Thanh thanh tử khâm,
Du du ngã tâm. (Kinh Thi)
Nghĩa là:
Tà áo xanh xanh, em luôn nhớ anh. Chiều hôm đó, Huyện-lệnh cho người mời Đào Thế Hùng vào dinh uống rượu. Việc giao tế của hai người đầu não của Đăng-châu diễn ra mỗi tháng vài lần. Trương Thanh giỏi văn, là người Hán lại ở vị thế cao hơn Thế Hùng. Y là người tham nhũng, tàn ác, bị dân chúng coi như cựu thù. Y lại không biết võ, nên phải nhờ vả Thế Hùng che chở cho. Thế Hùng là người hào sảng, văn võ kiêm toàn, điều khiển quân đội trong huyện, trong sạch, thanh khiết, giúp đỡ lương dân, nên được dân chúng nể phục. Ông cũng có yếu điểm là trang ấp của ông dung túng những người mưu phản Hán phục Việt ẩn náu. Hóa cho nên giữa hai người đều có chỗ úy kỵ lẫn nhau. Nhưng từ sau khi xảy ra vụ Tô Phương và Ngũ-phương Thần-kiếm thì Trương Thanh như cá nằm trên thớt, không biết sẽ bị Tô Định truy cứu bất cứ lúc nào.
Hôm trước đây, xảy ra vụ Đào Kỳ đột nhập tư gia Trương Thanh định bắt Tường Quy đi, làm hắn không thể nào hiểu được. Theo ý nghĩ của hắn, nếu Ngũ-phương kiếm ra tay thì mục tiêu là hắn hay Trương Minh Đức, chứ sao lại là Tường Quy? Hắn cũng không hiểu nổi khi thấy thích khách võ công cao cường tới mức Lưu Chương chỉ chịu có một chưởng đã thành người tàn tật, mà thích khách lại bị Tường Quy đánh đến trọng thương.
Phương Dung nói với Đào Thế Hùng:
– Liệu Trương Thanh có dám đánh thuốc độc chú, rồi bất thần đem quân tiêu diệt trang Hiển Minh hay không?
Đào Thế Hùng nói ngay:
– Không! Trước kia, hắn còn dựa vào Lưu Chương. Giờ đây, Lưu Chương bị thương rồi, hắn chỉ còn dựa vào chú mà thôi. Các quan võ khác người Hán đều có xung đột với nhau vì tranh ăn cả. Chú là người duy nhất không xung đột với họ vì quyền lợi, vì chú không tham nhũng.
Phương Dung nghĩ ra một kế:
– Hôm trước cháu cứu anh Đào Kỳ, dùng kiếm thuật làm cho quân Hán kinh hồn táng đởm. Vậy thì đêm nay chú mang Hiển Hiệu, Quý Minh đi theo hầu tiệc. Giữa tiệc, cháu với anh Kỳ đại náo huyện đường. Chú để cho hai em đấu với bọn cháu. Bọn cháu giả thua bỏ chạy. Do vậy, chú đề nghị cho Hiển Hiệu tạm thay Lưu Chương, Quý Minh làm phó Tế-tác. Rồi dần dần chú yêu cầu Huyện lệnh tuyển mộ người Việt vào những chức vụ trong huyện. Chị Lê Chân sẽ đưa đệ tử Sài-sơn gia nhập vào các chức vụ đó. Chỉ ít lâu sau, chú nắm trọn quyền trong huyện, đợi khi khởi nghĩa, Đăng-châu sẽ là đội quân đầu tiên tiến lên Luy-lâu.
Thế Hùng gật đầu:
– Kế sách này trước đây Vĩnh Hoa đã đề ra, nhưng không có chi tiết. Bây giờ cháu đề ra chi tiết đó thì phải rồi. Có điều khi các cháu giao đấu với hai em phải nhớ một điều, những chiêu cháu đánh vào quân Hán thì nhả hết kình lực. Còn những chiêu đánh với các em, phát thì cực mạnh, mà kình lực thì không nhả hết. Các em thì phải bám sát các cháu, để tránh hai cháu bị quân Hán bao vây. Hai em đuổi các cháu đến suối Thạch-bích, thì hai cháu lên ngựa, đi Mê-linh ngay, vì ở lâu, sợ bị lộ. Chú sẽ cho người dẫn ngựa, đem hành lý của các cháu chờ ở đó trước.
Phương Dung gật đầu:
– Trong tiệc, nếu Trương Thanh yêu cầu chú nhận Trương Minh Đức làm đệ tử, chú cứ nhận lời. Theo như nhận xét của cháu, chú có dạy hết mình, y cũng chẳng học được là bao võ công của phái Cửu-chân. Có như thế, Trương Thanh mới không nghi ngờ chú.
Đào Phương Dung kéo tai Đào Kỳ nói, nhưng cố tình để Nguyễn Phương Dung nghe:
– Anh Kỳ thấy không? Khi thì chị Phương Dung gọi bố là lão bá, khi thì gọi là chú. Như thế có nghĩa là lúc chị ấy gọi lão bá thì chị ấy giận anh, chưa coi anh là chồng. Còn khi chị ấy gọi bố là chú thì chị ấy đã tự coi mình là cháu dâu rồi đấy.
Thời gian ở trang Hiển Minh, Phương Dung bị cô em họ của Đào Kỳ trêu chọc mãi, riết rồi thành quen. Cũng từ những vụ trêu chọc đó, nàng tìm ra được một điểm: Anh em họ Đào thương nhau như chân tay.
Đào Thế Hùng dẫn hai con trai, đeo kiếm đến huyện Đăng-châu. Huyện đường canh phòng cực kỳ cẩn mật. Ba cha con vừa tới cổng, binh Hán vội cúi đầu chào. Ba tên lính chạy ra cầm lấy giây cương dắt ngựa đến chuồng ngựa. Trương Thanh được loan báo, ra tận thềm đón ông. Trên mặt y lộ vẻ đăm chiêu, nhưng vẫn giả làm vui:
– Đào huynh, hôm nay chúng ta lại đối ẩm với nhau. Chà! Người lại dẫn cả hai công tử theo nữa à? Quý hóa quá.
Thế Hùng nói với Trương Thanh:
– Hai con tôi đã lớn, bản lĩnh cũng tạm được. Chúng muốn được hầu rượu đại nhân với tôi, hầu học hỏi kinh nghiệm.
Thời bấy giờ, sư phụ hay cha ngồi uống rượu với bạn bè, thường cho học trò hay con cháu đứng hầu bên cạnh. Hầu chỉ là cái cớ, mục đích là để nghe người trên nghị luận, thu thập kinh nghiệm cuộc đời.
Thế Hùng với Trương Thanh ngồi vào bàn rượu. Hiển Hiệu, Quý Minh khoanh tay đứng hầu rượu sau lưng bố. Rượu được vài tuần, Trương Thanh bỗng thở dài thườn thượt:
– Đào huynh sinh được hai người con uy vũ thế này thực là hổ phụ sinh hổ tử. Còn tôi... hổ phụ sinh ra con chó ghẻ. Tôi cưới cho nó một thiếu nữ Việt con nhà danh gia, tài sắc vẹn toàn, nhưng nó thì văn dốt vũ rát, chỉ lêu lổng ăn chơi, rồi gây ra đại họa. May nhờ huynh che dấu cho...
Y ngừng lại, rót rượu cho Đào Thế Hùng:
– Tại huyện mình có một sư đoàn. Sư trưởng chỉ ham rượu chè, bệnh hoạn liên miên. Trong năm lữ thì ba lữ trưởng đã già nua. Tôi muốn hai cháu theo gót cha, đề cử vào giữ chức sư phó và lữ trưởng lữ kỵ. Không biết Đào huynh nghĩ thế nào?
Đào Thế Hùng thầm khen Phương Dung đã tính trước. Ông định đưa con vào chức vụ ngành Tế-tác, không ngờ Trương Thanh lại đề nghị trước. Ông chưa biết trả lời sao, thì Hiểu Hiện nói:
– Đại nhân rộng dung cho như vậy thì quý biết chừng nào, nhưng sợ rằng cử anh em chúng tôi vào những chức vụ đó, phủ Đô úy sẽ không chấp thuận.
