Các dòng họTuy không phiên chế thành tổ chức, nhng các dòng họ giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động và là một bộ phận cấu thành nên làng xã xa.
Bốn họ Vương, Lường (Lương), Ngô, Nguyễn là những họ có công lập làng và được dân làng tôn là "Tứ Gia Tiên Tộc". Đất lành chim đậu, sau bốn họ mở đường ấy, tiếp đó nhiều gia đình đến sinh sống trên mảnh đất làng ta. Làng ngày một mở rộng, nhà cửa ngày một thêm đông đúc. Qua các thế hệ, đã hình thành nhiều dòng họ và mỗi dòng họ, đều có những đóng góp cho mảnh đất này. Đến nay làng có 33 tộc, họ.
Mỗi dòng họ, mỗi cá nhân đều có những đóng góp để cho Lại Đà ngày thêm một thịnh vợng. Họ Vương Khắc có cụ Vương Khắc Thuật, đỗ Thám Hoa vào năm 1472, hai lần đi sứ sang nhà Minh và làm đến chức Tham chính. Họ Ngô Duy có cụ Ngô Tuấn được xếp vào bậc danh thần trấn Kinh Bắc, từng làm quan dưới thời Lê. Khi Tây Sơn lấy Bắc Hà, cụ cùng Nguyễn Duy Hàn, Đỗ Thanh Lâm vào Gia Định phò nhà Nguyễn và làm Tả tham quân tả đồn thần sách quân, năm Tân Dậu (1801) làm Chiêu thảo sứ. Cụ từng tham chiến ở đồn Biện Sơn (vùng Thanh Hoá - Nghệ An). Năm 1802, vào đầu triều Vua Gia Long, cụ được phong làm Hiệp trấn Hải Dương. Thời Hậu Lê có cụ Lương Đẩu, đỗ Hương Cống vào năm 1783, kế tiếp có các cụ Lương Lịnh, Lương Hồng đỗ Sinh đồ, đa các gia đình họ Lương thành gia đình khoa cử. Họ Ngô Quý có Cụ Ngô Quý Vọng (1685-1766) là người khởi nghiệp nghề y của họ. Cụ làm thuốc nổi tiếng tổng Cói, được vời vào Vương phủ chúa Trịnh chữa bệnh và đợc ban hàm Thiếu Khanh. Con trai của cụ là Ngô Quý Điểm y thuật giỏi nhất một vùng, nên được nhận hàm Huyện Thừa. Thế hệ kế tiếp có cụ Ngô Quý Ấn (1756-1823), đỗ Hiệu sinh năm 13 tuổi, rất giỏi y thuật (cụ là rể của Tiến sỹ Ngô Thế Trị người làng Cự Trình). Họ Ngô Bá có cụ Ngô Bá Thiệm, đậu Tú tài năm 1852, làm nghề y và dạy học, học trò theo rất đông. Còn họ Nguyễn Phú có cụ Phúc Kính, một người hay chữ, giỏi thơ văn, nên dân làng gọi là cụ Văn. Thời Tự Đức có cụ Nguyễn Bá Khiêm, đậu Cử nhân năm 1848, từng làm Tri huyện huyện Phù Cừ. Cùng thời, trong họ còn có cụ Phú Hanh, giỏi văn võ, 18 tuổi đỗ Thư toán, năm 1867 vào kinh đô Huế, chức Trung uý cơ, chỉ huy một vệ quân bảo vệ kinh thành, khi mất được đa về quê nhà, có quan hàng tỉnh đến tế.
GiápGiáp là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức làng xã xa. Ngày trước làng ta có 7 giáp, gồm: giáp Đông Chính; giáp Đông Bắc; giáp Đông Trung; giáp Tây Nam; giáp Đoài Thượng; giáp Đoài Chính; giáp Đoài Bấc (Bắc). Mỗi giáp có 3 bàn hương trưởng, gọi là bàn nhất, bàn nhì và bàn ba. Mỗi bàn có 2 người, duy giáp Tây Nam, mỗi bàn có 1 ngời. Tuỳ theo số đinh đông hay ít mà phân chia vào một giáp, có giáp hai, ba họ; có giáp chỉ có một họ. Họ Nguyễn Phú đông đinh, nên được đứng trọn một giáp: giáp Tây Nam.
Giáp được gắn với vị trí ngồi ở đình và qua vị trí chỗ ngồi thấy được tầm vóc của giáp. Thời Trần, giáp được tổ chức theo khu vực, địa dư (theo khoảnh tre). Lúc đầu giáp mang tính chất bán quân sự. Giáp cung cấp phu, lính. Đến thời Hậu Lê, giáp không tổ chức theo khoảnh tre, mà theo dòng họ, một hoặc hai, ba họ hợp thành. Người đứng đầu giáp gọi là "lình", tiếng cổ là lệnh - người ra lệnh. Có nơi đứng đầu giáp gọi là cai giáp, như ở làng ta.
Giáp tổ chức khá chặt chẽ. Một đứa trẻ trai năm, sáu tuổi đã phải biện cơi trầu xin nhập giáp, đến tuổi 18 phải đóng tiền vào giáp, gia nhập hương ẩm. Từ lúc đó người ấy chính thức là thành viên của giáp, phải gánh vác công việc của giáp, được quyền dự các ngày lễ của giáp, được ăn uống, chia phần, đến khi chết, được giáp tổ chức đa đón theo lễ nghi ở làng. Ai đứng ngoài giáp, mọi việc hiếu, hỷ của gia đình, không có dân làng nào đến dự. Đặc điểm của giáp là chỉ có nam giới tham gia và mang tính chất cha truyền con nối - cha ở giáp nào, thì con ở giáp ấy. Việc gia nhập giáp có tính tự nguyện, hàng năm phải đóng góp. Trong nội bộ giáp, phân biệt thứ hạng bằng tuổi tác. Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp là lên lão. Thông thường, tuổi lên lão là 60, có làng quy định 50 hoặc 55 tuổi đã lên lão. Lên lão là lên ngồi chiếu trên, được cả giáp, cả làng trọng vọng. Tùy từng làng mà người ngụ cư phải qua bao nhiêu đời mới đợc vào giáp, thường là sau 3 đời.
