Tôn Đản hỏi:
- Còn phái Mê-Linh thành lập từ bao gìơ?
- Sau khi vua Bà tuẫn quốc. Mã Viện biết rằng muốn Lĩnh-nam yên, cần tiêu diệt các phái võ. Một mặt y tróc nã các cao thủ, cấm dạy võ. Một mặt y ra lệnh thu hết sách vở viết bằng chữ Khoa-đẩu đem về Trung-nguyên. Song các tôn sư võ học vẫn ẩn thân, chép bí quyết võ học, để lại cho con cháu. Y tấu về xin chỉ dụ của vua Quang-Vũ nhà Hán ra lệnh cấm học chữ Khoa-đẩu. Như vậy đừng nói võ học, đến tư tưởng, học thuật mấy ngàn năm của Lĩnh- nam nếu có còn gĩư được trong các sách vở cũng vô ích. Vì không ai đọc đựơc. Tuy vậy các phái vẫn bí mật truyền thụ nhận đệ tử. Cho nên đến thời Tam-quốc, bà Triệu thuộc phái Long-Biên khởi binh một lần nữa.
Lê Thuận-Tông cắt lời Thanh-Mai:
- Em nghe vua Lý Nam-đế cũng thuộc phái Cửu-chân, có phải không? Còn Dương Diên-Nghệ, Ngô Quyền thuộc phái nào?
- Đúng. Lý Nam-Đế thuộc phái Cửu-chân, vì vậy khi lên ngôi ngài phong tặng cho bà Triệu là Lĩnh-nam đệ tam thánh. Vì đệ nhất thánh là vua Trưng. Đệ nhị thánh là Trưng Nhị. Bà là đệ tam thánh đất Lĩnh-nam. Còn Dương Diên-Nghệ thuộc phái Cửu-chân. Ngô Quyền là con rể, cũng là đệ tử Dương Diên-Nghệ.
Thiện-Lãm bàn:
- Chị Thanh để em bàn xem có đúng không nghe. Sau này Đinh Tiên-Hoàng chắc chắn thuộc phái Hoa-Lư. Thập đạo tướng quân của ngài là Lê-Hoàn thuộc phái Tiêu-Sơn. Thế phái Mê-linh được thành lập từ bao gìơ?
- Vào năm Mậu-thìn, niên hiệu Đinh Tiên-Hòang đế nguyên niên (968). Bấy giờ võ lâm Lĩnh-nam phân hóa cùng cực. Trong nước chia thành mười hai sứ quân, mang quân đánh lẫn nhau. Các đại tôn sư người theo sứ quân này. Kẻ theo sứ quân nọ, tàn sát nhau khủng khiếp. Chưởng môn nhân phái Long-biên là Hoa-Minh thần ni. Ngài mời tôn sư bẩy đại môn phái thời Lĩnh-nam tới họp. Trong đại hội, luận bàn xem sứ quân nào có đức độ nhất thì giúp, hầu thống nhất thiên hạ. Các đại tôn sư đều đồng ý giúp sứ quân Đinh Bộ-Lĩnh. Vì ngài là chưởng môn phái Hoa-Lư. Sau khi thống nhất đất nước. Các phái Tản-viên, Hoa-lư, Sài-sơn vẫn giữ nguyên. Còn hai phái Cửu-chân, Long-biên, đều đồng ý hợp nhất thành một phái, lấy tên thủ đô thời Lĩnh-nam là Mê-linh cho môn phái mới.
Thanh-Mai nói đến đâu, Tôn Đản gật đầu tỏ vẻ hiểu biết tới đó. Nó hỏi:
- Cứ như cuộc luận bàn hồi nãy gữa người Tống với chúng mình, thì dường như phái Tiêu-sơn thành lập từ khi Bồ-tát Tỳ-ni-đa Lưu-chi sang ta. Còn phái Đông-a thì do phái Tiêu-sơn mà ra. Em nghe, đức hoàng-đế bản triều họ Lý, húy Công-Uẩn, xuất thân phái Tiêu-sơn. Vì vậy suốt trong thời gian qua, vị chưởng môn phái Tiêu-sơn trở thành quốc sư. Có đúng không?
Thanh-Mai gật đầu. Tự-Mai hỏi Lý-Long:
- Anh cả này. Hiện nay võ học Đại-Việt đang thịnh. Trong khi đó bên Tống vua thì hôn ám. Quan lại hèn hạ, nhũng lạm. Dân chúng đói khổ. Bắc có nước Liêu. Tây có Tây-hạ. Nam có Thổ-Phồn. Tại sao mình không họp nhau với Chân-lạp, Xiêm-la, Đại-lý, Chiêm, Lào, thống nhất đem quân hội với Liêu, Tây-hạ, diệt Tống chiếm lại đất Quảng-đông, Quảng-tây cũ? Tại sao mình cứ phải cúi đầu thần phục bọn hèn nhà Tống? Để thỉnh thoảng nó sai mấy tên ngu muội sang phong chức này, tước nọ? Mỗi khi đọc sử đến giai đọan công chúa Gia-hưng Trần Quốc định đem quân chiếm Lạc- dương, lật đổ nhà Hán, em lại tiếc hùi, tiếc hụi. Giá hồi ấy vua Trưng truyền lệnh cho công chúa Phật-Nguyệt vượt Trường-giang theo ngả Kinh-châu đánh về Lạc-dương. Như vậy ắt Ngô-Hán phải rút quân từ Thục về cứu viện. Công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa tái chiếm Thành-đô, Lưỡng Xuyên... không chừng thành công.
Tự-Mai mơ màng:
- Lại như thời vua Lê Đại-Hành, quân Tống hùng hùng, hổ hổ sang đánh, thế mà cũng chỉ ba trận, trên hai mươi vạn người bỏ xác. Anh cả ơi, chúng mình là con rồng cháu tiên, không tham vọng chiếm đất của người Hán. Song mình cũng cần đòi lại đất tổ. Em nghĩ, nhất định anh cả với chúng em phải làm việc đó.
Lý Long chắp tay hướng Thanh-Mai, Tự-Mai:
- Đa tạ các em dạy dỗ. Chí của các em lớn thực. Các em không thua gì vua Trưng, hay Bắc-bình vương Đào Kỳ khi xưa.
Nói rồi chàng ôm lấy đầu Trần Tự-Mai. Hai
anh em lặng đi giờ lâu. Tự-Mai hỏi:
- Liệu trong triều, đức hoàng đế cùng triều thần có nghĩ như anh em mình không?
Lý Long không trả lời. Chàng xuất thần nhìn lên mặt trăng, mơ mơ, màng màng.