Trương Thanh cười:
– Các cháu không hiểu đấy thôi! Luật lệ cứ mỗi năm, các tướng từ lữ trưởng trở lên, đều phải khảo thí một lần tại phủ Đô úy. Ai không đủ khả năng hoặc già nua thì cho về nghỉ. Ta đề nghị cho cháu về thi, với tài năng của các cháu, sợ gì không được?
Thế Hùng nghĩ đến việc hai con làm hai lữ trưởng, mình nắm phần điều quân trong huyện, Đăng-châu coi như đã nằm trong tay mình rồi, lợi cho việc phục quốc biết bao?
Nghĩ vậy, ông đứng dậy, chắp tay:
– Đa tạ đại nhân có lòng tài bồi cho các cháu.
Ông quay lại các con:
– Các con mau đa tạ đại nhân đi.
Hiển Hiệu, Quý Minh là con nhà danh gia võ học, bao nhiêu đời chỉ biết có phục quốc. Lòng đầy kiêu khí, nay phải lạy một tên quan Hán tham ô thì cảm thấy tủi nhục vô cùng. Nhưng bố đã bảo, đành phải phục xuống đất lạy Trương Thanh. Trong lòng hai chàng cùng tự nghĩ: Ta lạy đây là lạy vua An-Dương của Âu- lạc.
Trương Thanh cười khoan khoái, rót hai ly rượu đưa cho Hiển Hiệu, Quý Minh. Hai chàng vội bưng lấy, uống một hơi.
Trương Thanh cùng Thế Hùng còn đang bàn chuyện làm thế nào để che dấu vụ Tô Phương với Ngũ-phương kiếm thì bên ngoài có tiếng la lớn:
– Cướp! Có kẻ cướp!
Mặt Trương Thanh tái mét:
– Tôi sợ bọn Ngũ-phương kiếm trở lại. Chứ còn huyện đường mình, quân sĩ đông thế này, cướp nào dám đột nhập.
Đào Thế Hùng rút kiếm nói:
– Hai con mau theo bố, bảo vệ Trương đại nhân ra ngoài xem sao?
Bốn người chạy ra ngoài sân thì thấy đèn đuốc sáng rực, quân Hán đang bao vây thành một vòng tròn. Ở giữa thì Lam kiếm đang ôm Trương Minh Đức trong tay. Bên cạnh, Bạch kiếm đang đấu với Tường Quy. Tường Quy thì đánh thục mạng để cứu chồng, còn Bạch kiếm chỉ đánh cầm chừng. Kể ra bản lĩnh của Tường Quy cũng không đến nỗi quá tệ, nhưng nàng là đệ tử phái Tản-viên thiên về chưởng hơn về kiếm, lại đi đấu kiếm với một trong Ngũ-phương thần-kiếm thì làm sao địch nổi? Kiếm pháp của nàng đã có vẻ rối loạn lắm rồi. Trương Thanh nói với Đào Thế Hùng:
– Xin nhân huynh xuất thủ cho.
Vừa lúc đó, choang một tiếng, kiếm của Tường Quy bị đánh bay bổng lên trời. Bạch kiếm nhảy vào định bắt sống, thì người nàng cũng bay bổng lên cao. Từ Đào Thế Hùng cho đến Trương Thanh, Bạch kiếm đều ngạc nhiên:
– Trên đời này làm gì có thứ khinh công kỳ diệu như thế?
Tường Quy bay lên đến nóc nhà, thì có một người đầu trùm kín, mặc quần áo đen, bồng lấy nàng phóng vào trong đêm. Bấy giờ mọi người mới biết rằng người đó đã tung giây chụp Tường Quy.
Đào Thế Hùng thoáng cũng biết đó là Đào Kỳ, ông quát lớn:
– Để người lại!
Ông ra hiệu cho Đào Hiển Hiệu rượt theo. Hiển Hiệu rú lên một tiếng, băng mình theo bóng Đào Kỳ. Còn ông nhảy vào vòng, phóng chưởng đánh Lam kiếm. Lam kiếm thấy chưởng lực dương cương bao trùm khắp người, biết rằng gặp địch thủ, y vội buông Trương Minh Đức, đưa chưởng đỡ.
Thế Hùng phóng liên tiếp ba chưởng liền, Lam kiếm cứ đỡ một chưởng lại lui một bước. Nhờ vậy, Đào Thế Hùng đã chụp được Trương Minh Đức. Ông vội quăng Minh Đức cho Quý Minh. Quý Minh tay phải đỡ lấy y định lùi lại, thì Bạch kiếm đã nhảy tới, vung chưởng tấn công. Quý Minh vội phóng ngược chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cả hai đều phải lùi lại.
Quý Minh đẩy Minh Đức lại cho Trương Thanh, chuẩn bị đối phó với Bạch kiếm. Sau khi đỡ một chưởng của Quý Minh, Bạch kiếm giật mình:
– Tại sao ở đất Đăng-châu lại có một thiếu niên chưởng lực mạnh đến thế này? Y là ai?
Bạch kiếm hỏi Quý Minh:
– Thiếu niên kia, ngươi tên là gì? Ta chưa từng thấy ai tuổi trẻ như ngươi mà đã có bản lĩnh đến trình độ đó. Hãy đỡ chưởng nữa của ta!
Nói rồi, y nhảy vọt lên cao, phóng chưởng xéo xuống. Chiêu thức của y quái dị vô cùng. Quý Minh vận sức đẩy xéo một chưởng. Bùng một tiếng nữa, chàng thấy tạng phủ như muốn đảo lộn trong khi Bạch kiếm cũng bị giật lùi hai bước.
Đào Thế Hùng giao đấu với Lam kiếm, ông quay lại quan sát trận địa con mình, thấy Quý Minh có vẻ thắng thế, ông mới yên tâm. Ông mừng thầm vì chỉ trong vòng một tháng, Đào Kỳ đã huấn luyện cho con ông một bản lĩnh không thua gì ông. Ông mừng lắm, tiếp tục đấu với Lam kiếm.
Quân Hán kéo đến trùng trùng điệp điệp. Hai viên lữ trưởng đứng ngoài chỉ huy quân bao vây nhị kiếm. Đào Thế Hùng suy nghĩ:
– Mình đánh với nhị kiếm chẳng ích gì, chi bằng mình tìm cách rút lui để cho tụi Hán chém giết nhau cho vui.
Nghĩ vậy, ông hô lớn:
– Ngừng tay!
Đào Quý Minh cùng nhị kiếm cùng ngừng tay, lùi lại.
Bạch kiếm hỏi Trương Thanh:
– Trương Huyện-lệnh, ngươi dấu Tô công tử ở đâu? Mau thả ra, nếu không, ngươi không yên được với ta đâu.
Đấu võ thì Trương Thanh dở, nhưng đấu khẩu, thì y vô địch. Y quát lớn:
– Chư quân nghe đây. Bọn Ngũ-phương kiếm cướp của, giết Tô công tử rồi còn đến huyện cướp tiền của công nho nữa. Hãy bắt lấy chúng.
Quân Hán ào vào. Ngũ-phương Thần-kiếm là những kiếm khách bực nhất Trung-nguyên. Họ chỉ sở trường về kiếm, còn về chưởng rất dở. Ngược lại, võ công phái Cửu-chân thì sở trường về chưởng, còn về kiếm thì chỉ bình thường thôi. Thế mà Ngũ-phương kiếm lại đi đấu chưởng với cha con Đào Thế Hùng là lấy sở đoản của mình để đấu với sở trường của địch, làm sao thắng nổi? Hơn nữa, võ công Cửu-chân do Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung nghiên cứu chế ra để khắc chế với võ công Trung-nguyên. Nếu như một đệ tử Cửu-chân đấu với một để tử phái võ Lâm-ấp thì họ phải nghiên cứu lối đánh của đối thủ, nhiên hậu mới phản công. Còn họ đấu với người Hán thì mỗi chiêu, mỗi thức của họ đã bao hàm sát thủ khắc chế võ công Trung-nnguyên, nên Ngũ-phương Thần-kiếm kém thế là lẽ đương nhiên. Ngũ-phương kiếm đang nguy cấp mà quân Hán kéo tới đông quá. Họ vội rút kiếm ra múa lên như mây bay, gió cuốn. Đi đến đâu, quân Hán dãn ra đến đó. Đào Thế Hùng đứng nhìn mà ngơ ngẩn:
– Quả thực là thần kiếm. Ta đấu kiếm với bọn chúng thì không biết có chống cự được mươi hiệp hay không?