Làng ta hàng năm vào ngày 13 tháng chạp là ngày việc phe giáp. Mọi thành viên trong giáp đều được đến dự
Lễ HộiNgoài những công trình kiến trúc tôn giáo, văn hoá,...các phong tục tập quán, hội hè, làn điệu dân ca, truyền thuyết,... là di sản phi vật thể vô cùng quý giá mà ông cha để lại, thì Hội làng là một trong những di sản quý. Theo lệ làng, hội làng ta thường tổ chức vào ngày 11/3 âm lịch hoặc ngày 14/8 âm lịch (ngày sinh, ngày hoá của Thành hoàng). Lễ hội có năm làm to, gọi là Phong (thờng 2 đến 3 năm lại Phong một kỳ). Khi hoàn cảnh cho phép, năm đó lúa má tốt tơi, dân tình no đủ, thì tổ chức Phong. Còn những năm khác, thì tổ chức theo hội lệ (gọi là Sái). Năm nào Phong, hội hè rước xách sẽ rất linh đình. Hội làng gồm có phần lễ và phần hội. Phần lễ được xem là quan trọng.
Trong hương ước ghi: "Ngày mồng 9 tháng 3 lễ mộc dục, lễ tiến mã dùng trầu cau. Ngày mồng 10 tháng 3 lễ nhập tịch dùng gà 1 con, hoặc thủ lợn, xôi 20 đấu, cau 20 quả, rượu 4 chai, lễ chay 2 lễ dùng xôi chuối. Ngày 11/3 lễ xuân tế, dùng lợn hay bò một con, xôi 20 đấu, cau 50 quả, rượu 6 chai. Lễ chay dùng bánh trôi 2 mâm và bánh đờng. Sáu giờ sáng hoặc 1 giờ sáng ngày 11 tháng 3 làm lễ tỉnh sinh dùng phù tửu. Ngày 12/3 lễ thánh đản dùng lợn hoặc bò một con, xôi 20 đấu, cau 50 quả, rợu 6 chai quân làm các lễ, lễ đền dùng lễ chay, bàn hậu 2 mâm, nội điện tả, hữu bàn, dưới chùa lễ long thần, tế xong rồi hoá mã, rước đồ thờ xuống điếm. Đến ngày 13 hoá mã, tuỳ theo ngày bàn vào đám, hoặc dùng mỗi giáp một lễ cỗ thờ thịt lợn. Ngày 13/3 lễ bản cảnh tôn thần, lễ tiên đạt ở nhà hội tự đờng, dùng lợn một con, xôi 20 đấu, rượu 6 chai, cau 30 quả quân làm một lễ thượng điện ở đình. Chức sắc, hương lão, hương trưởng 4 bàn ra dự lễ. Ngày 16 /3 lễ tế hậu, dùng lợn 1 con, xôi 20 đấu, rượu 6 chai, cau 30 quả và vàng, hương, nến quan làm một lễ ở thượng điện tại đình."
Rước nước là nghi lễ đầu tiên của lễ mộc dục. Vào những năm Phong, đoàn rước gồm các quan viên chức sắc đi đầu, tiếp đến đội khiêng kiệu (gồm có 2 kiệu, trên kiệu đặt bình đựng nước, một kiệu do nam giới khiêng, một kiệu do nữ giới khiêng). Đoàn rước có phường bát âm dẫn đường, có tuần đinh thổi tù và, tay thớc giữ trật tự. Dân làng ăn mặc chỉnh tề, đàn ông khăn xếp, áo the, quần ống sớ, đàn bà áo tứ thân. Khi đoàn rước đến bờ sông Đuống thì hạ kiệu. Sau khi cụ thủ từ khấn vái Thuỷ thần, thuyền ra giữa dòng sông, múc nước vào bình, bình nước đợc đặt lên kiệu, đoàn người rước nước trở về làng. Đến đình và miếu, bắt đầu làm lễ mộc dục. Bình nước kiệu nam để tắm bài vị, ngai và đồ thờ ở đình. Bình nước kiệu nữ, dùng để tắm tượng Thánh Mẫu. Còn những năm Sái, thì chỉ làm khăn sạch, nước thơm.
Ngày 11/ 3 hoặc ngày 14/ 8 là ngày lễ chính. Sau khi tế xong, lần lượt các vị hương lão theo thứ bậc vào làm lễ; tiếp đó là các tộc họ, phường, hội, các cá nhân trong làng, kể cả giai tế nơi khác lấy vợ làng Lại Đà cũng được vào lễ hương.
Tại đình, trong một năm có nhiều kỳ lễ, mỗi kỳ lễ đều có quy định nghiêm ngặt. Ngày xa, các cụ rất coi trọng lễ nghi. Vì vậy ở đình có treo 4 chữ lớn:"
Chính lễ thiện tục"- đã là lễ nghi phải sửa cho đúng phép tắc tổ tiên, coi đó là tục lệ đẹp.
Phần hội: Có các phường tuồng, phường ca trù vào hát ở đình và có các trò chơi: vật, kéo co, chọi gà,... Ngoài ra còn có tục mục lục. Đây là hình thức sinh hoạt văn hoá trang nhã. Mục lục là một văn bản do một vị túc nho trong làng viết ra, nói về lịch sử thành lập làng, sự phát triển của làng, ca ngợi những truyền thống tốt đẹp của làng. Mục lục đọc lên để dân làng nhớ về truyền thống tốt đẹp của quê hơng mình, đồng thời để cầu chúc cho xóm làng được ngời yên, vật thịnh.
Cuộc thi có ban giám khảo gồm 12 người, ngồi trên hai dãy chiếu giữa đình; có hương án bày ngoài, hương trầm ngào ngạt, hai bên tả hữu treo 2 giá - một chiêng, một trống. Người đánh chiêng trống mặc áo the dài, thắt lng điều bỏ múi bên cạnh. Người đọc mục lục ăn mặc cũng tề chỉnh, hai bên có 2 người hộ vệ đứng trên ghế cao, cũng áo the quần trắng, thắt lựng lụa điều.
Bản mục lục treo trước mặt. Người nào đọc, thì phải được quan viên đồng ý. Sau khi đánh một hồi chiêng, người đọc mới được vào. Đọc một câu đúng, sẽ có một tiếng trống, một tiếng chiêng lớn. Còn nếu đọc sai, chỉ đánh một hồi chiêng, trống nhỏ. Muốn được giải, ngời đọc phải hơi tốt, giọng hay, đọc diễn cảm và không được sai chữ nào. Ban giám khảo xướng danh người trúng, hôm sau làng cử người mang giải đến tận nhà. Đọc mục lục là một hình thức vui hoạt động văn hoá, thể hiện một tục hay của một làng có văn hiến.
Vào đám thường có múa bài bông. Cây bông làm bằng gỗ, hình trụ, đường kính 4 cm, dài 40 cm. Thân cây bông gọt thành từng đoạn xơ tua như cánh hoa. Vào múa, hai hoặc bốn cô xếp đội hình và mặc quần áo nh lúc tế, có khác là mỗi người thắt ngoài áo một thắt lưng lụa, hai tay cầm hai cây bông. Trong khi múa, cùng với nhịp chiêng, trống, là tiếng pháo nổ, tiếng hò reo, cùng giọng hát của người hát. Múa hết bài, thì ném cây bông ra ngoài sân đình. Ngay lập tức mọi người đứng xem, xô nhau tranh cướp cây bông. Nếu ai cướp được, thì theo quan niệm, người đó sẽ gặp may mắn trong năm.