Sư thái Tịnh-Huyền gật đầu:
- Có đấy con ạ. Song không phải ai cũng muốn làm anh hùng.
Bà ngửa mặt nhìn trăng nói với Lý Long:
- Cứ như bần ni xét, thì bản triều tuy mới lập chính thống, nay nảy ra được một thiếu niên khí hùng, trí dũng. Lại biết khuất thân cầu hiền tài. Một hai mưu khôi phục cố thổ. Nhân sĩ, võ lâm không ai mà không phục. Song bần ni lấy làm lo nghĩ, vì triều đình bây giờ không phải như triều đình thời Lĩnh-Nam. Ai cũng an phận. Thí chủ chí thì có, tài thì dư. Chỉ còn mong chữ thời nữa mà thôi.
Lý Long thất kinh hồn vía, hỏi:
- Thì ra sư thái biết cả rồi ư?
Sư thái Tịnh-Huyền mỉm cười móc trong bọc ra một cái túi nhỏ:
- Thí chủ cứ coi cái túi này thì rõ.
Lý Long cầm túi mở nút. Dưới ánh trăng hiện ra một tượng Phật bằng ngọc đỏ chói. Chàng ngẩn người, kính cẩn hỏi:
- Thưa sư thái, ngọc thì đúng. Song thực hư khó phân. Đệ tử không tin.
Thanh-Mai cười:
- Anh cả ơi! Hiện trên đất Việt các thiếu niên đồng tuổi với anh cả, hiếm có người văn võ kiêm tòan như anh cả. Bây giờ anh cả đang là vị vương. Mai này anh cả về triều, nghị sự cùng thiên-tử, đại hội anh hùng thiên hạ, chỉ cờ lên phương Bắc, thống nhất Việt tộc liên kết Liêu, Tây-Hạ, ta đòi đất cũ. Còn giang sơn nhà Tống chia cho các nước kia, thì cái sự nghiệp như vua An-Dương, vua Trưng đâu có thể không thành? Anh cả phải có cái nhìn sắc bén chứ? Một người tứ đại giai không như sư phụ của em, không lẽ lại muốn hơn thua một chút danh hão thế tục? Không lẽ lão nhân gia ở địa vị tối cao phái Mê-Linh, còn muốn mạo xưng một địa vị nhỏ bé???
Tự-Mai cũng xen vào:
- Khi anh cả cùng đại sư Huệ-Sinh đạo trưởng Nùng-Sơn gặp chúng em ở đưới gốc đa xã Cổ-linh. Sư phụ dùng thần công Lăng không truyền ngữ dặn chúng em rằng Bất cứ anh cả nói gì mà sư phụ không ngăn cản cũng phải tuân theo như tuân lệnh sư phụ . Tại sao? Tại vì sư phụ biết anh cả là ai. Thương anh cả cả vì tình máu mủ thì ít. Mà giúp cái chí anh cả thì nhiều. Vì vậy anh cả đề nghị kết anh em. Chúng em phải tuân ngay.
Vua Lý Thái-Tổ xuất thân hàn vi. Bố chết sớm, mẹ nghèo khó, phải gửi ngài lên ở chùa làm mướn độ nhật. Nhờ thông minh, ngài được sư Lý Khánh-Vân nhận là con nuôi, vì vậy ngài mang họ Lý. Sau được thiền-sư Vạn-Hạnh nhận làm đệ tử. Trong khi đó thân mẫu cùng em trai, em gái phải đi ở đợ. Năm mười tám tuổi, nhờ tài học, nhờ sư phụ làm quân sư cho triều đình nhà Lê, ngài được cử làm quan võ. Ngay khi làm quan, ngài tìm mẹ và em đem về nuôi dưỡng. Năm Đinh-dậu, nhằm niên hiệu Ứng-thiên thứ tư đời vua Lê Đại-Hành (997). Vua đem quân đánh Chiêm-thành. Ngài được cử là tiên phong. Sau khi thắng giặc, vua thu thập không biết bao nhiêu vàng, ngọc châu báu. Trong đó có hai tượng phật bằng hồng ngọc. Vua thấy ngài xuất thân là cư-sĩ Phật-gíao, đệ tử phái Tiêu-sơn, ban cho ngài. Ngài đem một tượng tặng cho em gái. Năm Kỷ-dậu (1009), khi mới lên ngôi vua, ngài truy phong cho cha làm Hiển-Khánh đại-vương. Phong cho mẹ tước thái hậu Minh-Đức. Lập con trai là Phật-Mã làm thái tử, bấy giờ mới có mười tuổi. Phong cho em gái làm công chúa Hồng-Châu. Các con đều được phong tước Hầu, mười ba con gái đều được phong công chúa. Ngài nói với các con : « Bình sinh ta chỉ có một em gái. Ta theo đạo Phật. Đạo Phật không phân biệt nam nữ như đạo Nho. Vì vậy các con phải coi cô như ta. Ta có hai tượng Phật bằng ngọc. Ta giữ một. Trong các con đứa nào có đức ta truyền ngôi cho, thì sẽ được giữ tượng ngọc. Một ta tặng cho cô. Sau này các người thấy tượng cũng như thấy ta, phải kính cô như ta ».
Hồi công chúa Hồng-Châu đến tuổi trưởng thành, bấy giờ vua Lý Thái-Tổ là tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Thấy em gái không nghĩ đến phú qúi, mà chỉ say mùi đạo, nhất tâm nhất trí tìm đường giải thoát khỏi cảnh luân hồi. Mẹ, anh khuyên sao cũng không được. Ngài quá thương em, khuyên răn, lại bị công chúa thuyết pháp ngược lại. Khuyên không được, ngài dùng quyền, ép công chúa lấy Lạc-hầu Lạng-châu, là người em kết nghĩa, đã từng giúp ngài rất nhiều trong thời gian lập nghiệp tên Thân Thiệu-Anh.
Sư thái vẫy Lý Long lại gần, thình lình bà chìa ngón tay trỏ chĩa vào người chàng phát một chỉ. Lý Long kinh hãi, nhảy lui lại hai bước. Chỉ đó phóng trúng đất chỗ chàng đứng, kêu xùy một tiếng. Cát bụi bay mịt mờ. Tịnh-Huyền lại dùng ngón tay giữa phóng một chỉ vào ngực chàng. Lý Long nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Cứ như thế, Tịnh-Huyền phong liên tiếp ba mươi sáu chỉ, rồi ngừng lại mỉm cười.