Ông tự hỏi, trong Ngũ-kiếm, thì tam kiếm đi đâu? Mà tại đây chỉ có nhị kiếm?
Nhị kiếm tả xung hữu đột, tiến dần đến hàng rào huyện đường, thì quân Hán cũng bao vây theo. Hai người đã có vẻ mệt mỏi rồi. Bỗng có tiếng quát lớn trên mái nhà:
– Ngừng tay!
Mọi người nhìn theo thì thấy Xích kiếm đang ôm một người đàn bà, kề gươm vào cổ nói:
– Trương Thanh, coi đây, ta bắt con gái ngươi rồi. Ngươi mau cho quân mở vòng vây, ta sẽ thả con ngươi ra. Bằng không, ta sẽ giết y thị liền.
Có tiếng con gái khóc lớn:
– Gia gia, cứu con với.
Trương Thanh phất tay cho quân Hán lui lại, nói:
– Ngươi mau thả con gái ta ra.
Quân Hán vừa ngừng tay, thì vèo một cái, ba anh em Ngũ-kiếm đã biến dạng vào đêm tối. Đào Thế Hùng hô lớn:
– Đuổi theo mau!
Quý Minh vội phóng theo cha đuổi theo tam kiếm. Năm người, ba chạy trước, hai đuổi theo sau, tới một bờ sông thì trời vừa hừng sáng.
Tam kiếm ngừng lại hỏi Đào Thế Hùng:
– Coi thân thủ hai vị cũng là bậc kỳ tài, tại sao lại chịu giúp Trương Thanh làm việc phi pháp như vậy? Nếu mai này Thái-thú truy lùng, hai người cũng bị vạ lây.
Đào Thế Hùng nháy mắt cho tam kiếm, chỉ vào đứa con gái bị Xích kiếm bắt, rồi chỉ vào tai. Ý muốn nói rằng: Tôi không nói được vì còn con nhỏ này. Xích kiếm hiểu ý, vội mang cô bé ra thật xa, trói lại, ném xuống cỏ.
Đào Thế Hùng nói:
– Tôi là Đào Thế Hùng, Huyện-úy Đăng-châu. Đây là Quý Minh, con tôi. Giữa chúng tôi với Ngũ-kiếm không có thù oán gì. Tôi bị đứng ở giữa, một bên là Thái-thú, một bên là Huyện-lệnh, tôi phải làm sao bây giờ? Tôi nghĩ Ngũ-phương kiếm nên về Luy-lâu gặp Tô Thái-thú, xin cử đại binh đến đây, bấy giờ, tôi sẽ án binh bất động, lo gì không tìm được Tô công tử?
Xích kiếm nói:
– Một trong chúng tôi đã từng đấu chưởng với đại nhân. Tuy đại nhân thắng, nhưng vẫn hào hiệp nhận rằng nếu đấu kiếm thì không lại chúng tôi. Võ công đến trình độ như đại nhân, tuy cao cường, nhưng còn tìm được vài mươi người. Còn tính tình hào sảng anh hùng, tôi e rằng chỉ có một hay hai. Lúc nãy đại nhân đối chưởng với tam ca tôi, dù trình độ võ công thấp kém, tôi cũng thấy đại nhân chỉ đánh cầm chừng. Như thế đủ tỏ đại nhân không phải là bè đảng của Trương Thanh. Vậy đại nhân có thể cho tôi biết tình trạng Tô công tử hiện thời ra sao không?
Đào Thế Hùng thấy anh em Ngũ-phương kiếm là người trong võ lâm, tình tình hào sảng, ông không muốn nói dối, chưa biết trả lời sao thì Quý Minh đã đỡ lời cha:
– Thưa ba vị thần kiếm, việc làm vô thiên vô pháp của Trương công tử, họa chăng có Huyện-lệnh biết mà thôi. Thảng hoặc giám sở Tế-tác Lưu Chương mới biết rõ. Cha con tôi nào có hay? Tôi nghĩ ba vị thần kiếm cứ bắt Lưu Chương tra khảo, có lẽ sẽ ra manh mối.
Xích kiếm gật đầu:
– Công tử nói đúng! Chúng tôi phải đi bắt Lưu Chương mới được. Còn đôi nam nữ người Việt đi cùng với chúng tôi, tuy chỉ mới sống với nhau có mấy ngày, nhưng Nguyễn cô nương đã ra tay hào hiệp cứu chúng tôi, đại nhân có biết tin tức của họ ra sao không?
Quý Minh lắc đầu:
– Tôi không rõ lắm. Dường như hai người định vào phủ đường bắt sống con dâu của Trương Thanh. Người con trai bị con dâu Trương Thanh đánh một chưởng hộc máu, còn bị y thị đâm hai nhát kiếm. Người con gái đã cứu kịp người con trai rồi sau đó biệt tích, đến nay không hiểu ra sao.
Bạch kiếm thở dài:
– Người Việt nghĩa khí đến thế là cùng! Vị tiểu huynh đệ đó, dường như võ công có phần giống công tử thì phải. Đêm nay, chúng tôi sẽ bắt Lưu Chương, xin đại nhân đừng ngăn cản.
Đào Thế Hùng nghĩ thầm:
– Người mà bắt giết Lưu Chương, con ta sẽ thay thế chỗ đó. Sở Tế-tác đã nằm trong tay ta, huyện Đăng-châu này coi như đã trở về với Âu-lạc rồi.
Quý Minh gật đầu:
– Chắc chắn Lưu Chương biết chỗ giam Tô công tử. Ba vị phải tra khảo thật kỹ mới hy vọng y khai ra.
Bạch kiếm cười:
– Công tử yên tâm. Bằng mọi giá, chúng tôi phải bắt y khai ra tông tích Tô công tử. Công tử, bây giờ phiền công tử qua lại với tôi mấy chiêu, rồi tôi giả thua, bỏ đứa con gái Trương Thanh lại, để công tử có thể phúc đáp với Trương Thanh cho hợp lý.
Nói rồi, y nhảy lại bụi cỏ, cắp đứa con Huyện-lệnh trên tay rồi múa kiếm đâm Quý Minh. Quý Minh rút kiếm trả đòn. Đây là cuộc đánh nhau giả bộ, chứ đấu kiếm thực, ngay Đào thế Hùng cũng chưa chắc đã chống nổi Bạch kiếm mấy chục chiêu. Hai bên qua lại ít chiêu, Bạch kiếm giả vờ đánh rơi con gái Trương Thanh xuống. Y đấu với Quý Minh thêm hai chưởng nữa rồi ba anh em chạy vụt vào rừng, nháy mắt làm hiệu. Quý Minh chạy lại cởi trói, đỡ con gái Trương Thanh dậy:
– Trương tiểu thư, tiểu thư có sao không? Khuê danh tiểu thư là Thanh Mai thì phải, bởi tôi có nghe lệnh tôn nhắc đến một lần.
Trương Thanh Mai oà lên khóc:
– Đào lão bá, Đào công tử, các vị thực là đại ân, đại đức, đã cứu được tiểu nữ. Xin lão bá và công tử nhận của tiểu nữ ba lạy gọi là tạ ơn.
Quý Minh vội xua tay:
– Tiểu thư đừng làm thế.
Chàng định đưa tay đỡ Thanh Mai dậy, nhưng thấy mặt nàng hiện ra nét nhu hòa, xinh đẹp, chàng tị hiềm nam nữ, vội dụt tay lại. Đào Thế Hùng phất tay áo một cái, làm Thanh Mai như bị một luồng sức mạnh vô hình cản lại, không lạy được nữa.