Hát ca trù còn gọi là ả đào, hát nhà tơ, hát cửa đình. Ca trù là loại hình ca nhạc bác học, thường được dùng hát nơi cửa đình, hội hè, lễ tết. Nội dung hát ca trù là cầu cho dân an, vật thịnh, đó là những bài thơ của các tao nhân mặc khách ngợi ca về phong cảnh thiên nhiên, hay suy ngẫm về cuộc đời,... Cùng với đất Lỗ Khê, Trịnh Xá, thì Lại Đà đã sản sinh ra nhiều ả đào nổi tiếng. Xa kia làng có 2 giáo phường ca trù thuộc họ Nguyễn Phú và họ Ngô (không rõ là họ Ngô nào). Rồi vào khoảng gần cuối thế kỷ XIX, cà trù thất truyền ở họ Ngô, chỉ còn lại giáo phường của họ Nguyễn Phú. Liền chị ca trù nổi tiếng như: Cụ Nguyễn Thị Khuy (1686-1764), vốn là con nhà giáo phường họ Nguyễn Phú, rất giỏi âm nhạc, thơ ca. Bấy giờ trong họ có người vào phủ Chúa Trịnh, nhân thế mà cụ ra vào cung phủ. Họ Nguyễn Phú còn có cụ từng dạy ca trù cho cung nữ nhà Nguyễn và có lần vào thi tại Thanh Hoá, được giải về tài nghệ. Cụ Nguyễn Thị Mướp cũng là một liền chị ca trù nổi tiếng ở đầu thế kỷ XX. Cụ mất năm 1938. Vào quãng những năm từ 1930-1940, về kép đàn có các cụ: cụ Hốt, cụ Tịch, cụ Sầm, cụ Triện, cụ Khánh; các ả đào có: cụ Sậm, cụ Cối, cụ Dẫn, cụ Khoa, cụ Hậu, cụ Liêm,,... Giáo phường ca trù Lại Đà cùng với giáo phường làng Vân Trì cùng thờ một ông, bà tổ. Hàng năm, hai giáo phường định kỳ rước tổ từ làng nọ đến làng kia. Tiếc rằng một trong những cái nôi về ca trù trong vùng là làng ta, đến nay không còn nữa. Đây là một trong những mất mát rất đáng tiếc của làng.
Hội làng ngày nay quy định tổ chức vào ngày 10/3 ân lịch, diễn ra trong 1 ngày. Về các hội, làng khuyến khích sinh hoạt theo các hội, như hội đồng niên, đồng môn, đồng ngũ,... với nội dung lành mạnh, gắn bó tình cảm, giúp đỡ nhau cùng làm ăn tiến bộ.
Tục kết nghĩa các làng:Tục kết nghĩa giữa các làng là một tập tục đẹp, có ý nghĩa quan trọng vì liên kết được các làng, tạo ra sức mạnh trong việc bảo vệ, gìn giữ làng quê. Làng ta ngoài giao hiếu với các làng bên, còn giao hiếu với 3 làng Bắc Cầu. Việc Lại Đà kết nghĩa với 3 làng Bắc Cầu Thượng - Trung- Hạ bắt đầu từ việc làng ta làm đình. Vào dịp làng ta dựng đình vào năm 1853, gỗ mua về vận chuyển đến địa phận Bắc Cầu, thì trời sập tối, dân làng đành phải gửi nhờ dân Bắc Cầu trông giúp. Một chuyện đặc biệt đã xảy ra: Sáng sớm hôm sau, khi sơng đêm còn mờ mịt, dân làng ta thấy những bóng người di chuyển trên đám ruộng trước địa điểm chuẩn bị xây đình. Dân làng nhận ra đoàn người trên là bà con 3 làng Bắc Cầu, họ đang lặng lẽ giúp vận chuyển gỗ. Tin đợc lan truyền, dân làng Lại Đà kéo nhau ra đón tiếp và vô cùng cảm động trước nghĩa cử của dân 3 làng Bắc Cầu. Nhớ việc giúp vẫn chuyển gỗ, sau khi làm đình xong, Lại Đà cử người mang lễ vật sang Bắc Cầu cảm tạ và xin được kết nghĩa với Bắc Cầu. Kể từ ngày đó, vào ngày hội, làng ta lại cử người sang mời chạ anh Bắc Cầu dự hội. Và khi đoàn đại diện chạ anh sang, Lại Đà cử đoàn đại biểu ra đầu đê để đón rước. Đoàn đón rước gồm các quan viên, có cờ lọng, âm nhạc trống chiêng tháp tùng. Khi chạ em Lại Đà sang Bắc Cầu, cũng được chạ anh Bắc Cầu đón tiếp trọng thị từ bến đò vào đình.
Trải qua hơn 150 năm giao hảo, tình nghĩa, nghĩa tình giữa Lại Đà và 3 làng Bắc Cầu luôn luôn gắn bỏ. Nghĩa tình trang ấp đôi làng không chỉ diễn ra theo nghi thức nơi đình trung, điếm sở, mà còn như mạch nước ngầm, thấm đến từng người dân 2 chạ.
Cách mạng Tháng 8 thành công, dân ta vừa trải qua trận đói nặng nề, thì trận lụt gây vỡ đê Vực Dê, làm cả một vùng quê rộng lớn bị ngập lụt. Lại Đà cũng bị lũ nhấn chìm, làng xóm ngập sâu trong nước. Giữa lúc nguy khốn ấy, người anh em Bắc Cầu đã kịp thời sang cứu giúp. Nhiều con thuyền vượt sông Đuống, vào đồng cứu người và tài sản giúp dân làng Lại Đà. Nhờ vậy trong trận vỡ đê năm đó, không có dân làng Lại Đà nào bị chết đuối hay bị lũ cuốn trôi.
Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Pháp mở rộng phạm vi kiểm soát quanh Hà Nội. Bắc Cầu là nơi hàng ngày bị quân giặc vào làng cướp phá. Dân Bắc Cầu phải sang Lai Đà tránh giặc, bà con Lại Đà đã giang tay chia sẻ, đùm bọc người anh em trong cơn hoạn nạn. Đêm đêm, du kích Ngọc Thuỵ, Bắc Cầu qua sông Đuống diệt tề, trừ gian; ban ngày họ trở lại Lại Đà nghỉ ngơi, tập luyện. Đặc biệt vào năm 1948-1949, du kích Ngọc Thuỵ đang đóng ở Lại Đà, thì giặc Pháp vây làng, du kích hai làng đã kề vai sát cánh, phối hợp chiến đấu, diệt được 2 tên giặc và làm bị thương một số tên khác. Năm 1971 Bắc Cầu bị đất lở sát đình, Lại Đà gánh 200 gốc tre để Bắc Cầu trồng chắn sóng.