Lý Long cung cung, kính kính qùi gối trước sư thái lạy liền tám lạy:
- Thần nhi kính cẩn ra mắt cô-mẫu. Xin cô mẫu rộng dung, vì thần nhi cách xa cô mẫu từ hồi còn thơ, trí nhớ không được làm bao.
Hòa thượng Huệ-Sinh, đạo trưởng Nùng-Sơn, Lý Mỹ-Linh, Tạ Sơn đồng qùi xuống rập đầu trước sư thái Tịnh-Huyền. Sư thái phất tay, không cho hòa thượng Huệ-Sinh cùng đạo trưởng Nùng-Sơn hành lễ. Bà nói:
- Xin đại sư, cùng đạo trưởng miễn cho những lễ nghi của thế tục.
Bà kéo Lý Mỹ-Linh ngồi xuống bên cạnh:
- Công chúa giả trai vụng về quá. Tiếng nói trong trẻo, êm đềm, khuôn mặt sáng như trăng, mà giả trai thì không qua mắt được chúng nhân đâu. Dường như năm nay công chúa 16-17 tuổi rồi thì phải.
Lý Mỹ-Linh kính cẩn đáp:
- Bạch thái cô mẫu, vâng. Năm nay thần nhi đúng mười sáu tuổi. Thì ra ở chốn thanh cao cực lạc thái cô mẫu vẫn không quên việc của triều đình.
Thiện-Lãm hỏi Thanh-Mai:
- Chị Thanh. Cái gì vậy. Em muốn vỡ đầu ra vì ngạc nhiên rồi đây. Sư bà với anh cả đấu võ, rồi mọi người quỳ lạy sư bà, em không hiểu.
Thanh-Mai nói sẽ vào tai nó:
- Sư phụ của chị trước đây là công chúa Hồng-châu, em gái đức hòang đế. Nguyên hồi mới khởi nghiệp, đức hòang đế rất sủng ái sư-phụ. Đi đâu ngài cũng dẫn theo. Sư phụ đã từng theo hoàng đế chính chiến bao phen. Hoàng đế cùng sư phụ chế ra một thứ chỉ pháp đặc biệt, gọi là Đại từ, đại bi chỉ. Vì chỉ đánh trúng ai, không làm cho người ấy đau khổ, ngược lại làm cho khoẻ mạnh khoan khóai. Chỉ này được truyền tụng trong hoàng cung. Vì sư phụ là cô ruột anh cả, mà anh cả không biết mặt, nên không tin. Sư phụ dùng chỉ pháp để chứng minh thân phận.
Thiện-Lãm hỏi:
- Anh Mỹ-Linh là con gái hay sao mà sư bà lại gọi là công chúa? Còn anh cả là vương-gia à? Vương gia, công chúa là con đức vua phải không? Con vua thì phải ở trong cung, có kẻ hầu người hạ. Hà cớ gì lại đi ngủ trong rừng với chúng mình? Bọn mình đã kết anh em với vương gia, công chúa. Vậy mình cũng thành em vua, con vua cả sao?
Thanh-Mai gật đầu:
- Ừ! Em không thấy sao. Lúc mới gặp chị đã nhận ra Mỹ-Linh là gái giả trai. Này nhé tiếng nói trong, cử chỉ mềm mại. Đi đứng uyển chuyển. Nếu trên đời này con trai đều đẹp như Mỹ-Linh cả thì ra chúng ta đang ở cõi tiên sao?
Sư thái vẫy tay ra hiệu cho Tôn Đản im lặng. Bà ngơ ngẩn nhìn trời.
Thiện-Lãm hỏi:
- Chắc bà sắp giảng kinh Kim-cương cho bọn con nghe. Có phải đọc kinh Bát-nhã trước không?
Hỏi dứt câu, nó tự biết không phải. Vì sư thái đã nói cho nó nghe rằng mỗi khi thuyết pháp, phải đốt hương lên. Mùi hương thơm, thanh tĩnh, khiến cho người nghe dễ thư hái. Nay không thấy sư thái truyền đốt hương, thì đâu có đọc kinh.
Sư thái ngẫm nghĩ một lúc, bà bảo Thanh-Mai:
- Con nhập đề trước đi.
Thanh-Mai chắp tay vái sư phụ môt vái
rồi nói:
- Thưa các vị, sư phụ của tiểu nữ nguyên là công chúa Hồng-Châu em của đức Đại-Việt hoàng đế. Từ nhỏ sớm ngộ đạo đức Thế-tôn. Người muốn bỏ hết phú quí gỉa tạo, đi tu, pháp đanh Tịnh-Huyền.
Tôn Đản, Thiện-Lãm, Thuận-Tông ngạc nhiên đến ngẩn người ra:
- Trời ơi. Bà cũng là công chúa sao? Không, bà là bà. Bà từ bi, bà là Bồ-tát. Bà không phải công chúa.
Thanh-Mai tiếp:
- Song hoàng thượng không cho lão nhân gia đi tu. Lão nhân gia đành lập đàn thờ Phật trong cung, ăn chay, tu đạo. Một lần theo thái hậu hành hương chùa Lục-tổ. Lão nhân gia được diện kiến thái sư phụ.
Lý Mỹ-Linh hỏi:
- Thái sư phụ là???
- Thượng Duyên, hạ Tịnh .
Lý Long, Huệ-Sinh, Nùng-Sơn đều bật lên tiếng Úi chà. Nguyên Duyên-Tịnh sư thái là một đại ni sư đắc đạo rất sớm. Thế gian tương truyền ngài thành Phật. Ngài bay đi khắp nơi cứu độ chúng sinh. Năm ba mươi tuổi được truyền chức chưởng môn phái Mê-Linh. Uy tín ngang với Quốc-sư Vạn-Hạnh. Mỗi khi anh hùng võ lâm Đại-Việt hội họp, thường cử ngài chủ tọa. Ngài nói gì, không ai mà không nghe.
Thanh-Mai mặc cho mọi người kinh ngạc. Nàng tiếp:
- Thái sư phụ không nói gì, chỉ đưa tay vỗ vào sau lưng sư phụ ba cái. Sư phụ biết thái sư phụ muốn dặn đêm nay canh ba, ta sẽ gặp con ở sau vườn. Đêm sư phụ ra sau vườn gặp thái sư phụ. Thái sư phụ nhận làm đệ tử. Từ đấy cứ đêm đêm thái sư phụ vượt tường hoàng thành vào cung giảng kinh, truyền thụ võ công cho sư phụ. Cho đến năm sư phụ mười tám tuổi. Hoàng-thượng bấy giờ là Tả-thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, cương quyết gả chồng. Lão nhân gia vẫn một mực từ chối, tâu rằng âm dương là đạo trời đất. Song nếu chỉ tìm lấy phúc ấm trước mặt, mà luẩn quẩn trong vòng hồi, thì mai sau về già cũng chết, rồi lại đầu thai. Hoàng thượng vẫn không đổi ý. Ngài truyền gả sư phụ cho lạc hầu Thân Thiệu-Anh ở Lạng-Châu. Sư phụ đang lúc gặp việc cùng đường ấy, thì thái sư phụ xuất hiện. Thái sư phụ dặn rằng cứ tuân chỉ vu quy. Trên đường vu qui thái sư phụ khắc có biện pháp đối phó. Đố anh cả biết cái gì sẽ xẩy ra nào?