Quý Minh nói:
– Bố ơi, thôi mình về đi. Con sợ chúng ta đi cả thế này, ở nhà lỡ xảy ra chuyện gì chăng?
Đào Thế Hùng gật đầu. Ông vẫy con, cùng Thanh Mai ra về. Họ về đến phủ đường thì trời đã đứng bóng. Quân Hán vây vòng trong, vòng ngoài phủ, trong sân có mấy xác chết chưa kịp chôn. Sở Tế-tác bên cạnh bị đốt cháy thành tro. Ông biết ba anh em Ngũ-kiếm đã hành sự xong.
Trương Thanh thấy cha con ông về, lại cứu được Thanh Mai thì mừng lắm.
Thanh Mai thấy cha thì oà lên khóc:
– Gia gia ơi, nếu không có Đào lão bá và Đào công tử thì con đâu còn được thấy gia gia nữa.
Quý Minh nghe lời nói của Thanh Mai, chàng chợt nhận ra là cô gái Hán này không kiêu kỳ, phách lối như anh cô. Trái lại, còn tỏ ra người thanh cao, nhu nhã nữa.
Trương Thanh thở dài:
– Khi Đào huynh đi rồi, bọn Ngũ-kiếm trở lại đánh phá sở Tế-tác, bắt sống Lưu Chương đem đi mất. Huyện đường không ai là đối thủ của chúng. Đi theo chúng còn có người con gái bịt mặt. Y thị thuận tay đốt luôn sở Tế-tác...
Đào Thế Hùng biết người đó là Nguyễn Phương Dung, nàng làm thế để gây thù hận giữa Ngũ-kiếm và huyện Đăng-châu.
Ông bảo Trương Thanh:
– Bây giờ tôi để Quý Minh ở lại bảo vệ đại nhân. Còn tôi đi tìm Tường Quy. À... mà công tử đâu? Tôi lo cho công tử quá.
Trương Thanh thở dài:
– Tôi cho nó đi Luy-lâu phúc bẩm với Thái-thú về việc Ngũ-kiếm làm phản.
Rồi y ghé sát tai Thế Hùng, nói khẽ:
– Nó mang vàng bạc đi theo để hối lộ cho tay chân của thái Thú.
Đào Thế Hùng lên ngựa, hướng về phía đồi núi xa xa, ông cho rằng Đào Kỳ chạy về hướng đó. Đi được hơn giờ, ông gặp Hiển Hiệu đang ngồi trên phiến đá bên đường, gương mặt rất quái dị. Ông hỏi:
– Có chuyện gì xảy ra không?
Hiển Hiệu chỉ về phía trước:
– Anh... Kỳ với Tường Quy...
Nguyên lúc Tường Quy giao chiến với Bạch kiếm, gặp lúc nguy nan, Đào Kỳ thấy người yêu sắp lâm vào chỗ chết, chàng vội tung giây cứu Tường Quy, rồi ôm nàng băng mình vào đêm tối. Hiển Hiệu tuy biết rằng anh mình bắt Tường Quy, nhưng cũng giả vờ rượt theo. Chàng theo xa xa để Đào Kỳ không thấy được. Đến ngọn suối này, Đào Kỳ ngừng lại. Hiển Hiệu biết mối tình tuyệt vọng của anh với Tường Quy, nên chàng ở ngoài canh chừng, mặc cho hai người tình tự.
Đào Kỳ đặt Tường Quy xuống. Trong đêm tối, nàng vẫn chưa nhận ra được người yêu, bèn lên tiếng hỏi:
– Cao nhân là ai, lại ra tay cứu tiểu nữ?
Đào Kỳ nghe tiếng nàng nói, lòng lại nhũn ra. Chàng đứng im, hơi thở dồn dập. Người chàng run run, không thốt nên lời. Tường Quy thấy sự hơi lạ, nàng lại lên tiếng:
– Cao nhân đã cứu tiểu nữ, xin cho tiểu nữ từ tạ ở đây. Tiểu nữ phải trở về để cứu chồng.
Nàng định cất bước đi, nhưng nàng không biết đã được cứu tới đây bằng lối nào, nên lại thở dài, hỏi:
– Cao nhân đã cứu tiểu nữ. Tiểu nữ xin trọn đời nhớ ơn. Xin tiền bối chỉ cho nẻo về huyện đường.
Đào Kỳ chỉ về phía trước. Tường Quy cúi đầu xá ba xá rồi trổ khinh công chạy vào đêm tối âm u. Nàng chạy được một quãng thì thấy phía trước có hai ngọn đèn xanh chiếu thẳng vào mặt. Nàng vội ngừng lại, vì trên đời nàng chưa từng thấy loại đèn kỳ lạ như vậy bao giờ. Rồi một mùi hôi thối nồng nặc xông lên. Nàng thất kinh hồn vía, vì biết rằng đã gặp cọp. Nàng vội đưa tay ra sau rút kiếm, mới chợt nhớ ra kiếm đã bị đánh văng mất tự bao giờ. Con cọp gầm lên một tiếng, rồi nhảy bổ lại vồ. Tường Quy sợ quá, phi thân nhảy lên một cành cây. Con cọp vồ hụt, lượn quanh gốc cây, há miệng nhìn Tường Quy mà táp, tỏ vẻ thèm thuồng.
Nàng cứ ngồi trên cây nhìn xuống. Cọp cứ ngồi dưới gốc nhìn lên. Ngồi được một lúc, nàng mệt mỏi quá, dựa vào chạc cây mà ngủ gật. Chợp mắt được một lúc, nàng giật mình thức giấc vì tiếng cọp gầm. Nàng nhìn xuống, bất giác la lên một tiếng kinh hoàng: Dưới gốc cây, nguyên một bầy năm con cọp nằm dài ra đó, chờ... mồi. Nàng ước mong:
– Không biết cao nhân cứu ta hôm qua bây giờ ở đâu? Làm thế nào ta thoát khỏi đàn cọp đói nầy?
Trời hừng sáng. Từ phía xa, một người thất thểu đang đi tới. Nhìn kỹ ra, nàng suýt bật thành tiếng la: Đó là Đào Kỳ. Tự nhiên nàng bật thành tiếng khóc, gọi lớn:
– Đào đại ca! Cứu em với.
Đào Kỳ nghe tiếng nàng, chạy lại. Thấy Tường Quy ngồi trên cây, dưới gốc có một bầy cọp. Chàng hiểu tất cả. Chàng quát lên một tiếng, nhảy tới. Còn lơ lửng trên cao, chàng đã phóng chưởng. Đây là chiêu Hải triều lãng lãng, một chiêu cực mạnh của phái Cửu- chân. Bình, bình, hai con cọp lớn bật tung trở lại, rống lên một tiếng, nằm dãy dụa mấy cái rồi im lìm. Ba con khác thấy vậy, cong đuôi chạy vào rừng. Đào Kỳ đến gốc cây gọi:
– Tường Quy, nhảy xuống đi.
Tường Quy buông mình nhảy xuống. Đào Kỳ đưa tay đỡ. Tường Quy ôm lấy cổ Đào Kỳ bật thành tiếng khóc. Chàng đặt lên môi Tường Quy một cái hôn. Hai người ngã vào bụi cỏ.
Trời hửng sáng, Đào Kỳ kéo Tường Quy ngồi dậy:
– Bây giờ chúng mình đi Mê-linh để gặp Thị Sách cùng Nhị Trưng. Chúng ta sẽ bàn truyện phục quốc.
Tường Quy lắc đầu:
– Em yêu anh, em có thể cho anh tất cả những gì em có, kể cả tính mệnh của em. Nhưng em không thể theo anh được. Nếu em theo anh, danh tiếng của ông ngoại em, cha mẹ em sẽ không còn nữa. Thôi, chúng mình chỉ có vậy thôi... Anh đi đường anh. Anh để em trở về với kiếp sống của người con gái bán thân cho giặc Hán. Em ước ao rằng cuộc gặp gỡ đêm nay của chúng ta, em sẽ có đứa con với anh.