Năm 1994 Lại Đà làm lại đường làng, Bắc Cầu cử đoàn sang thăm hỏi và giúp một khoản tiền, gọi là "của ít lòng nhiều". Năm sau chạ anh Bắc Cầu làm đường, chạ em Lại Đà lại cử ngời sang phúc đáp. Mùa xuân năm 2003, Bắc Cầu khánh thành đình mới, Lại Đà cung tiến đôi câu đối:
Nghĩa ấp quang huy thiên niên giao hữu truyền tự cổ
Đức dân phồn thịnh vạn đại liên chi hiển vu kim
Tình nghĩa giữa Lại Đà và Bắc Cầu ngày càng gắn bó keo sơn. Vì vậy dân làng Lại Đà có câu ca dao:
Dô ta kéo gỗ làm đình
Gỗ lim tuy nặng, nhưng tình nặng hơn.
Các bút tích, văn tự.....Di sản ấy gồm: các đại tự, hoành phi, câu đối ở đình, chùa, miếu, cổng ngõ, ở các nhà thờ họ, các tư gia; thần phả Thành hoàng và Thánh mẫu, hương ước; các gia phả họ; các ghi chép của người xa còn lưu lại; các bút tích, tư liệu, tranh ảnh trước đây,... Đây là di sản vô cùng quý báu của dân làng. Có một thời, do chưa thấy hết giá trị của nó, chúng ta đã giữ gìn chưa chu đáo, thậm chí còn làm mất đi một phần không nhỏ kho di sản ấy.
Nhưng di sản hiện còn giữ được:
- Ghi chép về các sắc phong từ đời Vua Nhân Tôn (nhà Lê) và triều Nguyễn.
- Bản thần phả Thành Hoàng và thần phả Thánh mẫu viết năm tháng 9 năm 1925 bằng chữ Hán. Đặc biết, khi trùng tu lại đình vào năm 2002 -2003, hạ bức hoành phi xuống, thấy phía sau có bản thần phả Thành hoàng viết bằng chữ Hán.
- Lai lịch bản chép sự tích Thánh Mẫu bằng chữ Hán: Cho đến đời Vua Duy Tân (1907 - 1916), ghi chép về thần phả và miếu thờ Thánh Mẫu mà dân làng còn lưu giữ bị ố mờ, rách nát nhiều chỗ. Trước việc ấy, làng cử người lên đền Hùng (tỉnh Phú Thọ) mượn bản Thần phả Thánh Mẫu lưu trữ tại đây, chép rồi đa về làng. Qua bản cũ ở làng (bản này chỉ còn vài chục trang và ố rách nhiều chỗ) và bản lưu trữ tại đền Hùng, đối chiếu, so sánh, bổ sung, rồi thảo ra bản đang lữu giữ đến ngày nay (2003). Được biết, do điều kiện đi lại hồi đó rất khó khăn, chi phí cho việc ấy tới 100 quan. Sau bản thần phả bị ố mờ, cụ Vương Khắc Hảo đã chép lại và dịch ra chữ quốc ngữ, Tú Tài Nguyễn Bá Bảo và Cử nhân Nguyễn Bá Huấn dịch ra Anh ngữ và Pháp ngữ, ông Nguyễn Phú Sơn biên tập thành quyển "Thần phả Thành hoàng và Thánh mẫu làng Lại Đà" và cung tiến làng vào năm 1996.
- Bản "Thần tích - Thần sắc" của Lại Đà (năm 1938, trường Bác Cổ khảo cứu sự tích thần và phong tục các làng, nên lý hào và hương thôn đã ghi lại và trình lên).
Về hương ước: Hiện còn giữ được:
- Bản bằng chữ Hán, chép và dịch vào năm 1942
- Bản viết bằng chữ quốc ngữ năm 1938 (bản hương ước viết năm 1938 của làng ta là bản cải biên từ bản hương ước viết vào năm 1923).
Hiện nay tại đình, chùa, miếu còn lưu giữ rất nhiều các bức đại tự, hoành phi, câu đối. Tại đình có một số bức được cung tiến từ xa và nhiều bức cung tiến từ đời vua Thành Thái trở lại đây. Số bức đại tự, câu đối, hoành phi rất nhiều tại nhà thờ họ và tư gia, có bức với niên đại cách đây hàng trăm năm. Có thể thấy ở các nhà thờ họ, như Ngô Duy, Ngô Bá, Vương Khắc, Nguyễn Phú, Nguyễn Văn, Vương Hữu,....
Về các cuốn gia phả họ cổ, cho đến nay ở làng ta còn biết được khoảng năm, sáu cuốn. Các cuốn gia phả chứa đựng nhiều thông tin quý giá. Cuốn gia phả của họ Ngô Quý bắt đầu viết vào năm 1825 và các đời sau tiếp tục viết tiếp và vào năm 1942 đã viết tới đời thứ 16 của dòng họ này. Cuốn gia phả họ Nguyễn Phú, chi Bính, viết năm 1907 bằng chữ Hán cũng có nhiều sự kiện quan trọng,.v.v...
Chính qua các di sản trên, mà hiện nay chúng ta biết được một phần quá khứ của làng xưa, như khoảng thời điểm lập làng, quá trình hình thành và phát triển của làng, một số công trình xây dựng vào năm nào, xây dựng ra sao, như chuông chùa đúc năm 1844, cổng xóm 7 xây vào năm 1849, đình
làng xây vào năm 1853, ngôi nhà cổ của cụ Nguyễn Văn Tường dựng vào năm 1859, nhà thờ họ Nguyễn Phú kiến tạo năm 1865. Qua câu đối ở nhà thờ họ Vương Khắc, khẳng định thêm về quê quán của Thám Hoa Vương Khắc Thuật. Nhờ cuốn gia phả họ Ngô Quý, mà chúng ta biết được một số nhân vật, sự kiện và những đóng góp với làng, như một số cụ thuộc dòng họ Ngô Quý đã chù trì việc sửa chữa ngôi đình cũ; nhiều năm loạn ly ở làng và cho đến 1841 mới đại xá và năm 1852 mới thực sự yên ổn; rồi đại dịch suốt cả mùa hè 1887; những liền chị ca trù nổi tiếng của làng từ giữ thế kỷ XVIII. Cũng nhờ các cuốn gia phả xa, mà gần đây, một số họ đã viết tiếp gia phả của họ mình. Rồi những bức ảnh về đội du kích xã Đông Hội chụp năm 1951, về đội Bạch đầu quân, Đại hội chi bộ thôn, cổng làng, nhật ký, những bài thơ, bút tích của một số liệt sỹ thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ,....