Lý Long đáp:
- Tuân chỉ vu qui. Đợi ít năm, rồi tạ từ phu quân đi tu cũng được. Phật tổ Như-Lai chẳng tu bán thế ư? Việc này xảy ra hồi anh mới có mấy tuổi, trí nhớ không làm bao. Anh chỉ biết rằng hồi còn nhỏ, cô mẫu thương yêu anh rất mực. Thình lình cô mẫu vu qui. Từ đấy không gặp người nữa. Sau được tin người qui tiên, khắp hoàng cung không ai mà không thương tiếc.
Thanh-Mai lắc đầu:
- Thái sư phụ thương đệ tử vô cùng. Đời nào người chịu cho đệ tử mình lăn vào chốn bụi trần? Người dạy sư phụ dùng kế thế thân. Trong lúc rước dâu từ Thăng-long về Lạng-châu, sư phụ ủy thác cho một cung nữ xinh đẹp giả làm sư phụ, lên kiệu vu quy. Còn sư phụ gỉa làm cung nữ. Khi về đến Lạng- châu, công chúa giả lấy quyền chủ, truyền tỳ nữ đi tu thay mình cầu phúc cho phụ hoàng. Thế là cung nữ trở thành phu nhân của lạc hầu Lạng-châu, còn sư phụ nghiễm nhiên theo thái sư phụ đi tu.
Lý Long gật đầu:
- Bạch thái cô mẫu. Bây giờ con mới hiểu. Trước con nghe nói, thái cô mẫu vu qui được năm năm, thái hậu nhớ cô mẫu qúa, truyền Trung-thành hầu đưa cô mẫu về Thăng-long thăm thái hậu, thì được tin cô mẫu đau nặng không về được. Thì ra Trung-thành hầu không biết cô mẫu ở đâu, đành nói dối. Sau một năm thì đựơc tin cô mẫu qua đời. Thái hậu khóc lóc thảm thiết, sinh bệnh nặng, không lương y nào trị được. Một đêm kia, tiên nữ hiện xuống chữa bệnh cho thái hậu, chỉ nắn bóp mấy huyệt mà khỏi bệnh.
Thanh-Mai gật đầu:
- Tiên nữ đó chính là sư phụ. Người lẻn vào cung thăm thái hậu, kể nể rõ sư tình. Thái hậu thấy sư phụ còn sống, mừng quá, khỏi bệnh ngay.
Tịnh-Huyền hỏi Lý Long:
- Hài nhi! Con với Mỹ-Linh đi ra ngoài thế này, để làm gì vậy? Ta nghe con đang trấn nhậm vùng Trường-yên kia mà?
Trần Tự-Mai à lên một tiếng:
- Anh cả, thì ra anh là Khai-quốc vương, đệ nhị thái tử của hoàng đế. Võ lâm Lĩnh-nam nghe danh đều cúi đầu bái phục. Anh nổi tiếng Lĩnh-nam về võ công, về văn học. Võ lâm ai nghe đến tên cũng phải tấm tắc khen ngợi . Giang hồ truyền tụng rằng những ai chưa gặp Khai-quốc vương thì chưa thể gọi là anh hùng được. Không ngờ bọn em gặp anh cả từ năm trước mà không biết.
Tôn Đản hỏi đạo sĩ Nùng-Sơn tử:
- Thế là thế nào? Đệ tử không hiểu truyện gì cả. Xin đạo trưởng chỉ dạy cho.
Đạo-sĩ Nùng-Sơn tử thở dài:
- Được để ta kể cho cháu nghe. Đương kim thiên tử mồ côi cha từ nhỏ, được thiền sư Lý Khánh-Vân thuộc phái Tiêu-sơn nhận làm con nuôi. Vì vậy ngài mang họ Lý. Thủa nhỏ đã có dấu hiệu sau này lên ngôi vua.
Tự-Mai gật đầu:
- Cháu biết truyện này rồi. Luật ở chùa Tiêu-sơn là cứ sau giờ Tuất, thì mọi người phải đi ngủ. Một đêm ngài nô đùa với các sư huynh, sư đệ không chịu đi ngủ, sư phụ là thiền-sư Vạn-Hạnh đi qua. Ngài vội giả vờ nằm ngủ, song không kịp duỗi chân ra. Thiền sư bắt tội, bảo nếu làm được bài thơ tự biện hộ, sẽ tha tội. Ngài ứng khẩu rằng:
Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên,
Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên.
Dạ thâm bất cảm trường thân túc,
Chỉ khủng sơn hà, xã tắc điên.
Dịch: Trời làm chăn gối, đất làm chăn,
Trời đất nhìn ta ngủ dưới song,
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi.
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng. Thiền sư thấy lời thơ rõ ra khẩu khí bậc đế vương. Từ đấy dốc tâm truyền thụ võ công. Trong triều Lê, ngài làm tới chức Tả Thân-vệ điện tiền chỉ huy sứ. Tương đương với ngày nay là Phụ-quốc thái-úy ; lại được vua Lê gả công chúa cho. Khi vua Lê Ngọa-Triều chết, ngài được triều thần tôn làm vua, lập ra triều Lý. Chính ngài cho dời đô ra thành Đại-la. Trong khi thuyền sắp tới nơi, thấy một con rồng vàng bay lên. Vì vậy thành Đại-la đổi thành Thăng-long.
Nùng-Sơn tử tiếp:
- Đức hoàng đế lên ngôi, lo tổ chức chính sự, khuyến khích văn học, khiến Đại-Việt trở thanh giầu mạnh. Ngài có năm thái tử. Lớn nhất húy Phật-Mã, được phong tước Khai-thiên vương. Thứ nhì là chủ nhân tôi tước phong Khai-quốc vương tổng trấn Trường-yên. Thứ ba Đông-chinh vương trấn thủ Phong-châu. Thứ tư Vũ-đức vương trấn thủ Đằng-châu. Còn một mới có mấy tháng, chưa có chức tước gì. Cả bốn vị học văn, học võ đều xuất chúng. Các vương hằng ngày bàn luận, định làm công việc của vua An-Dương, vua Trưng, đòi lại cố thổ. Ngoài ra ngài còn phong cho anh làm Vũ-uy vương, em làm Dực-thánh vương, tài trí cũng không tầm thường.