Thế rồi, hai người ngồi ôm nhau thẫn thờ. Họ quên mất cả ngày giờ. Họ cũng không ngờ cách đó không bao xa, Đào Hiển Hiệu ngồi quan sát tất cả hành động của họ, cho tới lúc Đào Thế Hùng tới. Hai người thấy Đào Thế Hùng và Đào Hiển Hiệu tới cùng một lúc, bẽn lẽn đứng dậy.
Đào Thế Hùng nói:
– Kỳ cháu, cháu phải lên đường ngay. Phương Dung đang chờ cháu ở điểm hẹn. Còn phu nhân của công tử, chú đưa về được rồi.
Trước vẻ mặt uy nghiêm của ông chú, Đào Kỳ chỉ biết liếc mắt nhìn Tường Quy rồi ra đi.
Chàng đến chỗ hẹn, đã thấy Phương Dung ngồi dưới gốc cây, nhắm mắt dưỡng thần. Bên cạnh, hai con ngựa đang gậm cỏ.
Đào Kỳ nghĩ lại chuyện đêm qua, nhìn Phương Dung chàng tự thấy mình không xứng đáng với nàng, tự thẹn với chính mình.
Thời bấy giớ, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, hoặc ngao du với những đào hát mà không bị kết tội. Nên ý tưởng thẹn thùng của Đào Kỳ chỉ thoáng qua rồi thôi. Chàng đến gần gốc cây thì Phương Dung đã mở mắt ra, nhìn chàng:
– Đêm qua em giả dạng Ngũ-phương kiếm đốt cháy sở Tế-tác Đăng-châu để khai thêm hố chia rẽ giữa bọn chúng. Em còn...
Nàng chỉ vào bọc bên cạnh, rồi mở ra cho Đào Kỳ coi. Trong đó đầy vàng, ngọc sáng chói. Nàng tiếp:
– Em vào huyện đường, bắt trói vợ Trương Thanh tra khảo bắt chỉ chỗ dấu của, rồi em lấy hết cho bõ ghét. Số vàng ngọc này sau có thể dùng để phục quốc.
Phương Dung thấy Đào Kỳ mệt mỏi bơ phờ, tưởng rằng chàng mất ngủ. Nàng chỉ vào chiếc võng treo trên cây:
– Anh ngủ một lát rồi chúng ta lên đường.
Đào Kỳ cười gượng rồi lên võng nằm. Chàng thiếp đi lúc nào không hay. Khi chàng giật mình tỉnh giấc, trời đã về chiều.
Chàng nói với Phương Dung:
– Chúng ta lên đường thôi.
Hai người ra roi cho ngựa phi lên hướng Bắc. Đi đến chiều, vẫn không gặp một trang ấp nào. Phương Dung chỉ vào khu rừng trước mặt:
– Chúng mình vào rừng, lấy lương khô ăn, rồi qua đêm tại đây.
Hai người cho ngựa ruổi vó ngắm cảnh chiều tàn trên núi rừng hùng vĩ của đất nước. Qua hốc núi, xa xa có con ngựa đang gặm cỏ bên đường. Cạnh con ngựa, một người lính Hán đang đứng, lưng đeo đoản đao, mắt lơ đãng nhìn trời.
Người lính thấy hai người thì chắp tay lễ phép hỏi:
– Có phải Đào công tử và Nguyễn tiểu thư không?
Đào Kỳ gò cương ngựa lại, đáp:
– Phải, đại ca có gì muốn dạy bảo?
Tên quân Hán đưa ra một gói nhỏ nói:
– Đây là một món quà mọn của chủ nhân tôi gửi biếu Đào công tử, mong công tử nhận cho.
Đào Kỳ cầm lấy gói quà. Bên ngoài gói bằng tấm khăn lục, trên viết mấy chữ theo lối triện, rất đẹp:
Thanh thanh tử khâm,
Du du ngã tâm,
(Tà áo xanh xanh, ta nhớ người, lòng sầu dằng dặc).
Đào Kỳ biết hai câu này lấy trong kinh Thi. Chàng nhìn kỹ nét chữ xem người tặng là ai? Nhưng không nhận ra. chàng hỏi tên lính Hán:
– Đại ca có thể cho biết ai đã tặng cho tôi gói quà này chăng?
Tên quân Hán nói:
– Công tử cứ mở ra thì rõ. Chủ nhân tôi khẩn khoản nói rằng công tử chỉ nên mở ra coi một mình mà thôi.
Nói rồi, y ra roi cho ngựa chạy.
Đào Kỳ ngẩn người hỏi Phương Dung:
– Em thử đoán xem, ai đã tặng anh gói quà này?
Phương Dung xịu mặt xuống:
– Còn ai vào đây nữa? Đại ca thử nghĩ xem ai có thể sai phái được tên quân người Hán?
Đào Kỳ lắc đầu:
– Anh có nhiều người thân có thể sai phái được quân Hán: Nghiêm đại ca, chú anh, Tô Phương, Ngũ-phương kiếm.
Phương Dung hừ một tiếng:
– Nếu là Nghiêm Sơn thì ông ấy đã xuất hiện gặp anh. Chú Hùng là người lớn, muốn tặng anh cái gì thì đưa cho anh, việc gì phải sai lính Hán? Tô Phương thì bị chị Lê Chân giam rồi. Ngũ-phương kiếm là thứ anh hùng hào sảng, đâu có thì giờ làm chuyện ú tim này? Chỉ còn một người duy nhất mà thôi. Anh đừng giả bộ nữa.
Đào Kỳ nhớ tới Tường Quy, mặt chàng chợt đỏ lên và nín thinh luôn. Phương Dung lấy lương khô ra cho Đào Kỳ ăn, rồi mắc võng lên cây, nói:
– Anh ở đây coi ngựa, em vào trong có chút việc.
Nói rồi, nàng bỏ đi.
Đào Kỳ lấy gói vải lụa mở ra, bất giác tim chàng đau nhói lên. Chàng ngẩn người ra: Nguyên bên trong có bộ quần áo lụa xanh, trên ngực thêu cành đào. Chính là bộ quần áo của Tường Quy đã mặc. Trong có mẩu giấy viết mấy chữ:
"Xin cho quần áo thay người, theo bên mình anh trên bước gian nan vạn dặm. Em đã mặc bộ quần áo này nửa tháng liền không giặt, để giữ hơi của em. Áo quần thay em ở bên anh".
Tay Đào Kỳ run run, chàng đưa gói quần áo lên úp mặt vào hít lấy một hơi. Chàng thấy quả mùi thơm của Tường Quy thấm vào tạng phủ. Có tiếng bước chân Phương Dung lại gần, chàng vội gói bộ quần áo lại, cất vào bọc, leo lên võng nằm ngủ.
Phương Dung cũng leo lên võng nằm. Nàng cất tiếng hát theo điệu Lý con sáo:
Yêu nhau cởi áo cho nhau,
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.
Qua cầu, ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp, em sầu bấy nhiêu.
Qua đình, ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu?
Đào Kỳ liệu chừng Phương Dung đã biết chuyện nên hát trêu mình, chàng nằm im không lên tiếng. Phương Dung đằng hắng một tiếng, rồi hỏi:
– Đào đại ca! Em muốn hỏi đại ca mấy câu có được không? Đại ca có hứa nói thực với em không?
Đào Kỳ nhỏm dậy:
– Cái gì của anh, em cũng biết hết rồi, còn gì nữa đâu mà hỏi
Phương Dung chua chát:
– Thế mà có điều em chưa biết đấy. Em hỏi anh, trong đời anh, những người đàn bà nào được anh yêu nhất?
Đào Kỳ suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Trên đời anh, những người đàn bà sau đây anh ghi nhớ vào lòng: Thứ nhất là mẹ anh, thứ nhì là sư tỷ của anh, sau đến cô em họ anh, rồi đến em và... và... Tường Quy.
Phương Dung hỏi tiếp:
– Mẫu thân anh thì dĩ nhiên anh yêu nhất rồi. Không ai có thể so sánh. Trong bốn người còn lại, ai là người được anh yêu nhất?
