, Quốc dân đảng ở vào cái thế thật ảm đạm. Dân chúng và phần tử trí thức say mê khẩu hiệu khoa học dân chủ hơn là chủ nghĩa tam dân. Quân phiệt Bắc Dương coi như Quốc dân đảng không còn nữa. Nếu không có uy danh Tân Hợi chắc Quốc dân đảng đã tiêu rồi. Tôn Trung Sơn đang chới với trên dòng nước lũ thì C.S cầm phao đứng trên bờ quăng kèm theo các điều kiện. Tôn Trung Sơn bằng lòng Quốc Cộng hợp tác, chấp nhận cố vấn Borodine giúp đỡ Tôn Văn xây dựng quân lực.
Năm 1921, Tưởng Giới Thạch được cử làm giám đốc trường quân sự Hoàng Phố, cán bộ C.S Chu Ân Lai làm chính trị chủ nhiệm của trường.
Hợp tác Quốc Cộng là con dao hai lưỡi. Một mặt nó kích thích Quốc dân đảng hồi sinh vì phong khí chính trị mới và vì Nga giúp đỡ kiến quân, một mặt nó đem giang sơn Quốc dân đảng lúc ấy là vùng Quảng Đông chia cho C.S một nửa.
Phản ứng của phần tử trí thức với sự hợp tác Quốc Cộng ra sao? Đại lược có ba phương diện:
1) Phần tử trí thức ở các thành thị lớn ngấy chán những hỗn chiến của các quân phiệt hùng cứ cho nên rất vui lòng thấy cuộc hợp tác Quốc Cộng. Tứ Mậu Tuất đến nay, phần tử trí thức thành thị đã quen với tư tưởng Tây phương, họ không kinh hãi lý luận Cộng sản. Đôi khi họ còn chê trách Quốc dân đảng quá ôn hòa. Hơn nữa khuôn mặt Trần Độc Tú không có vẻ gì dữ dằn nếu nhìn hoạt động của ông ta trong vận động Ngũ Tứ.
2) Vận động Ngũ Tứ đã phá hết uy tín của truyền thống, đánh đổ chuyên quyền học thuật cũ Khổng đạo, hoàn thành ý thức tự do luyến ái, kết hôn, v.v… nhưng về mặt kiến thiết trên căn bản dân chủ và khoa học thì chưa ra đâu vào đâu. Nay Ngũ Tứ thoái trào, thanh niên trí thức khổ tâm với cuộc sống tẻ nhạt, họ cần chất kích thích, lý thuyết cộng sản chính là chất kích thích đó.
3) Phản đối cuộc hợp tác là phần tử trí thức đã tiếp nhận thâm sâu lý tưởng dân chủ Anh-Mỹ và phần tử trí thức bảo thủ. Phần tử dân chủ sợ C.S vì họ đã thấy cái cốt độc tài cực quyền bên trong. Phần tử bảo thủ sợ C.S vì quan niệm tư hữu đã ăn rễ quá mạnh trong đầu óc, ngay như chính sách bình phân địa quyền của Tôn Văn đưa ra cũng đã làm họ kinh ngạc rồi.
Phản ứng của chính phủ Bắc Kinh đối với hợp tác ra sao?
Lúc này Đoàn Kỳ Thụy đã thay thế Viên Thế Khải, tập đoàn Bắc Dương không coi trọng cuộc hợp tác, dưới mắt họ phương thức tư tưởng không đáng kể, họ chỉ chú ý đến thực lực và ảnh hướng ai có súng, nói vâng theo thế thôi. Họ nhìn Cộng sản đơn giản là một tập đoàn tiến bộ không đáng gờm bằng Tôn Văn. Tóm lại tập đoàn Bắc Dương với ý thức trên quả đã quá lạc hậu với đấu tranh chính trị.