Tôn Đản suýt xoa:
- Tuyệt. Sáu vị vương mà hợp sức, thì chắc chắn thành công. Đức hoàng-đế có mười công chúa. Cho đến nay ngài đã gả chồng hết rồi. Chị Mỹ-Linh năm nay mười sáu tuổi phải không? Chị là con thứ mấy của đức vua?
Mỹ-Linh mỉm cười:
- Chị không phải là con của đức kim thượng. Chị là con gái thứ nhì của Khai-thiên vương. Đúng ra cứ tuổi mười lăm là gả chồng. Song chị ỷ được thúc phụ thương yêu, lần lữa xin phụ vương khoan cho mấy năm.
Tạ Sơn mỉm cười:
- Đức kim thượng có mười ba công chúa, đều gả chồng sớm. Công chúa Bình-dương đây là con trưởng Khai-thiên vương, nhưng vương mẫu qua đời sớm, công chúa không hợp với kế mẫu. Cách đây mấy năm Khai-thiên vương định gả công chúa cho con trai út của Đô-nguyên soái Đàm Can. Tên là Đàm An-Hoà. Nhưng công chúa không muốn lấy cậu công tử vô tài bất đức này. Khai-thiên vương nổi giận, vì vậy Khai-quốc vương mới nhận làm con nuôi, đem về Trường-yên nuôi dạy.
Thanh-Mai cười:
- Mỹ-Linh này, em chưa biết mặt Đàm An-Hòa. Y cũng chưa biết mặt em. Em thử gặp y một lần. Biết đâu y chẳng đẹp trai?
- Đẹp mà làm gì? Thanh niên cần có đạo đức, tài năng. Chứ cái vỏ đẹp, không làm lên cái gì hết. Thôi anh hai, nói tiếp về Đàm Can cho Thanh-Mai nghe đi.
Tạ Sơn tiếp:
- Còn Đàm Can ư? Vào hồi nhà Lê ông ta giữ chức Hữu-thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, chỉ thấp hơn hoàng đế bản triều một bậc tương đương với hiện nay là Thống-lĩnh Thiên-tử binh. Vì vậy khi các quan họp nhau tôn hoàng thượng lên làm vua, ông ta đóng vai chủ yếu. Võ công ông ta cao không biết đâu mà lường. Khi hoàng thượng lên làm vua, phong cho ông chức võ quan cao nhất là Đô Nguyên-soái, lĩnh chức Thái-úy phụ quốc, kiêm quản Khu-mật viện. Con gái là Đàm Thụy-Châu được tiến cung, phong Tây-cung quý phi. Năm trước đây Tây-cung quý phi sinh hoàng nam. Em trai quý phi là Đàm Toái-Trạng nhờ đó tuy không tài cán gì cũng được phong Tuyên-vũ sứ Thanh-hoá. Nội ngày mai, y sẽ xuất hiện đón công chúa.
Thanh-Mai cau mày:
- Anh hai này! Bố em nói rằng căn cước Đàm Can không rõ ràng! Dường như y là trưởng lão Hồng-thiết giáo thì phải?
Tạ Sơn gật đầu:
- Đúng thế. Nhưng y là khai quốc công thần, vì vậy hoàng thượng phải tri ân y. Gần đây hoàng thượng phong cho y chức cực cao, trao chức Phụ-quốc thái úy quản Khu-mật viện cho vương gia đây.
Tự-Mai hỏi Mỹ-Linh:
- Chị tư này, như vậy con trai Đàm Can đâu có hèn hạ, mà chị không chịu?
Mỹ-Linh dơ tay khẽ đánh vào vai Tự-Mai:
- Có hai điều chị không thuận, một là vương mẫu qua đời chưa đoạn tang. Hai là cái chết của vương mẫu có liên hệ tới anh em họ Đàm. Thôi để Nùng-Đạo trưởng tiếp.
Nùng-Sơn tử tiếp:
- Nhưng than ôi, trời không chiều Đại-Việt. Niên hiệu Thuận-thiên thứ ba (1012) hoàng đế cho lập cung Long-đức ngoài thành để thái tử Phật-Mã ở, hầu có dịp tiếp xúc với dân, sau này biết những gì lợi cho dân mà làm. Trong bốn vị thái tử, thì chủ nhân của tôi là người nhã lượng, cao trí, luôn luôn khuất thân cầu hiền tài. Vì vậy trong triều có nhiều người ghen tỵ. Họ tìm cách chia rẽ chủ nhân của tôi với Khai-thiên vương.
Sư thái Tịnh-Huyền trầm ngâm một lúc, hỏi Lý Long:
- Chí khí của các con lớn lắm. Khởi đầu do ai khởi xướng? Phụ hoàng con có biết hay không?
Lý Long buồn rầu:
- Lúc đầu do con khởi xướng, âm thầm khuất thân cầu hiền tài, trọng đãi bậc trung-lương, khuyến khích các thiếu-niên học tập. Sau thế lực trở thành lớn quá, phụ-hoàng cho triệu hồi về kinh hỏi tự sự.
Tịnh-Huyền lắc đầu:
- Như vậy là hỏng rồi. Tài, chí con có. Song con thiếu khôn khéo. Phàm tôi mà uy tín hơn vua thì có hai việc xẩy ra: Tôi lật vua, hoặc vua giết tôi. Mới đây Lê Hoàn lên ngôi vua, phong vương cho mười một con đẻ, một con nuôi, mỗi người trấn nhậm một nơi. Khi Lê Hoàn chết, các con là Ngân-Tích, Long-Kính đem binh đánh thái-tử Long-Việt. Cả hai bị Long-Việt giết. Long-Việt lên ngôi vua, nhưng chỉ ba ngày bị Long-Đĩnh giết chết. Cuộc nội lọan diễn ra trong tám tháng liền. Vì vậy phụ hoàng thấy con chiêu mộ anh hùng, sỉ dân, đương nhiên người phải nghi ngờ. Anh con cũng nghi ngờ là lẽ đương nhiên.
Lý Long tiếp:
- Con đang chuẩn bị hồi kinh, thì thình lình phụ hoàng cùng Phật-Mã đang đêm dẫn đạo Ngự-long tới Trường-yên.