Đào Kỳ suy nghĩ một lát rồi nói:
– Đối với sư tỷ, anh vừa yêu vừa kính. Anh thấy yêu sư tỷ giống như yêu mẹ, không khác gì mấy. Có thể nói, sư tỷ là bà mẹ thứ hai của anh. Nhưng anh yêu mà không sợ, vì sư tỷ rất chiều anh. Đối với cô em họ thì anh yêu nhẹ nhàng hơn. Còn Tường Quy, anh vừa yêu vừa hận, nghĩ đến nàng, anh có cảm tưởng như bị cái dùi đâm vào ngực. Còn đối với em... thì chú anh đã quyết hỏi em làm vợ cho anh. Chúng mình tuy chưa cưới xin, nhưng tình nghĩa đâu khác gì vợ chồng?
Câu cuối cùng của Đào Kỳ làm Phương Dung hừ một tiếng:
– Nếu bây giờ, hoàn cảnh bắt anh phải chọn em hay Tường Quy thì anh chọn ai?
Đào Kỳ không bao giờ ngờ Phương Dung hỏi câu đó, chàng suy nghĩ mãi cũng không tìm ra câu trả lời. Sau cùng, quýnh quá, chàng nói:
– Anh không bỏ được người nào cả.
Câu trả lời này làm Phương Dung cảm thấy vui lòng. Nàng nghĩ:
– Nếu chàng yêu ta bằng Tường Quy, thì còn gì bằng nữa? Tường Quy là gái có chồng, đâu có thể ở bên cạnh chàng mãi? Vả lại, Đào ca là người trọng danh dự, đời nào chàng chấp nhận một đứa con gái vợ thằng Ngô làm vợ mình? Vả ta với chàng còn có cái chí phục quốc vơí nhau. Tường Quy bì thế nào được.
Thời bấy giờ, người Việt bị người Hán đối xử cực kỳ tàn bạo, có nhiều con gái Việt lấy chồng Hán, rồi lên mặt hách dịch với đồng bào. Do đó, dân chúng thường dùng danh từ vợ thằng Ngô, cũng như ngày nay, kẻ ác miệng gọi những người lấy chồng Pháp, Mỹ là me Tây hay me Mỹ vậy.
Hai người ngủ đi lúc nào không hay. Bỗng cả hai choàng dậy vì có tiếng bước chân nhiều người từ xa vọng lại. Nội công Đào Kỳ rất thâm hậu, chàng nói:
– Dường như là một đội quân Hán thì phải.
Phương Dung gật đầu tỏ ý đồng tình. Hai người dấu ngựa vào rừng, đeo kiếm vào lưng rồi ra đường nhìn. Phía xa xa, có nhiều ánh đuốc ngoằn ngoèo như một con rắn lửa.
Phương Dung bàn:
– Chúng ta nên leo lên cây quan sát tình hình.
Đoàn người ngày càng tiến đến gần. Bước chân lẫn với tiếng roi vụt chan chát, tiếng chửi rủa tục tằn của quân Hán. Phương Dung ghé tai Đào Kỳ:
– Dường như một toán áp giải tù nhân thì phải.
Người đi đầu cầm lá cờ đỏ, trên cờ thêu con gấu bay. Đào Kỳ biết đó là kỳ hiệu của lính thiết kỵ Giao-chỉ. Phía sau, một đoàn người đi chân đất, lưng đeo túi vải. Cứ năm người bị trói thành một chùm. Họ thất thểu lê bước, chứng tỏ đã quá mệt mỏi.
Đào Kỳ nhẩm đếm rồi nói:
– Không phải tù, mà là thanh niên bị bắt sang Trung-nguyên làm lao binh cho quân Hán. Tổng cộng trên ngàn người.
Bỗng tên chỉ huy đoàn quân hô lớn:
– Ngừng lại!
Đoàn người ngừng lại. Một tên Hán nói:
– Bọn lao binh nghe đây: Chúng mày tạm ngừng để nấu cơm ăn. Sau đó đi ngủ. Sáng mai tiếp tục lên đường.
Bọn lao binh Việt chia nhau đi kiếm củi nấu cơm. Bọn lính Hán phân thành từng ngũ một, mỗi ngũ đóng một chỗ. Chúng nằm dài ra nghỉ, mỗi đứa có tới ba lao binh phục dịch. Một người bóp chân, đấm lưng, một người mang quần áo, một người phục dịch nấu ăn. Bọn lao binh đầy vẻ mệt nhọc, bơ phờ. tuy ngồi nghỉ, nhưng có người khóc, kẻ kêu. Bỗng có tiếng khóc rống lên:
– Ối con ơi là con. Con đang đau nặng, mẹ con thì chết rồi mà bố phải đi lao binh thì con sẽ sống với ai? Ai nuôi con?
Người buông tiếng khóc là tráng niên mập mạp, tuổi chưa tới ba mươi. Anh ta khóc càng ngày càng lớn tiếng, người run lên bần bật như bị lạnh.
Có tiếng gọi:
– Thằng Hoan đấy hả? Cơn sốt rét của mày chưa hết sao?
Người tên Hoan càng run mạnh hơn. Tiếng khóc của chàng càng thê lương. Tên trưởng đoàn phát cáu, quát:
– Đứa nào khóc đó? Câm mồm lại ngay!
Nhưng tiếng khóc vẫn không ngừng. Tên trưởng đoàn bực mình vẫy tay một cái. Hai tên lính Hán đến nắm tóc người đàn ông khốn nạn lôi đến gốc cây bắt qùy xuống. Tên trưởng đoàn bắt tập trung hết lao binh thành vòng tròn, nói:
– Kể từ nay, tao cấm khóc. Đứa nào khóc, sẽ như thằng này.
Nói rồi, nó cầm dao đưa lên. Loáng một cái, cắt đứt tai trái người kia.
Người đàn ông tên Hoan đau đớn quá, hóa liều, y nhảy lên ôm lấy tên đội trưởng, cắn vào mặt nó. Thế là hai ngươi ôm nhau lăn xuống đất vật lộn. Bọn Hán hò hét, lấy dao chặt một tay người kia. Người kia còn có một tay, ôm không vững đành buông tên đội trưởng ra.
Tên đội trưởng cáu quá, quát lên:
– Đem cả xâu của nó ra đây.
Bọn lính Hán lôi bốn người còn lại ra, bắt quỳ xuống trước mặt. Tên đội trưởng nói:
– Thằng này đánh tao, vậy tao ra lệnh cho chúng mày, mỗi đứa phải xẻo một miếng thịt của nó. Đứa nào lừng chừng đứa đó sẽ bị xẻo thịt.
Nói rồi, nó đưa dao cho một lao binh. Tên lao binh này cầm dao run lẩy bẩy tiến đến, dơ lên, rồi không hạ xuống được.
Tên đội trưởng quát lên một tiếng, vung đao chặt xuống đầu tên lao binh... Mọi người rú lên một tiếng kinh sợ. Họ thấy ánh thép loáng một cái, sau một tiếng ối, một cái đầu rơi xuống đất. Khi họ mở mắt ra thì không phải cái đầu của tên lao binh mà là cái đầu của tên đội trưởng.
Tiếp theo, hai người từ trên cây nhảy xuống, vung kiếm đưa liên tiếp. Mỗi lần đưa, một cái đầu quân Hán rơi. Hai người đó là Đào Kỳ và Phương Dung.
Phương Dung hô lớn:
– Anh em lao binh, mau cướp khí giới của giặc Hán, đánh nó.
Đám lao binh có người cầm đầu cùng xúm vào ôm lấy bọn lính Hán, cướp vũ khí. Chỉ một lát thì ba mươi tư tên lính Hán bị bắt hết. Còn mười sáu tên bị Đào Kỳ và Phương giết chết.
Phương Dung nói lớn:
– Anh em lao binh nghe đây: Chúng ta đều là người Việt, tại sao chịu nhục để cho bọn Hán bắt làm lao binh? Bây giờ chúng ta đã giết mười sáu tên, bắt sống ba mươi tư tên, vậy chúng ta hãy trốn vào rừng, lập trại để sống. Anh em có dám làm không?