Tình hình phía Bắc
Phía Nam Quốc dân đảng - Cộng sản hợp tác, tuy hỗn loạn vẫn tiếp tục nhưng tiến bộ đã mở đầu.
Ngũ Tứ tuy phát sinh tại Bắc Kinh thế mà bao lời hô hào của thanh niên nhiệt huyết không thức tình được giai cấp thống trị kỳ cựu. Bọn quan liêu sĩ đại phu vẫn mãi mê hoài vọng thời vua chúa vàng son.
Bây giờ cầm đầu trung ương là Đoàn Kỳ Thụy, Từ Thế Xương (xuất thân cạo heo) làm Tổng Thống. Tuy gọi là trung ương nhưng thực sự quân phiệt đã chia cắt tự cai quản địa phương của mình. Trong số quân phiệt có Ngô Bội Phu là người có thế lực nhất, không kể về thực lực, cả về uy danh Phu cũng chiếm thượng phong. Trước mắt dân chúng vẫn từng đau khổ nhục nhã vì ngoại xâm thì những khẩu hiệu “Không tiêu tiền ngoại nhân”, “Không ở Tô giới” của Ngô Bội Phu thật đáng mặt anh hùng, thứ anh hùng thổ sản. Ngoài ra Ngô Bội Phu còn được phần tử trí thức Mậu Tuất phò giúp. Khang Hữu Vi cùng tập đoàn của ông đặt hy vọng vào Ngô Bội Phu coi như con người duy nhất trong tương lai có thể thống nhất Trung Quốc. Xem thế đủ biết phần tử trí thức Mậu Tuất còn nặng tính chất bảo thủ ghê gớm. Đến khi Ngô Bội Phu liên kết với Tào Côn đánh bại Trương Tác Lâm chiếm giữ chính quyền trung ương, rồi Tào Côn lại phản Ngô Bội Phu để được bầu làm Tổng Thống thì uy danh của Ngô Bội Phu sụp đổ tan tành. Thổ sản anh hùng lộ mặt thật ra cũng nguyên vẹn chỉ là một loại quân phiệt đáng ghét.
Thượng Hải nơi trăm hoa đua nở
Năm 1921, về sau Ngũ Tứ thoái trào, các người lãnh đạo vận động như Trần Độc Tú, Lý Đại Khâm đã theo Cộng sản, Hồ Thích mờ dần. Nhưng cơn gió Ngũ Tứ đã thổi phấn nhụy vào các khu vực tự do để nở hoa tại đây.
Cùng bởi tại chính phủ Bắc Dương khinh thị nên Thượng hải là đất tốt cho văn hóa nở hoa. Khắp mọi tư tưởng Đông Tây đều được tung ra: vô chính phủ chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, văn học lý luận, v.v… Sự phong phú tư tưởng tạo ra không khí học vấn, thanh niên trí thức hứng thú đọc sách.
Chế độ Tô giới biến Thượng Hải thành ngã tư quốc tế trên mọi mặt: thương mại, chính trị, kinh tế, điệp báo…
Các hội đảng chính trị mọc lên như nấm.
Các hội văn học mọc lên như nấm.
Nhưng đem lại ảnh hưởng nhiều nhất, rộng rãi nhất cho thanh niên trí thức thì chỉ có Văn học nghiên cứu hội và Sáng tạo xã. Phần tử trí thức ngày xưa tuy đầu óc đầy ắp một chữ Quan nhưng trên truyền thống đồng thời cũng rất nặng với văn chương. Tâm hồn người Trung Quốc thường ghi khắc hai nhân vật lịch sử là Hán thọ Đình Hầu Quan Vân Trường, con người khảng khái tiết nghĩa được hiển thánh và Lý Thái Bạch một nhà thơ tài hoa, lận đận và phóng túng. Thanh niên trí thức do truyền thống thường yêu văn học hơn chính trị một bậc, chính trị chẳng qua chỉ là một xung động ngắn ngủi còn văn học mới miên trường vĩnh cửu.