Thanh-Mai gật đầu:
- Như vậy là phụ-hoàng cùng Khai-thiên vương không phải nghi anh, mà tin đích thực anh làm phản. Nên đương đêm mới đem quân tập kích. Nhưng em chắc không thành công.
Mỹ-Linh hỏi:
- Sao chị biết?
- Chị đoán ra mà thôi. Này nhé, anh hùng thiên hạ đương thời tập trung về Trường-yên có đến chín phần mười. Họ tập trung về không phải vì ham miếng cơm manh áo như khi xưa hào kiệt theo Mạnh Thường Quân. Họ tập trung về như anh hùng thời Lĩnh-nam tụ về Mê-linh, mưu truyện vá trời. Tất nhiên họ giúp anh cả tổ chức võ bị cực kỳ chu đáo. Dù hoàng-thượng, dù Khai-thiên vương, đương đêm đem quân đến, họ phải ngăn cản, rồi mới thỉnh mệnh anh cả.
Nùng-Sơn tử nói với vẻ kiêu ngạo:
- Đúng thế. Khi đạo quân Ngự-long tiến đến địa phận Trường-yên, tướng tuần phòng là Ngô An-Ngữ, giữ chức Sùng-ban lang tướng cản lại. Đúng qui luật hành quân bản triều thì tướng chỉ huy đạo quân Ngự-long phải cho quân ngừng tiến, tiếp xúc với Ngô An-Ngữ. Không ngờ y cho lệnh giao chiến liền. Quân của Trường-yên là quân kiêu dũng, tuy chỉ có năm trăm người, mà đánh lui đạo Ngự-long. Hay ở chỗ không làm đổ một giọt máu nào. Tướng chỉ huy đạo Ngự-long bị Ngô An-Ngữ bắt sống.
Tịnh-Huyền gật đầu:
- An-Ngữ giỏi. Trước đây, khi chưa đi tu, bần ni đã theo huynh trưởng chinh chiến bao phen. Phàm khi đem quân qua địa phận trấn nhậm của đạo quân khác, người chỉ huy hành quân phải cho ngựa lưu-tinh báo trước để tranh ngộ nhận. Lỡ hai đạo quân tao ngộ bất thường, hai tướng phải cho quân lui mười lằn tên rồi gặp nhau. Như vậy tướng chỉ huy đạo Ngự-long có lỗi. Theo luật bản triều, phải tội chém đầu. Y là ai?
Mỹ-Linh đáp:
- Y tên Mai Hựu. Con y hiện là thứ thiếp của phụ vương. Võ công y khá cao. Y xuất thân phái Hoa-lư.
Thanh-Mai rất quan tâm đến truyện này, nàng hỏi Nùng-Sơn tử:
- Rồi sao?
- Ngô An-Ngữ bắt sống Mai Hựu rồi hô quân hai bên ngừng chiến. Giữa lúc đó hoàng thượng phi ngựa tới. Người nhìn quân phong, quân thế của Trường-yên, đã hiểu nội vụ. Ngô An-Ngữ hô lớn : « Kẻ mặc giáp trụ không thể hành đại lễ. Kính mong hoàng thượng đại xá. Không biết đêm khuya thế này hoàng thượng ngự giá tới đây có việc gì? ». Hoàng-thượng hỏi: « Khai-quốc vương đâu? » Ngô An-Ngữ tâu : « Chúa công hạ thần hiện ở trong thành, vì không biết hoàng thượng giá lâm nên không ra đón ». Hoàng thượng định vào thành. Ngô An-Ngữ cản lại nói: « Luật của hoàng thượng định rằng dẫu là hoàng đế, là thái-hậu, khi qua vùng trấn nhậm của một tướng cũng phải chờ lệnh mới được cho vào. Chúa công hạ thần trị quân rất nghiêm. Hạ thần xin vào trình trước ». Sau đó Ngô An-Ngữ cho ngựa vào thành báo. Chủ nhân tại hạ mặc giáp trụ phát pháo, mở cửa thành đón hoàng thượng. Vào trong thành, hoàng thượng thở dài than : « Ta trọn đời ngồi trên mình ngựa mà không bằng con. Con tổ chức giáp binh như vậy, thì e rằng đến Bắc-bình vương Đào Kỳ, công chúa Thánh-Thiên thời Lĩnh-nam cũng không hơn. Người ta đồn con làm phản, sắp kéo quân về Thăng-long giết Phật-Mã cùng ta. Ta bất thần tổ chức kiềm chế con trước. Không ngờ đạo Ngự-long là đạo thiện chiến nhất của ta, mà không bằng một lữ của con ». Ngài tiếp : « Bây giờ ta mới biết con bị dèm pha. Nếu con định làm phản, thì ngay khi ta nhập thành, con có thể bắt ta rồi » .Thế rồi cha con, anh em hòa thuận.
Mỹ-Linh tiếp:
- Khi ông nội thấy trong đám hào kiệt Trường-yên có cả đạo trưởng Nùng-Sơn tử với sư phụ. Người kinh ngạc vô cùng. Vì trước đây người đã dùng đại lễ mời sư phụ với đạo-trưởng hạ sơn giúp triều đình, mà cả hai đều không nhận lời. Bây giờ cả hai đều ở Trường-yên. Sư phụ tâu rằng : « Bệ hạ dùng chiếu chỉ tuyên triệu bần tăng, giao cho chức tể-tướng thì bần tăng không giám. Còn vương gia đây mời bần tăng xuống giúp cho công cuộc đòi lại đất tổ thời Lĩnh-Nam, bần tăng vì cái chí của vương gia mà tới ».
Tịnh-Huyền vuốt tóc Lý Long:
- Hài nhi, ta biết anh ta cực kỳ linh mẫn. Dù hài nhi làm gì chăng nữa rồi người cũng tìm ra sự thực. Song ta sợ là sợ triều đình mà thôi. Anh con hiền thì có hiền. Phải một tội hay nghe lời tiểu nhân. Ta sợ một mai anh ta qui tiên rồi giữa con với anh con có sự tranh chấp.
Bà ngừng lại tiếp:
- Anh ta được tôn lên làm vua, tạm thời thế cho họ Lê. Anh hùng võ lâm định rằng ngày giỗ Bắc-bình vương năm nay, sẽ xét lại vấn đề này. Ta thấy phe ủng Lê gồm có phái Đông-a, Sài-sơn, Tản-viên. Còn phe ủng Lý có Tiêu-sơn, Tây-vu. Trung lập có Mê-linh. Lực lượng chống đối mạnh nhất là phái Đông-a. Anh ta thường nói: trong các con và em, ai có thể hoá giải được mũi dùi Đông-a, Tản-viên thì sẽ nhường ngôi cho. Phái Tản-viên đã có Nùng-Sơn tử giúp con. Phái Đông-a thì ta có thể thuyết phục Trần đại hiệp được. Ta chỉ sợ khi con được anh hùng ủng hộ, thì bị Phật-Mã chống đối, rồi chém giết nhau.