Để giữ gìn, phát triển những di sản của tổ tiên, của ông cha, đã có công sức đóng góp của rất nhiều thế hệ dân làng. Trong công lao giữ gìn, truyền bá di sản xa, không thể không nhắc tới Cử nhân Ngô Quý Doãn. Ngoài các bút tích của cụ còn lưu ở nhiều hoành phi, câu đối của đình, chùa, miếu, cụ còn để lại nhiều văn tự khác, như thần phả Thành hoàng, thần phả Thánh Mẫu, tập "Đối liên lưu bút tích tại bản thôn". Còn được biết lúc sinh thời, cụ có một số tác phẩm, trong đó đáng lưu ý là cuốn sử của làng ta, gồm 6 tập. Tiếc rằng nhiều tác phẩm của cụ, trong đó có cuốn sử làng ta, không rõ hiện đang lưu lạc ở đâu. Hy vọng rằng dân làng sẽ tìm lại được.
Trong thời gian gần đây, có thể kể tên một số người đã có những đóng góp trong công việc này: ví dụ như cụ Vương Khắc Hảo, đã giữ gìn, bảo quản bản thần phả Thành hoàng, Thánh Mẫu, bản hương ước bằng chữ hán; ông Nguyễn Phú Sơn và Vương Khắc Côn tra cứu, tập hợp các câu đối, hoành phi tại đình, chùa, miếu, đã dịch sang chữ quốc ngữ; Ông Vương Khắc Tăng và Nguyễn Phú Sơn mất nhiều công sức để sưu tầm, nghiên cứu về những tư liệu trước cách mạng tháng 8 và kháng chiến chống Pháp; cô Nguyễn Thị Tường Anh sưu tầm Bản "Về thần tích - Thần sắc" và bản hương ước viết năm 1938; cụ Ngô Duy Tiên giữ gìn tập ảnh: cổng làng, cổng xóm 7, Đại hội Chi bộ thôn năm1966-1967; Gia đình cụ Vương Thị Hợi (Đô), cụ Tuyết giữ gìn bút tích của liệt sỹ; cô Nguyễn Thuỷ giữ cuốn nhật ký của mẹ là cụ Vương Thị Thu; v.v...
Các di sản trên là hết sức quý báu, nó chứa đựng nhiều thông tin xa của làng. Để kế tục, phát huy các di sản của tổ tiên và thế hệ đi trước, chúng ta cần phải có ý thức lưu giữ, tập hợp, bổ sung và quảng bá. Việc biên soạn, xây dựng cuốn sách "Lại Đà xa và nay" cũng là một trong những công việc đó.
Nho họcTrong khoa trường thi cử Hán học: đỗ Tú tài gọi là tiểu khoa; đỗ Cử nhân gọi là trung khoa; đỗ Phó bảng, Tiến sỹ gọi là đại khoa. Đỗ tiểu khoa, một làng đi rước; đỗ trung khoa một tổng đi rước; đỗ đại khoa, một huyện đi rước.
Đỗ Đại khoa:Lại Đà và Cự Trình là hai làng cùng thuộc xã Hội Phụ, nên vẫn gọi là "nhất xã nhị thôn". Cự Trình là đất khoa bảng, có nhiều vị đỗ đại khoa nổi tiếng trong vùng. Cùng với Cự Trình, Lại Đà cũng được ngợi khen là đất văn hiến. Từ khoa Giáp trong câu đối ở văn chỉ là biểu thị ở làng có người đỗ đại khoa. Dân làng ta rất tự hào có người đỗ đại khoa sớm nhất và cao nhất của xã Hội Phụ, đó là cụ Vương Khắc Thuật. Cụ đỗ Đệ nhất giáp tiến sỹ cập đệ đệ tam danh (tức Thám Hoa) khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 3 (1472) triều Lê Thánh Tông.
Đậu trạng nguyên khoa này là cụ Vũ Kiệt, người huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Thám hoa là một trong ba “học vị” cao nhất (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) của kỳ thi đình. Đồng khoa năm ấy ở làng Hội Phụ có cụ Chử Phong, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân, làm quan đến hình giám sát ngự sử.
Trong thời kỳ này, cùng với Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh, Thám Hoa Lê Ninh, Thám hoa Vương Khăc Thuật là những nhà ngoại giao xuất sắc. Cụ Vương Khắc Thuật từng theo học nhà giáo nổi tiếng Trần Ích Phát, quê ở làng Triều Dương, xã Cổ Thành, huyện Chí Linh, Hải Dương. Cụ Trần Ích Phát là một nhà sư phạm tài năng, học trò theo học rất đông, cụ có tới 68 học trò đậu Tiến sỹ, trong đó 17 người chiếm bảng tam khôi.
Ở làng Lộc Hà có đền thờ cụ và tại nhà thờ họ Vương Khắc có bia ghi công tích của cụ. Xin giới thiệu nội dung một đôi cấu đối thờ ở nhà thờ họ Vơng Khắc:
Hệ truyền phiệt duyệt Lê Tam giáp
Quan tuyệt phong lu Tấn tứ thầnTạm dịch là:
Họ này có quan đỗ hàng Tam giáp đời Lê
Đức độ, tài ba ngang hàng tứ trụ nhà Tần
Còn tại đền ở làng Lộc Hà có đôi câu đối thờ:
Thám hoa biệt nghiệp kim thành tụ
Thượng tướng linh từ cổ hữu danhĐỗ cử nhân
Sang đến cuối triều Lê, đầu Nguyễn, tuy Lại Đà không có người đỗ đại khoa, nhưng số Cử nhân, Tú tài lại rất đông.