Ngũ Tứ thoái trào, khẩu hiệu chính trị cũng phai nét trong lòng đại chúng nhưng vẫn nhiệt tâm với cách mạng văn học.
Cách mạng Tân Hợi oanh liệt với sắt máu khói lửa mà không đặt xong nền móng dân chủ. Trái lại vận động Ngũ Tứ với ít bài báo của thư sinh trong tay không có nửa tấc sắt đã làm ra “thiên hạ bạch thoại”.
Thắng lợi lớn nhất của văn học Ngũ Tứ là bộ môn tiểu thuyết. Trước kia tiểu thuyết hoàn toàn bị khinh thị nay ai ai cũng hân hoan đón đọc tiểu thuyết.
Văn học nghiên cứu là hậu thân của báo Tân Thanh Niên tiếp nối mục tiêu cách mạng văn học gồm có những người sáng lập tên tuổi như:
Chu Tác Nhân, Chu Hy Tổ, Trịnh Chấn Đạc, Cù Thế Anh, Trầm Nhạn Bằng tức Mâu Thuẫn (hiện là Bộ trưởng Văn hóa Trung Hoa đại lục), Tôn Phục Viên, Tưởng Bách Lý, Vương Thống Chiêu, Ánh Tế Chi.
Văn học nghiên cứu hội xuất quân trước hết là đánh dẹp bọn nhà văn Uyên ương Hồ điệp hay văn học hương phấn chuyên phụng sự thú vui của đời sống Tô giới sa đọa mà cứu vãn thanh niên trí thức.
Trong tuyên ngôn của hội văn học nghiên cứu có câu:
Thời kỳ coi văn học như một trò tiêu sầu, khiển hứng đã qua rồi. Chúng tôi nghĩ rằng văn học hẳn hoi là một công tác, công tác thiết yếu và các nhà văn phải thận trọng công tác ấy như một lẽ sống chết của bản thân mình.
Chủ trương của Văn học nghiên cứu hội là:
- Tả thực chủ nghĩa.
- Nhân sinh nghệ thuật.
Sáng tạo xã do nhóm lưu học sinh Quách Mạt Nhược, Úc Đạt Phu, Trương Tư Bình, Trịnh Bá Kỳ tổ chức.
Sáng tạo xã tính chất quá khích nóng nảy đối lập với Văn học nghiên cứu hội.
Vừa nhảy vào vòng chiến, Sáng tạo xã liền đưa ra chủ trương văn nghệ giai cấp đấu tranh. Với luận điệu bạo cuồng quá khích họ đã phá vỡ khối u uất khổ muộn của thanh niên trí thức.
Năm 1924 còn có một hội văn học gây ảnh hưởng lớn nữa là Ngữ Ti Xã, do Lỗ Tấn thành lập cùng với Tiền huyền Đồng, Du bình Bá, Lưu bán Nông. Ban đầu nhóm Ngữ Ti Xã đi theo đúng đường lối Tân Thanh Niên trước đây, chỉ bắc cầu đưa tư tưởng tự do tiến bộ vào đầu óc người TQ. Sau Ngữ Ti Xã dần dần ngả về khuynh hướng thiên tả.
Bàn về ý nghĩa cách mạng văn học
Văn minh nào cũng vậy, đều sáng tạo bởi một số ít nhân tài thông minh trí tuệ hơn người. Hơn người không có nghĩa là thần thánh mà căn bản nhân tài là nhân tính có lý trí kiên cường, cảm giác mẫn nhuệ, nhãn quang sâu rộng, lãnh ngộ sáng suốt, tóm lại hơn người là cái gì hết sức tự nhiên hợp lý, không thần bí huyền hoặc. Trong sinh hoạt tập thể, vô luận tổ chức chính trị hay tổ chức xã hội, thường thường phần tử ưu tú, nhân tài ở địa vị thống trị, địa vị lãnh đạo, đó là lộ trình tự nhiên của lịch sử. Nhân tài phải hoàn toàn dựa vào thông minh tài trí hơn người để dành địa vị lãnh đạo, phải dùng thông minh tài trí hơn người để mang hạnh phúc cho dân chúng.