Bọn lao binh đồng la lớn:
– Dám làm!
Đào Kỳ chỉ vào khu rừng, nói:
– Trong này có ngọn suối. Vậy ngày mai này, chúng ta vào đó lập trại, luyện tập võ nghệ, chờ ngày khởi nghĩa, đuổi giặc Hán. Lúc đó, chúng ta sẽ được tự do hồi hương, sống với gia đình.
Đám lao binh reo hò đồng ý.
Phương Dung điều khiển mọi người di chuyển vào trong rừng sâu. Đợi qua đêm, sáng hôm sau, họ đẵn gỗ, cắt lá làm nhà. Đào Kỳ chia năm người thành một ngũ, năm ngũ thành một lượng, năm lượng thành một tốt và năm tốt thành một lữ. Tổng cộng được hai lữ.
Chàng chọn mấy người có sức khỏe, cử lên làm ngũ trưởng, lượng trưởng, tốt trưởng và lữ trưởng... Chàng huấn luyện họ theo phép luyện quân của sách Tôn-tử, Lục-thao.
Trong vòng một tháng, doanh trại đã đủ, kỷ luật nghiêm minh. Chàng thấy lữ trưởng lữ 1 là Lê Hoàng lanh lẹ hơn lữ trưởng lữ 2 Phạm Tân, chàng bèn cho Lê Hoàng kiêm nhiệm chức sư trưởng, coi cả hai lữ.
Để cho đủ nhu cầu nuôi quân, Phương Dung lấy số vàng bạc cướp ở huyện Đăng-châu đến các trang ấp gần đó bán đi, mua gạo thóc mang về. Hai lữ hàng ngày phải trồng trọt rau đậu, khoai sắn làm kế sinh nhai.
Đào Kỳ đặt tên cho trang là Văn-lạc, rút từ hai chữ Văn-lang, Âu-lạc. Sau khi chỉnh đốn trang xong, Phương nói với Đào Kỳ:
– Chúng ta có một nghìn người thực, nhưng cần phải liên lạc với các trang khác mới có thể đứng vững. Ởã đây gần Mê-linh, chúng ta nên tới Mê-linh liên kết với Thi Sách và Nhị Trưng. Bởi, nếu chỉ với một nghìn người, quân Hán kéo đến thì không đầy một ngày là bị tiêu diệt.
Đào Kỳ lắc đầu:
– Việc gặp Đặng Thi Sách và Nhị Trưng chưa biết thế nào. Ba người này tiếng tăm lừng lẫy, thì tai mắt giặc theo dõi không ít. Liệu họ có thể lo cho trang của chúng ta không? Từ đây về Đăng-châu cũng không xa, chi bằng ta cho người về liên lạc với chú Hùng. Chú là Huyện-úy, giặc sẽ ít nghi ngờ. Vả xưa nay, chú vẫn quy dân lập ấp quen rồi, chú có thể lo thêm cho trang Văn-lạc được. Hoặc biết đâu, chú có thể cử một trong các em lên đây trông coi trang này cũng nên.
Đào Kỳ gọi Lê Hoàng, trao cho bức thư và dặn:
– Lê đại ca! Đại ca cầm bức thư này về trang Hiển Minh ở Đăng-châu, gặp Lạc-hầu là Đào Thế Hùng trao cho người. Đào Lạc-hầu là chú ruột tôi. Đại ca kể sơ lược cho chú tôi nghe mọi biến chuyển ở đây.
Lê Hoàng tuân lệnh, cầm thư lên ngựa ra đi.
Hàng ngày Đào Kỳ huấn luyện võ thuật, hành quân, xung trận cho các tráng đinh. Chàng chia ra: Cứ hai toán làm việc thì một toán luyện tập.
Phương Dung đã bán gần hết số vàng ngọc cướp được ở Đăng-châu, mua sắt, đồng về rèn luyện vũ khí, mà vẫn không đủ.
Nàng chợt nhớ đến một đoạn trong Tôn Tử binh pháp:
– Tại sao ta không lấy vũ khí của Hán làm vũ khí của mình?
Nàng bàn với Đào Kỳ:
– Bây giờ chúng ta đã vũ trang cho bảy trăm tráng đinh rồi. Vậy chúng ta băng rừng tới vùng Tiêu-sơn phục kích, đón đoàn tải vũ khí, lương thực về Trung-nguyên của Tô Định để đánh cướp.
Đào Kỳ thắc mắc:
– Tại sao lại vùng Tiêu-sơn?
Phương Dung cười:
– Đại ca quên câu hư là thực, thực là hư sao? Nếu chúng ta chặn cướp ở đây, Lê Đạo Sinh sẽ cho người điều tra, rồi mang quân lên đánh, chúng ta sẽ gặp nguy hiểm. Chúng ta vượt rừng tới Tiêu-sơn là địa phận của chín trang ấp thuộc quyền Lê Đạo Sinh mà đánh cướp, khiến cho y điên đầu. Thêm nữa, Tô Định lại có thể nghi ngờ y. Có điều, chúng ta phải phục kích bắt gọn, không cho một tên sóng sót chạy thoát. Như vậy, Tô Định sẽ cứ tưởng đoàn vận tải đã sang Trung-nguyên. Hơn năm sau không thấy trở về, mới cho điều tra, lúc đó, e rằng còn khó khăn hơn bắc thang lên trời.
Đào Kỳ khám phá ra rằng Phương Dung cũng đọc những sách Lục-thao, Tôn-tử binh pháp như chàng, nhưng nàng áp dụng uyển chuyển hơn nhiều. Nàng tổ chức những toán do thám nho nhỏ khắp nơi. Khi được tin có đoàn vận tải vũ khí, lương thảo sắp tới, nàng thân đi thám sát địa thế: Chỗ nào phục quân, chỗ nào phục toán tiễn thủ, chỗ nào lăn gỗ đá chặn đường. Phương Dung còn cẩn thận hơn, cho tráng đinh tập trận thử, để khi lâm trận không bị bỡ ngỡ.
Trong một tháng, Phương Dung đã đánh cướp ba đoàn vận tải. Lính Hán chuyên chở nào là vũ khí, nào là lương thực, nào là lừa ngựa, trâu bò, đều bị cướp hết. Trong trang Văn-lạc kho đụn chất đống, vũ khí dư thừa. Trang có đến hơn ba trăm con trâu để cày bừa, chuyên chở. Ngựa chiến gần năm trăm con.
Đào Kỳ định đánh cướp nữa, nhưng Phương Dung cản lại:
– Không nên! Nếu trong chiến tranh, chúng ta đánh cướp của giặc càng nhiều càng tốt. Nhưng chúng ta hiện còn đang ẩn thân, nếu đánh cướp nhiều quá, có thể sẽ bị lộ mất. Hãy tạm ngưng. Chỉ khi nào thiếu lương thảo mới tiếp tục.
Trong thời gian đó, Phương Dung giải thoát hơn năm trăm lao binh nữa. Thế là lực lượng trang Văn-lạc lên tới một sư, toàn những trai tráng ngút lửa yêu nước, chờ đợi ngày tiến đánh Luy-lâu. Hơn tháng sau, một hôm Phương Dung đang bàn với Đào Kỳ về phương lược sử dụng đạo binh Văn-lạc bất thần đánh Luy-lâu, thì tráng đinh vào báo:
– Có khách từ phương xa tới, xưng là Trương Thủy Hải, Trương Đằng Giang và Trần Khổng Chúng xin vào yết kiến.
Phương Dung nghe báo, mừng quá nói:
– Ba vị sư thúc của em tới. Chúng mình mau ra đón.
Đào Kỳ lấy áo khoác vào mình, theo Phương Dung ra cổng trang. Chàng hỏi:
– Anh chưa từng nghe đến danh hiệu sư thúc Trần Khổng Chúng. Trong kỳ đại hội sao không thấy người?