1- Cụ Nguyễn Văn Trực, đỗ Hương cống thời Hậu Lê
2- Cụ Lương Đẩu, đỗ Hương cống năm Quý Mão (1783), đời Vua Lê Hiển Tông
3 - Cụ Nguyễn Bá Khiêm, đỗ Cử nhân năm thứ 5 triều Tự Đức (1852). Cụ từng làm Tri huỵện huyện Phủ Cừ một vài năm, rồi cáo quan, về quê sống một cuộc đời thanh bạch. Cụ để lại đôi câu đối răn dạy con cháu:
- Tầm thường khoa hoạn khai môn hộ
- Thanh bạch, phong thanh dụy tử tôn
Tạm dịch là:
- Đỗ Cử nhân ra làm quan cũng là việc bình thường thôi, nhưng là người mở đầu cho việc học hành của gia tộc
- Sự trong trắng là tài sản, tiếng thơm cụ để lại cho con cháu
4- Cụ Ngô Quý Doãn (1877-1956) đỗ Cử nhân năm Thành Thái thứ 13 (1900). Cụ đã qua trường Hậu bổ, những không ra làm quan, mà ở nhà dạy học và từng tham gia phong trào Văn thân chống Pháp. Là người đạo cao, đức trọng, kiến thức uyên thâm, cụ mở trường dạy học ở quê nhà tới gần nửa thế kỷ. Nhiều gia đình đời cha theo học, sang đời con cũng theo học cụ. Chữ của cụ còn để lại trên nhiều hoành phi, câu đối ở đình, chùa, nghè Lại Đà và nhiều đình, miếu khác trong vùng. Tiếc rằng tác phẩm thơ, phú của cụ đã bị thất lạc, nay chỉ còn tập tập "Đối liên lu bút tích tại bản thôn", ghi chép lại các câu đối ở đình, chùa, miếu, nghè Lại Đà. Cụ là người có công trong việc cải lương hương tục. Trong nhiều năm làm Tiên chỉ, cụ đã loại bỏ một số hủ tục, góp phần xây dựng làng Lại Đà tiến hoá, văn minh hơn. Cụ rất ghét những tên hào lý đục khoét dân, xin kể ra câu chuyện Tổng Noi:
Chánh tổng Noi bị chết đuối, trôi qua một bến đò ở gần làng ta. Dân làng giáp bến đò kia làm phúc vớt lên, chôn cất. Do chết bất đắc kỳ tử, nên người ta đồn, Tổng Noi rất thiêng, dân ở đó xây miếu thờ. Miếu nằm ẩn mình dưới bóng cây cổ thụ và nằm phía sau 3 ngôi đền Thượng, Trung, Hạ. Do nơi đây cây cao bóng mát, người đi cắt cỏ, làm đồng về, thường hay ngồi nghỉ. Thế rồi xuất hiện tin đồn, có người bị Tổng Noi vật, phải đến cầu xin mới khỏi. Xây miếu xong, dân địa phương vào xin cụ Cử Doãn câu đối thờ, cụ cho như sau:
Lâm giang cổ miếu tam linh hạ
Táp thụ hùng phong thập lý lai
Và 3 chữ đại tự : "Kim vị liệt"Tạm dịch là:
- Ngôi miếu bên bến đò đứng dưới 3 ngôi đền Thành Hoàng - miếu đứng sau bét.
- Xưng hùng, xưng bá ở quanh mấy gốc cây cổ thụ (ý chê Tổng Noi nhỏ nhen, còn một ý nữa cụ là hàng trên, Tổng Noi chỉ là Chánh tổng. Từ đó đền hết thiêng.
Đỗ tú tài: 1 - Cụ Ngô Duy Phác, đỗ thời Hâu Lê.
2 - Cụ Lương Lệnh, đỗ Tam trường, khoa Giáp Ngọ thời Hậu Lê.
3 - Cụ Lương Hồng Lê, đỗ Tứ trường, năm Kỷ Dậu, thời Hậu Lê.
4 - Cụ Ngô Quý Định (1791 -1825), đỗ Tú tài năm Quý Dậu (1813). Khoa thi hương này, cả nước có 82 người đỗ Cử nhân; còn tại trường thi Thăng Long có 16 người đỗ Cử nhân.
5 - Cụ Ngô Bá Thiệm (Bối Hiên), đỗ năm 1852
6 - Cụ Nguyễn Bá Đảng, đỗ thời Nguyễn, triều Tự Đức (không rõ đỗ năm nào).
Ngoài đội ngũ nho học đỗ đạt, ra làm quan, còn rất nhiều người học vấn uyên thâm, nhưng lận đận trong khoa cử. Theo quan niệm trước đây "tiến vi quan, đạt vi sư", người có học vị cao thì xuất chính, còn không đỗ đạt, thì làm thầy: nho, y, tướng, số, những nghề nghiệp đợc thời xưa trọng vọng. Những thầy thuốc nổi tiếng ở làng còn truyền lại, như các cụ tổ họ Ngô Quý. Cụ Ngô Quý Vọng là người khởi nghiệp nghề y của họ Ngô Quý, làm thuốc nổi tiếng tổng Cói. Dòng họ Ngô Quý còn rất nhiều người hành nghề y nổi tiếng, như cụ Ngô Quý Ôn, từng chữa trị cho quan xứ Tuyên Quang. Cụ Tương Dũng, cũng nổi tiếng nghề thuốc trong vùng. Hiện con cháu cụ còn giữ câu đối thờ:
- Xa mã tiền trình, tứ thập dư niên công tại quốc
- Công hầu cố lý, lục tuần linh thất thọ vu gia.
Song đông đảo nhất vẫn là các thầy đồ. Nhiều làng vì muốn có chữ cho con cháu, đã đón thầy về làng dạy học. Từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1945, ở làng có tới 4 lớp Hán học. Các lớp đều đặt ở nhà thầy. Theo học, học sinh không phải đóng học phí, có chăng là quà cáp biếu thầy vào các ngày lễ tết, hay dịp nhà thầy có việc. Thí dụ tết Nguyên Đán, thì mang tiền đến tết thầy; tết tháng 5 thì biếu ngỗng; tết trung thu thì biếu hồng và cốm. Khi thầy mất, học trò phải chở thầy. Hàng năm giỗ thầy, do Hội đồng môn tổ chức. Vì vậy mới có câu: Sống tết, chết giỗ. Trước cách mạng Tháng 8 ở làng có 4 hội đồng môn. Mấy năm gần đây, nhiều học trò cũ vẫn đến giỗ thầy Ngô Quý Doãn, Trịnh Xuân Thâm, Nguyễn Hữu Quý, Ngô Duy Chí.
Học chữ Quốc ngữĐể từng bước thay thế dân lớp quan lại Hán học bằng lớp quan lại Tây học, chính quyền thực dân đã mở trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Vì vậy ở Bắc kỳ, kỳ thi Hán học năm 1915 và Trung kỳ, năm 1918, bị bãi bỏ. Thay vào đó là hệ thống trường học do Nhà nước bảo hộ. Ở Bắc và Trung kỳ, các bậc tiểu học và trung học được ấn định như sau:
a - Ấu học: Bậc này do các xã, thôn lập, trước đó gọi là hương trường hay sơ học. Chương trình học gồm các lớp như sau: lớp đồng ấu hay lớp 5; lớp dự bị hay lớp tú; lớp sơ đẳng hay lớp ba. Cuối lớp ba, học sinh thi lấy bằng Yếu lược (Sơ học yếu lược).
b- Tiểu học: Học sinh học lớp nhì năm thứ nhất, lớp nhì năm thứ hai và tiếp đó là lớp nhất. Học sinh học hết lớp nhất thi lấy bằng Sơ đẳng tiểu học hay Sơ học Pháp - Việt.
c- Trung học gồm 2 cấp: Cao đẳng tiểu học và Tú tài. Cao đẳng tiểu học còn gọi là trung học đệ nhất cấp, chương trình học bốn năm, cuối năm thứ tư thi lấy bằng Diplôme, nếu tiếp tục học bốn năm nữa sẽ thi lấy bằng tú tài.