Lý Long chắp tay:
- Bạch cô mẫu, con nghĩ điều này khó xảy ra. Con muốn làm một Khất đại-phu thời Lĩnh-nam. Khi đại nghiệp thành rồi, ngao du sơn thủy, thì làm sao có sự tranh chấp được?
Thanh-Mai hỏi:
- Anh cả, sau khi biết mình lầm rồi, thì hoàng thượng có ban chỉ dụ gì cho anh không?
- Người truyền đem Mai Hựu ra xử tử vì phạm quân luật, và trọng thưởng cho Ngô An-Ngữ. Anh phải hết sức can gián, y mới được tha. Người truyền cho anh tổng trấn từ Trường-yên vào đến biên giới Chiêm-thành. Nội trong một tháng phải về kinh giữ chức Phụ-quốc thái-úy, tổng đốc quân mã. Trước khi về kinh. Anh về lĩnh trọng trách được hơn năm rồi.
Tịnh-Huyền hỏi:
- Phụ hoàng và các cháu lập chí đòi lại cố thổ, triều thần có những ai biết?
- Bọn hài nhi lập chí, rồi tâu với phụ hoàng. Triều thần rất ít người biết. Tuy nhiên nếu họ biết, thì mười người đến chín người không đồng ý.
Tự-Mai gật đầu:
- Lẽ đương nhiên như vậy. Nếu họ là võ quan cấp nhỏ, họ sẽ tán thành. Còn họ là quan văn, hoặc quan võ cấp lớn. Họ sẽ ngăn cản. Không chừng họ còn hại anh cả là khác nữa.
Nùng-Sơn tử ngạc nhiên:
- Này cháu bé. Năm nay dường như cháu mới mười bốn mười lăm tuổi thì phải. Nghe cháu kể truyện lịch sử, rất uyên bác, thì ta tin rằng cháu được phụ huynh giáo huấn đặc biệt mà có. Còn như cháu ứng khẩu kiến giải sự việc... ta có cảm tưởng cháu đã nghe ai nói, rồi nhắc lại chăng?
Tự-Mai kính cẩn:
- Thưa đạo trưởng, cháu là đệ tử phái Đông-a. Chắc đạo trưởng đã nghe võ đạo phái Đông-a trọng nhất tình huynh đệ, tình bằng hữu. Cháu đã kết anh em với anh cả. Không đời nào cháu dấu anh cả cháu điều gì... Về vụ anh cả lập chí, dường như chỉ có sư phụ, có đạo trưởng và có chị Mỹ-Linh biết. Hôm nay thêm chúng cháu. Thế thì người ngoài làm sao biết mà bàn luận, để rồi cháu nghe lỏm, nhắc lại?
Nùng-Sơn tử thở phào một cái. Ông hỏi:
- Sự việc đúng như cháu nói. Tại sao cháu biết rõ như người trong cuộc vậy?
Tự-Mai thở dài:
- Cứ lý mà suy. Kể từ khi hoàng-thượng lập ra triều Lý đến gìơ. Trong tổ chức nội trị, ngòai trấn man di. Giặc cướp tuy có, nhưng không phải dùng đến đại binh. Việc giáp binh tuy có. Song chỉ để giữ nhà, cùng đuổi trộm bắt cướp. Các tướng soái sở dĩ lên địa vị cao, nhờ khéo được lòng trên, hoặc thuộc hoàng thân quốc thích. Chứ những tướng thực sự do chiến công mà lên thì không có. Bây gìơ nếu xẩy ra chiến tranh. Họ lo sợ ,vì không đủ tài. Họ còn sợ những tướng cấp nhỏ lập công, rồi vượt họ. Cho nên họ chống.
Tự-Mai nói đến đâu, Lý Long gật đầu đến đó. Tự-Mai tiếp:
- Còn quan văn. Họ chống thì đương nhiên rồi. Họ nhờ khoa cử, rồi do ngọn bút, leo lên địa vị lớn. Bây giờ vạn nhất xẩy ra chiến tranh. Quyền sẽ vào tay quan võ. Họ phải chống chiến tranh, tức chống cái chí của anh cả. Họ chống đối để tự tồn, chứ không phải họ muốn hại anh.
Sư thái Tịnh-Huyền hỏi:
- Hiện ai là tể tướng? Ý của tể tướng thế nào?
Lý Long đáp:
- Thưa, Lý Đạo-Nghĩa. Thần nhi chưa dò ý tể tướng. Nghĩa tuổi đã lớn, do văn xuất thân. Tính cần cù mẫn cán. Chỉ có thể giữ vững được những gì đã có. Chứ chí lớn thì không. Vả lại phụ hoàng còn trẻ, mọi quyết định do phụ hoàng cả.
Sư thái Tịnh-Huyền gật đầu:
- Ngày hai mươi mốt này, các gia, các phái võ sẽ tề tựu ở núi Sơn-trang, tế lăng Lệ-hải Bà-vương. Bần ni không xuất hiện đâu. Hài nhi cứ tự tiện. Phải cẩn thận lắm mới được. Bọn Tống ắt sẽ trà trộn vào dò la. Tốt hơn hết hài nhi làm ra vẻ nhã lượng cao trí, thu dụng nhân tâm. Chớ có lộ cái chí của mình ra mà mang họa.
Đến đó bà nhắm mắt nhập thiền. Lý Long vẫy mọi người lùi dần đến phía bờ sông. Tự-Mai hỏi:
__ Này anh cả. Chí của anh thì lớn thực. Song em không hiểu anh cả đã làm được những gì. Ở đây toàn người tâm phúc của anh. Anh có thể cho biết được không?
Lý Long đáp:
- Trước kia học sử Đại Việt, anh chỉ biết ấm ức trong lòng. Sau này gặp sư phụ. Anh ngỏ ý ấy với người. Chính người khuyến khích anh biến từ tư tưởng thành hành động. Rồi anh được gặp đạo trưởng đây. Phụ hoàng vừa mừng, vừa ngạc nhiên không ít. Anh có ý định đến Thiên-trường yết kiến chưởng môn phái Đông-a là phụ thân hiền đệ. Nhưng phải đợi sau khi tế Lệ-hải Bà-vương đã. Nhưng phái Đông-a vốn chống triều đình, dễ gì thân phụ hiền đệ tiếp anh.