Phương Dung đáp:
– Trần sư thúc là đệ tử út của thái sư phụ. Năm xưa được sư tổ thương yêu rất mực. Khi sư tổ mất tích, sư thúc nhớ thương người đến ngơ ngẩn cả người. Thế rồi, người bỏ đi tìm sư tổ. Từ đấy, trong môn phái, không ai biết người ở đâu. Bây giờ người trở về, chắc có tin tức của sư tổ.
Phương Dung là cô gái lanh lợi, thông minh, lễ phép. Nàng được các sư thúc thương yêu đặc biệt, tình nghĩa thâm trọng. Nàng thấy các sư thúc, định quỳ xuống làm lễ, Trương Thủy Hải đã phất tay:
– Sư thúc miễn lễ cho con. Cháu Đào Kỳ với con đã làm được nhiều việc đến bố cháu cũng không ngờ tới.
Vào tới sảnh đường, Trần Khổng Chúng mắng yêu Phương Dung:
– Con gái yêu của sư thúc càng lớn càng xinh đẹp.
Đào Kỳ hỏi:
– Tại sao các vị lại biết chúng cháu ở đây mà đến thăm?
Trương Đằng Giang cười:
– Các cháu ngạc nhiên là phải. Việc làm của các cháu bí mật đến quỷ thần cũng không hay, bọn ta làm sao biết được? Nguyên chúng ta đi thăm dò tin tức của thân phụ Thánh Thiên, thì gặp thái sư phụ. Người đã thoát khỏi nhà tù Luy-lâu. Người khen ngợi cháu Đào Kỳ luôn miệng. Hiện người đã nhận một thiếu nữ còn trẻ làm đệ tử. Thiếu nữ đó là em út của Trần sư đệ đây.
Phương Dung nắm tay Trần Khổng Chúng:
– Sư thúc, lâu nay ngươi đi đâu? Cháu nhớ sư thúc đến chết được.
Trần Khổng Chúng cảm động:
– Chú cũng vậy. Khi chú rời Cối-giang đi tìm sư phụ thì cũng nhớ cháu suốt ngày, suốt đêm. Chú đoán rằng thái sư phụ bị Hán bắt, vì vậy, chú bỏ sang Trung-nguyên, học tiếng Hán, đầu quân cho Quang Vũ.
Đào Kỳ ngơ ngác không hiểu. Phương Dung vỗ tay:
– Mưu kế của chú thực tuyệt. Chú muốn làm người Hán để dò la tin tức sư tổ. Chứ nếu chú đầu quân làm việc cho người Hán tại Lĩnh-nam thì không được trọng dụng.
Trần Khổng Chúng gật đầu:
– Chú đầu quân vào đạo của Ngô Hán. Nhờ võ công Lĩnh-nam khắc chế võ công Trung-nguyên, chú thắng hầu hết các võ sĩ của Ngô. Ngô Hán trọng dụng chú, cho chú làm sư trưởng. Từ sư trưởng, chú tham dự nhiều trận đánh, có công, chú được Quang Vũ tiếp kiến. Quang Vũ hỏi chú muốn được thưởng gì? Chú xin được về làm quan ở Lĩnh-nam. Quang Vũ cho chú theo Tô Định sang Giao-chỉ với chức vụ Đốc-bưu.
Phương Dung ngơ ngác hỏi:
– Đốc-bưu là chức vụ gì?
Đào Kỳ gần Lục Mạnh Tân lâu, chàng biết khá nhiều về quan chức nhà Hán. Chàng đap:
– Đốc-bưu là một chức vụ thay Thái-thú đi thanh tra các nơi. Cho nên người Trung-hoa thường nói: Thái-thú là vua, Đốc-bưu là Ngọc-hoàng Thượng-đế. Ý chỉ Đốc-bưu là chức quan hét ra lửa, mửa ra khói. Các Huyện-úy, Huyện-lệnh nghe Đốc-bưu đến thì sợ như sợ cọp.
Trần Khổng Chúng tiếp:
– Chú trở về Giao-chỉ, đến bạn hữu, thân thuộc cũng không nhận ra chú. Ai cũng tưởng chú là người Hán. Chú đi khắp các nhà tù Giao-chỉ thanh tra để tìm thái sư phụ. Cho đến một ngày kia, chú vào thăm nhà tù Luy-lâu, thì khám phá ra thái sư phụ mới được đua từ Thái-hà trang về. Đêm, chú vào nhà tù giải thoát cho Thái sư phụ. Người sai chú về Cối-giang thám thính tình hình. Chú trốn về Cối-giang gặp bố cháu. Giữa lúc anh em đang hàn huyên vui vẻ, thì có khách từ Đăng-châu tới.
Phương Dung ngắt lời:
– Chắc là người của Đào gia?
Trần Khổng Chúng cười:
– Không phải là người của Đào gia, mà là ông bà Đào Thế Hùng. Ông bà tới gặp bố mẹ cháu. Người mang theo nào trâu, nào bò, nào dê, nào lợn.
Đào Kỳ kêu lên:
– Ủa! Chú cháu tới có việc gì mà lại mang nhiều lễ vật như vậy?
Trương Đằng Giang cười:
– Còn gì nữa? Nếu là việc phục quốc thì chỉ mình ông đi là đủ rồi. Đây có bà đi theo thì chỉ còn có việc hỏi con bé Dung về làm dâu họ Đào. Đào huynh với sư huynh ta là bạn cũ, hai bên gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Họ ôm lấy nhau mà khóc. Hai bên khóc như trẻ con thiếu sữa vậy.
Thời bấy giờ, quyền cha mẹ rất lớn. Khi cha mẹ qua đời, chú thím hoặc cậu mợ, cô dì sẽ thay thế, đứng ra dựng vợ gả chồng cho các cháu. Thường thì bề trên quyết định, không bao giờ hỏi ý kiến đôi trẻ cả. Ông bà Đào Thế Hùng thấy anh chị thất lạc không tin tức, mà Đào Kỳ, Phương Dung quấn quít bên nhau. Ông bà quyết định đi Long-biên hỏi Phương Dung cho cháu làm vợ. Ông bà biết cháu với Tường Quy có mối ẩn tình. Tường Quy trước mắt ông bà là một thứ Mỵ Châu, thân thể ô uế. Còn so bề gia thế, cha Tường Quy là Huyện úy Bắc-đái, làm sao bì với Nguyễn Trát, tiếng tăm lừng lẫy về ý chí phục quốc. Phương Dung xinh đẹp đâu kém Tường Quy? Võ công nàng lại siêu việt, kiến thức, mưu trí tuyệt vời. Ông bà mới gặp đã thấy thương yêu như con đẻ.
Trương Thủy Hải tiếp:
– Ông bà Đào Thế Hùng đưa thư của hai cháu ra bàn với chúng ta. Hai cháu muốn ông tiếp nhận trang Văn-lạc, nhưng ông không kham nổi, vì ông đang muốn liên hệ, ảnh hưởng đến các Lạc-hầu ở Đăng-châu. Ông bà nhờ bố cháu cử người lên trông nom dùm. Bố cháu quyết định cử chú với chú Đằng Giang lên đây. Nhân tiện chú Khổng Chúng nhớ cháu quá, cũng đòi đi theo để nhìn mặt con bé xinh đẹp của chú.
Đào Kỳ, Phương Dung tập họp tráng đinh, giới thiệu Trương thị huynh đệ với họ. Còn Khổng Chúng thì vì cần bảo vệ bí mật nên không ra mặt.
Sau lễ giới thiệu, Đằng Giang tiếp xúc với tráng đinh một buổi. Tối trở về sau khi cơm nước, ông gọi Phương Dung, Đào Kỳ nói:
– Hai cháu khôn thì khôn thực. Mưu trí, võ công đều giỏi hơn chú. Song có điều các cháu còn trẻ, không kinh nghiệm đời.
Phương Dung ngạc nhiên:
– Chú muốn nói...?
– Cháu cho tráng đinh ăn uống đầy đủ, đối xử tử tế. Nhưng vì các cháu còn trẻ, các cháu quên mất họ đều đã có gia đình. Họ ở đây mà lòng nhớ nhung cha mẹ, vợ con. Vậy từ ngày mai, ta phải tìm cách đón vợ con họ lên ở trong trang, làm kế lâu dài.