Mặc dù bãi bỏ kỳ thi Hán học ở Bắc kỳ vào năm 1915 và các trường học dạy chữ Quốc ngữ được mở ra, nhưng việc triển khai rất chậm chạp. Vào năm 1927, Cụ Nguyễn Bá Đảng mở một lớp dạy chữ Quốc ngữ ở làng. Chương trình dạy thế nào, đến nay không biết rõ nữa. Ngoài ra, làng còn có lớp dạy chữ Nho, kiêm dạy chữ Quốc ngữ, do cụ Cử Doãn dạy.
Những năm 1930 -1931, cả tổng Hội Phụ (gồm Mai Lâm, Đông Hội ngày nay) mới có một trường ấu học, đặt ở làng Lê Xá và chỉ có khoảng 30 học sinh, do một thầy giáo dạy ghép 3 lớp.
Khoảng năm 1934-1935 Lại Đà mới có trường ấu học (tương đương từ lớp 1 đến lớp 3 ngày nay). Người dạy đầu tiên là thầy Phạm Quang Chiểu, người xã Tam Tảo, huyện Yên Phong; kế tiếp đó là các thầy Ngô Bá Thu, người Lại Đà; rồi thầy ích, thầy Chi, người Đình Bảng. Trường học hồi đó có khoảng 40 học sinh, học các lớp 5, 4 và 3. Học sinh chủ yếu là người Lại Đà, ngoài ra còn ở Đông Ngàn, Đông Trù, Xuân Trạch,... Những học sinh người làng ta học trường này rồi theo cách mạng, như Ngô Qúy Cư, Ngô Thiệu Lễ, Vương Khắc Quy, v.v... Vào đầu thập niên bốn mơi của thế kỷ trước, trường hoạt động khá tốt. Có lần quan Huấn đạo về kiểm tra nhà trường, do giảng dạy tốt, học sinh đỗ cao, thầy Phạm Quang Chiểu được khen ngợi. Do ảnh hưởng của Đại chiến thế giới II, tình hình trong nước cũng có nhiều biến động, học sinh giảm dần. Rồi Nhật hất cẳng Pháp vào tháng 3/1945, trường học đã bị giải thể. Như vậy, trường ấu học Lại Đà tồn tại được khoảng 10 năm.
Nhờ Lại Đà có trường dạy chữ Quốc ngữ sớm, nên so với nhiều nơi khác, số người biết chữ Quốc ngữ ở làng là tương đối cao. Nhiều phụ nữ con nhà khá giả cũng có bằng Sơ học yếu lược, như bà Bỉnh, bà Nhặt, v, v. Một trong những người có bằng Sơ học yếu lợc lớp đầu tiên tại làng là cụ Ngô Thiệu Nhâm (năm 2004 cụ ở tuổi 85). Về đỗ đạt, có bằng Tú tài và Cử nhân Tây học sớm nhất ở làng là các cụ Nguyễn Phú Phương, Nguyễn Bá Bảo (đỗ tú tài), Nguyễn Bá Huấn (đỗ cử nhân). Cụ Nguyễn Bá Bảo đậu Tú tài tại trường "Bưởi" năm 1942. Là hậu duệ đời thứ ba của Cử nhân Nguyễn Bá Khiêm, cụ Tú Bảo tham gia cách mạng từ đầu năm 1945, vào Đảng năm 1949, năm 1978 đến 1982 là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền VN tại AUSTRALIA và NEW ZEALAND.
Chiến dịch diệt dốt: Tuy làng ta có trường học chữ Quốc ngữ tương đối sớm, song tỷ lệ người được đi học so với số dân thì rất thấp. Ngay sau cách mạng tháng 8, mặc dù tình hình hết sức khó khăn, nạn đói còn đe doạ và trận lụt do vỡ đê sông Hồng, nhưng dân làng vẫn tích cực tham gia phong trào diệt giặc dốt. Lớp học mở ở nhiều nơi: ở đình, ở điếm, ở tư gia. Xóm làng rộn ràng tiếng đánh vần o...a. Thầy giáo là những người trong làng, với tinh thần, người biết chữ dạy người cha biết chữ, người biết nhiều dạy người biết ít. Lớp học cũng đủ hình, đủ dạng: có lớp chỉ có năm, ba người; có lớp cụ già râu tóc bạc phơ, ngồi học bên đứa trẻ mái đầu còn xanh. Người đi học cũng rất say mê, học mọi lúc, mọi nơi, học trong lúc giã gạo, học trong lúc đun bếp, học trong lúc chăn trâu. Để động viên phong trào, nhiều khẩu hiệu viết bằng vôi lên các bờ tờng:
"Lấy chồng biết chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên con bò"
Hay:
"O a hai chữ khác nhau
Vì a có nối móc câu bên mình."
Nhờ phong trào diệt dốt, chỉ sau 6 tháng, hàng trăm người đã thoát nạn mù chữ. Tiếc rằng phong trào diễn ra chưa được bao lâu, thì chiến tranh nổ ra. Trong thời kỳ "tạm chiếm", vào năm 1951-1954, nhờ có hương sư Ngô Quý Cầm mở lớp học tư gia, nên một số trẻ ở Lại Đà được theo học. Chương trình do thầy Cầm tự soạn, dựa trên tài liệu thời Pháp thuộc. Học sinh học các môn: tập viết, ám tả và 4 phép tính (cộng, trừ, nhân, chia). Nhờ vậy một số em thoát khoải cảnh mù chữ.
Sau hoà bình năm 1954, phong trào Xoá nạn mù chữ và Bình dân học vụ lại diễn ra sôi nổi. Lại Đà được huyện Từ Sơn công nhận là làng có phong trào xoá nạn mù chữ xuất sắc. Một số người trong ban Bình dân học vụ được công nhận là chiến sỹ diệt dốt, như cụ Nguyễn Văn Tường, cụ Vương Khắc Đễ,...
Đầu năm 1955 trường phổ thông cấp I Đông Hội được thành lập, khóa học 1956-1957 trường đã có đủ từ khối 1 đến khối 4. Đến năm học 1961-1962, trờng phổ thông cấp II Đông Hội chính thức được thành lập.