Nhưng xã hội, lịch sử và nhân tình loài người đâu có phải lúc nào cũng trôi chảy êm đềm như thế. Có những thời kỳ người ở địa vị lãnh tụ mà không đủ tư cách lãnh đạo, thiếu khả năng lãnh tụ, một loại tầm thường nhờ cơ hội, phương tiện hoặc thế tập (cha truyền con nối) mà bước lên địa vị lãnh tụ. Các giả lãnh tụ cống hiến cho dân chúng thì ít mà áp bách phá hoại thì nhiều. Các chân lãnh tụ ẩn trong dân chúng đến lúc không thể nhẫn nhịn được nữa liền đứng lên lãnh đạo dân chúng phản kháng, ấy gọi là cách mạng. Ý nghĩa chân chính của cách mạng vận động là dùng thủ đoạn phá hoại để đả đảo giả lãnh tụ, đem tinh thần tích cực ủng hộ chân lãnh tụ,
Cách mạng có mấy điểm đáng chú ý:
1) Vận động cách mạng phát xuất từ biến thái của sinh hoạt chính trị.
2) Mục tiêu của cách mạng là khôi phục sinh hoạt về trạng thái bình thường.
3) Tinh thần cách mạng là tinh thần phản kháng chống lại hư ngụy.
4) Cách mạng là sự biến động mãnh liệt nhưng mang tính cách tạm thời, không thể là trạng thái kéo dài ray rứt.
5) Sự bạo phát của cách mạng đối với quần chúng thuần túy là nhiệt tình.
6) Cách mạng là tổ chức và kỷ luật, cách mạng là tôn trọng nhân tài.
Trước thời kỳ cách mạng hay đương thời kỳ cách mạng, văn học là khu vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất và văn học cũng là một trong những nguồn gốc phát sinh cách mạng. Nỗi thống khổ của nhân gian, cảnh thối tha của xã hội, sự hắc ám của chính trị, tính chất hư ngụy của đạo đức đều được cảm nhận trước tiên bởi các nhà văn. Nói thế chẳng phải vì dân chúng trước trạng thái sinh hoạt ác liệt không biết thống khổ đâu. Có điều cảm giác thống khổ của họ không được thâm sâu, và thứ nhất là không thể diễn đạt đủ ý để có thể truyền bá toàn chỉnh nỗi thống khổ đó. Văn nhân nhờ bản tính, nhờ tu dưỡng, nên sự cảm thông với thống khổ của dân gian bén nhậy hơn, rồi dùng những phương thức nghệ thuật (khác nhau tùy từng thời đại) để nói lên hiện trạng bất mãn dễ làm xúc động hơn. Người ta có thể kể cả ngàn nỗi thống khổ của người mã phu, nhưng với kiệt tác Une banale histoire của Tchekov chỉ mười trang thôi, các nỗi thống khổ kia đã kết thành u uất thê thảm.
Văn học gia là những người tiên tri tiên giác của dân chúng cho nên thời kỳ lịch sử nào mà văn học giàu tinh thần cách mạng bao giờ cũng là nguồn gốc của vận động cách mạng của thời kỳ đó. Văn học cách mạng thường vẫn là giọt máu tâm linh trong thời gian trước cách mạng. Văn học gia là một đại biểu không chính thức của dân chúng. Văn học chẳng những hun đúc nỗi phẫn uất thành sự đồng tình tụ tập, văn học còn tìm tòi phát hiện những quy luật và kỹ thuật tổ chức đấu tranh. Nắm được vận động cách mạng văn học có nghĩa là đã giữ được một nửa lãnh đạo quyền cách mạng.