Ở độ cao năm nghìn mét trên bầu trời, Robert Langdon cảm thấy thế giới vật chất như mờ dần khi tất cả suy nghĩ của Ông đều tập trung vào bài thơ chiếu-gương của Saunière, hiện sáng qua nắp hộp.
Sophie nhanh chóng tìm thấy một tờ giấy và chép lại bằng chữ viết thường. Khi cô chép xong, ba người lần lượt đọc đoạn văn: Nó giống như một thứ ô chữ khảo cổ…Một câu đố hứa hẹn tiết lộ cách mở hộp mật mã. Langdon chậm rãi đọc đoạn thơ.
Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này… Và giúp ta giữ vẹn toàn dòng họ của nàng. Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa… Và Atbash sẽ tiết lộ sự thật cho người.
Trước khi Langdon kịp ngẫm nghĩ xem mật khẩu cổ xưa mà đoạn thơ cố gắng tiết lộ là gì, ông đã cảm thấy một cái gì đó còn cơ bản hơn vang vọng trong lòng mình - thể thơ ngũ bộ mười âm theo nhịp iabic(1).
Langdon đã thường xuyên gặp thể thơ này qua những năm tháng nghiên cứu về các hội kín ở khắp Châu Âu, kể cả năm ngoái, khi tiếp cận kho Lưu trữ tư liệu bí mật của Vatican. Suốt hàng thế kỷ nay, thể thơ ngũ bộ mười âm tiết theo nhịp iambic đã trở thành thể thơ ưa thích của các văn nhân bộc trực ở khắp hành tinh, từ nhà văn thời cổ Hy Lạp Archilochus tới Shakespeare, Milton, Chaucer và Voltaire - những tâm hồn quả cảm, những người chọn viết những bình luận xã hội của mình bằng một thể thơ mà nhiều người cùng thời tin là có những thuộc tính huyền bí.Thể thơ ngũ bộ theo nhịp iambic có nguồn gốc thế tục sâu xa.
Thể thơ ngũ bộ theo nhịp iambic. Hai âm tiết với sự nhấn âm ngược nhau. Nhấn và không nhấn. Dương và âm. Một cặp cân bằng được sắp xếp thành những dãy năm. Số năm cho hình sao năm cánh của Venus và tính nữ thiêng liêng.
"Đó là thể thơ ngũ bộ?". Teabing thốt lên, quay sang Langdon. "Và thơ bằng tiếng Anh! La lingua purat"(2).
Langdon gật đầu. Tu viện Sion, giống như nhiều hội kín khác ở châu Âu chống đối Giáo hội, đã xem tiếng Anh là ngôn ngữ châu Âu tinh khiết duy nhất trong nhiều thế kỷ. Không giống như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý có nguồn gốc Latinh - tiếng mẹ đẻ của Giáo hội - tiếng Anh bị loại bỏ khỏi bộ máy tuyên truyền của Roma, và do đó đã trở nên một thứ tiếng bí mật, thiêng liêng đối với các hội kín có đủ học vấn để học nó.
"Bài thơ này", Teabing bật ra, "đề cập tới không chỉ Chén Thánh mà cả các Hiệp sĩ Templar và gia đình bị ly tán của Mary Magdelene? Chúng ta còn có thể đòi hỏi gì hơn?".
"Mật khẩu", Sophie nói, nhìn lại bài thơ, "nghe có vẻ như chúng ta cần một loại từ cổ thông thái nào đó".
Một từ gồm có năm chữ cái, Langdon nghĩ, cân nhắc số lượng khổng lồ những từ cổ có thể được coi là từ thông thái - chọn lọc từ các tụng ca huyền bí, những lời tiên tri chiêm tinh, những lời sấm của các hội kín, những câu thần chú Wicca, những câu thần chú ma thuật của người Ai Cập, những câu thần chú của người ngoại đạo - danh sách đó là vô tận.
"Mật khẩu này", Sophie nói, "hình như có liên quan gì đó đến các Hiệp sĩ Templar". Cô đọc to lại câu: "Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa".
"Leigh". Langdon nói, "ngài là chuyên gia về các Hiệp sĩ Templar. Ngài có ý tưởng gì không?".
Teabing im lặng vài giây rồi thở dài: "Phải, một tấm bia hiển nhiên là vật để đánh dấu mộ. Có thể bài thơ đề cập đến một phiến đá mà các Hiệp sĩ Templar ca ngợi ở ngôi mộ của Magdalene, nhưng điều này cũng chẳng giúp gì nhiều cho chúng ta bởi vì chúng ta chẳng biết mộ của bà ấy ở đâu".