Tự-Mai chỉ chị:
- Tiếp Khai-quốc vương thì không chắc người tiếp. Còn tiếp cái chí của anh thì người cầu mà không được. Cái chìa khóa là chị Thanh. Trong Thiên-trường ngũ kiệt, thì chú Trần Kiệt là cái túi khôn, chú nói gì bố em cũng nghe. Mà chú là sư phụ của chị Thanh. Chú yêu chị Thanh lắm. Bọn em được đi thế này là nhờ chú xin cho đấy.
Huệ-Sinh hỏi Thanh-Mai:
- Cô nương với Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An là chỗ thế nào?
- Bạch thầy người là thân phụ của con.
Huệ-Sinh gật đầu:
- Khi mới gặp cô nương. Bần tăng thấy dáng dấp hơi quen. Thì ra cô nương là con của người bạn cố tri năm xưa. Thế nào nghĩa đệ của ta vẫn khỏe chứ?
- Đa tạ sư bá, thân phụ cháu vẫn mạnh, người nhắc đến sư bá luôn. Thì ra sư bá là bạn của bố cháu đấy.
Nàng chắp tay lại hành lễ.
Nàng nói với Lý Long:
- Anh cả ạ. Phái Tiêu-sơn thì đã có thầy ở đây lo cho rồi. Phái Mê- linh, thì sư phụ em nói một tiếng thì xong. Phái Tản-viên, đã có Nùng đạo trưởng. Phái Đông-a, em tin rằng bố em sẽ giúp anh. Chỉ còn phái Sài-sơn với phái Tây-vu nữa là xong. Khi sáu đại môn phái cùng hết sức giúp anh thì lo gì đại sự không thành?
Huệ-Sinh mỉm cười:
- Không giản dị như cháu tưởng đâu. Đại-Việt ngũ long mà còn chưa ngồi lại với nhau được, thì nói chi đến võ-lâm.
Tôn Đản ngơ ngác:
- Đại-việt ngũ long là gì vậy, thưa đạo trưởng?
- Họ là năm đại tôn sư võ học, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Đó là Hồng-sơn lão nhân Lê Huy chưởng môn phái Sài-sơn.
Tôn Đản ngắt lời:
- Dường như ông còn có hiệu là Nam-thiên thánh-y thì phải. Cháu nghe năm trước đây vua Tống Thái-tông sai sứ sang mời ông chữa bệnh cho một phi tần mà vua rất sủng ái. Không những ông không chịu đi, mà còn muốn giết sứ giả. Ông chữa bệnh với ba điều kiện, một là không chữa cho người họ Lý. Hai là không chữa cho người Hán. Ba là chỉ chữa những bệnh mà trên thế gian này không ai chữa được.
Lý Long gật đầu:
- Đúng thế. Đó là một khó khăn, ông ta thù hận với họ Lý nhà anh, thì làm sao ông chịu hợp tác với chúng ta trong việc trọng đại này? Ông lập ra Vạn-thảo sơn-trang, thu dụng hơn ba nghìn đệ tử, gửi đệ tử đi khắp nơi cứu dân độ thế. Vì vậy ơn nghĩa trải khắp Việt, Hoa.
Nùng-Sơn tử tiếp:
- Người thứ nhì là Tây-sơn đại hiệp Đặng Đại-Khê. Ông giỏi võ đã đành, ông còn tinh thông tướng số, phong thủy. Ông làm chưởng môn phái Tản-viên người nhiều thế mạnh. Ông không phục bản triều vì lý do đức hòang đế xuất thân từ cửa Thiền, mà ông thì ông không có đạo nào cả. Ông chủ trương một tôn giáo thờ anh hùng đất Việt mà thôi.
Nùng-Sơn tử nhìn Thanh-Mai:
- Trong năm người, thì người thứ ba quan trọng nhất. Võ công cao là điều đương nhiên. Ông là người bác-học, đa-năng, thiên-văn, địa-lý, binh-pháp, không môn nào mà không thông. Đệ tử của ông rất nhiều, tòan những tay quái kiệt đương thời. Tiếng tăm vang dậy, đến vua Tống còn phải ra lệnh cho Khu-mật-viện bằng mọi giá phải chiêu mộ cho được. Vua Tống gửi sứ giả sang mời ông giữ chức Phiêu-kỵ đại tướng quân là chức võ quan cao nhất, giao cho ông lĩnh ấn Chinh-tây đại nguyên súy đánh Tây-hạ. Ông từ chối. Đức hòang đế bản triều sai sứ giả mời ra giữ chức Thái-úy phụ quốc, quản Khu mật viện ông cũng từ chối. Người đó là Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An.
Thanh-Mai thở dài:
- Bố cháu thề không cộng tác với triều đình, chứ không thù hận nhà Lý.
Nùng-Sơn tử:
- Ta cho rằng bố cháu cao ngạo thì đúng hơn. Ra làm quan để làm gì? Để có vàng bạc ư? Bố cháu giầu có ức vạn đâu cần đến. Để có danh ư? Danh bố cháu lẫy lừng hơn cả hoàng đế. Cũng như ta với đại-sư Huệ-Sinh vậy. Triều đình mời ra thì chối. Song vương gia đây đem cái chí, kéo cao ngọn cờ Lĩnh-nam thì chúng ta ra.
Tôn Đản cười:
- Cháu nghĩ mời Côi-sơn đại hiệp không khó!
Lý Long ngạc nhiên:
- Em cho biết lý do!
- Chỉ cần anh cả lấy lễ đến cầu người ra giúp cho cái chí của anh, em nghĩ người ra liền.
Tự-Mai vỗ vai Tôn Đản:
- Giỏi. Anh Đản giỏi. Anh hiểu được bố em.
Tôn Đản cười:
- Cứ lý mà suy, đâu có gì khó hiểu đâu? Người đời thường vẽ rắn thêm chân, tìm cái xương trong quả trứng gà, rồi cho rằng đại hiệp Tự-An khó. Anh thấy ông dễ là khác. Ông không dễ, đời nào cho con trai, con gái đi ra ngoài loạn lên thế này. Dù đi với bản sư.
Nó hỏi Nùng-Sơn tử:
- Thưa đạo trưởng còn hai người nữa?
- Hai người này, trái lại, nhất tâm nhất trí với triều đình. Một người là chưởng môn phái Tiêu-sơn, là sư huynh của đức hòang đế, tức Minh-Không quốc sư.