"Câu cuối", Sophie nói, "nói rằng Atbash sẽ hé mở sự thật. Tôi đã nghe thấy từ này. Atbash".
"Tôi chẳng ngạc nhiên", Langdon đáp, "chắc cô đã nghe thấy nó trong cuốn Những ẩn ý khó hiểu 101. Mật mã Atbash là một trong những mật mã cổ xưa nhất mà con người đã từng biết đến".
Tất nhiên rồi! Sophie nghĩ. Hệ thông mã hóa Hebre nổi tiếng.
Mật mã Atbash thực ra là một phần trong khóa huấn luyện mật mã của Sophie. Mật mã này ra đời từ năm 500 trước Công nguyên và đến bây giờ vẫn được dùng như một ví dụ tại lớp về cách cơ bản thay thế luân phiên.Là một dạng thức phổ biến trong tài liệu được mã hoá của người Do Thái, mật mã Atbash là một loại mật mã thay thế đơn giản dựa trên bảng chữ cái Hebrew gồm hai mươi hai kí tự chữ cái. Trong mật mã Atbash, chữ cái đầu tiên được thay thế bằng chữ cái cuối cùng, chữ cái thứ hai được thay thế bằng chữ cái kế tiếp chữ cái cuối cùng và cứ như vậy.
"Mật mã Atbash thật là thích hợp", Teabing nói, "văn bản được mã hóa với hệ thống mật mã Atbash được tìm thấy ở cuộn giấy Kabbala, vùng biển Chết, và thậm chí cả kinh Cựu ước.
Các học giả Do Thái về chúc thư cổ và những nhà mặc khải thần linh vẫn đang tìm kiếm ý nghĩa ẩn giấu trong việc sử dụng mật mã này. Tu viện Sion chắc chắn sẽ coi mật mã Atbash như một phần trong những giáo huấn của họ".
"Vấn đề duy nhất", Langdon nói, "là chúng ta không có bất cứ cái gì để áp dụng mật mã này".
Teabing thở dài: "Chắc chắn phải có một từ mật mã trên tấm bia. Chúng ta phải tìm ra tấm bia được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi".
Qua vẻ nghiêm nghị trên mặt Langdon, Sophie cảm thấy việc tìm tấm bia của các Hiệp sĩ Templar sẽ không phải là một thành tích nhỏ.
Atbash là chìa khóa, Sophie nghĩ. Những chúng ta không có cánh cửa.
Sau ba phút, Teabing thốt ra một tiếng thở dài thất vọng và lắc đầu: "Các bạn của tôi, tôi hoàn toàn bế tắc. Hãy để tôi suy nghĩ thêm về điều này trong lúc tôi kiếm vài thứ ăn vặt và kiểm tra Rémy cùng vị khách của chúng ta". Ông đứng dậy tiến về đằng sau máy bay.
Sophie cảm thấy mệt mỏi khi cô nhìn ông đi.
Bên ngoài cửa sổ máy bay, bóng tối trước bình minh vẫn ngự trị. Sophie cảm thấy như mình lạc trong không gian và không biết sẽ hạ cánh xuống đâu. Vốn từ bé đến lớn đã quen giải những câu đố của ông mình, cô cảm thấy khó chịu khi mà ngay lúc này đây, bài thơ chứa đựng thông tin nằm trước mắt họ mà họ không nhìn ra.
Ở đây còn có cái gì nữa cơ, cô tự nhủ. Tàng ẩn rất tài tình … nhưng dù sao vẫn hiện diện.
Tâm tư cô còn bị một nỗi sợ hãi khác quấy rối: cái mà chung cuộc họ tìm thấy bên trong hộp mật mã có thể không chỉ đơn giản là "bản đồ dẫn tới Chén Thánh". Mặc dầu Teabing và Langdon tin rằng sự thật nằm ngay trong viên đá cẩm thạch hình trụ, nhưng Sophie đã chơi trò săn tìm báu vật của ông mình quá đủ để hiểu rằng Jacques Saunière không bao giờ dễ dàng từ bỏ bí mật của mình.
Chú thích:
(1) Nhịp iambic: tiết tấu hai âm tiết theo kết cấu một âm dài đi theo một âm ngắn hoặc một mạnh đi theo một yếu.