Phong trào học tập ngày nay: Trẻ em đến tuổi đa số đã đến nhà mẫu giáo. Nhà mẫu giáo thôn được xây dựng vào năm 1987-1988. 100% trẻ từ 6 tuổi đều đến học lớp 1 tại trường tiểu học của xã; tiếp đó học THCS; rồi lên tiếp trường THPT của huỵện. Hiện nay số trẻ đến trường tính từ mẫu giáo đến các cấp phổ thông có khoảng gần 600 em.
Tính đến năm 2003 số con em Lại Đà tốt nghiệp từ Đại học trở lên, tới hàng 100 người và một số người đang là nghiên cứu sinh hoặc theo học cao học. Đặc biệt Làng hiện có 6 Giáo sư, Tiến sỹ:
+ GS.TS Nguyễn Bá Hào (1932-2001): Là hậu duệ đời thứ tư của Cử nhân Nguyễn Bá Khiêm. Tốt nghiệp đại học khoa học tự nhiên Hà Nội 1954; bảo vệ thành công luận án Tiến Sỹ tin học năm 1964 tại MAXCƠVA, từng là Giáo sư. TS giảng dạy tại trường đại học Bách khoa, Tổng hợp Hà Nội; tiếp đó làm chuyên gia tại ALGERIA rồi giảng dạy tại trường đại học Kỹ thuật thuộc Cộng hoà Pháp. Cụ là vị Giáo sư. TS đầu tiên của làng.
+ GS.TS Nguyễn Phú Trọng: Sinh 14/4/1944. Từ năm 1963-1967 học Khoa Ngữ Văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội; bảo vệ PTS tại Liên xô 1983; được công nhận là Giáo sư năm 2002; Uỷ viên Ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản VN và Tổng biên tập tạp chí Cộng Sản năm 1991; hiện nay là Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
+ PGS.TS Nguyễn Thị Lẫm: Sinh 18/4/1948. Tốt nghiệp đại học Nông nghiệp năm 1969; bảo vệ luận án Tiến sỹ tại Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp năm 1994; được công nhận là Phó giáo sư năm 2003; hiện là Phó trưởng khoa Khoa Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, trường đại học Nông lâm Thái Nguyên. Đây là vị nữ Phó giáo sư.TS đầu tiên của làng.
+ Tiến sỹ Ngô Duy Ngọ: Sinh 1954. Bảo vệ luận án Tiến sỹ Kinh tế tại Vương quốc Bỉ, hiện công tác tại Đại sứ quán UKRAINE.
+ Tiến sỹ Ngô Trọng Mại: Sinh 17/9/1955. Tốt nghiệp đại học Bách khoa năm 1978; phong Thượng tá quân đội nhân dân VN năm 2001; bảo vệ luận án Tiến sỹ toán học năm 2003.
+ Tiến sỹ Lương Minh Việt: Sinh 1958. Tốt nghiệp đại học Bách khoa 1987; bảo vệ luận án Tiến sỹ kinh tế năm 1993; hiện là giảng viên Học viện Hành chính quốc gia, Bộ Nội vụ.
Để khuyến khích phong trào hiếu học, trong Quy ước làng văn hoá xây dựng năm 1998 có điều quy định: Hàng năm vào dịp tết Nguyên đán, để động viên, khen thưởng các cháu, làng tổ chức buổi gặp mặt các học sinh giỏi cấp phổ thông và sinh viên tiên tiến. Làng có quỹ khuyến học, hàng năm tổ chức phát phần thưởng cho các học sinh giỏi các cấp học vào dịp 2-9. Một số họ trong làng có quỹ khuyến học để khuyến khích các cháu chăm chỉ học hành.
Những nhà giáo ở Lại ĐàTheo quan niệm trước đây "tiến vi quan, đạt vi sư", người có học vị cao thì xuất chính, còn không đỗ đạt, thì làm thầy nho, y, tướng, số. Làng ta được nhiều vùng biết tới cũng là do có các vị đồ nho danh tiếng. Nhiều làng vì muốn con có chữ, phải đón thầy nơi khác về dạy học, riêng Lại Đà thì không phải mời thày nơi khác đến. Xa xưa thì không còn rõ nữa, nhưng vào thời hậu Lê, có cụ Ngô Quý Ôn (1785-1865) văn hay chữ đẹp, được "Thượng ti" khen ngợi. Cụ Ngô Quý Dự (1810-1887) tham gia Học Hải Hội của thôn, cụ còn có tác phẩm: "Thuận Hiên di tập". Vào thời Tự Đức, có cụ Ngô Bá Thiệm, đỗ Tú tài, về mở trường dạy học ở quê, học trò theo học rất đông. Tiếp đến con cháu cụ cũng giữ được nghiệp nhà. Hay như họ Lương, các cụ mở trường dạy học. Hiện con cháu còn giữ được nhiều hoành phi, câu đối do học trò cúng viếng. Nơi các cụ dạy học, những làng ven sông Đuống, dân ở đây vẫn còn nhắc tới các cụ. Họ Nguyễn Phú có cụ đồ Liễn, là một bậc túc nho uyên thâm, tiếc rằng khoa trường lận đận, 7 lần lều chõng cũng chỉ đến tam trường. Cụ làm nghề y, số, địa lý, kiêm nghề dạy học. Vùng Đồng Kỵ, nhiều người còn biết tiếng cụ hay chữ. Tiên sinh Ngô Quý Lương (1856-1927) là thầy đồ được nhiều học sinh theo học. Vào những năm 20 và 30 của thế kỷ XX có những thầy đồ có tiếng như: Ngô Bá Nhượng, Trịnh Xuân Thâm, Nguyễn Hữu Quý, Ngô Duy Chí (Chắt Chí),... Một trong những nhà giáo không thể không nhắc tới, đó là Cử nhân Ngô Quý Doãn, cụ mở trường dạy học ở làng tới gần nửa thế kỷ (Thân phụ của cụ là tiên sinh Ngô Quý Lương). Cụ Cử Doãn dạy chữ Nho và kiêm cả chữ quốc ngữ.
Sang thế hệ các nhà giáo dạy chữ quốc ngữ: Vào năm 1927, Cụ Nguyễn Bá Đảng mở một lớp dạy Quốc ngữ ở làng. Đến năm 1934 -1935 Lại Đà có trường ấu học, có các thầy Ngô Bá Thu;... Ngoài dạy tại làng, nhiều thầy giáo người Lại Đà còn đi dạy ở các nơi khác, như các cụ: Nguyễn Bá Ngạn (dạy ở Phú Thọ), Nguyễn Bá Hân (dạy ở Nam định và Hà Nội), Nguyễn Phú Lan (dạy ở Nam định), Trịnh Xuân Uyển (dạy ở Du Lâm, Mai Lâm). Sau cách mạng Tháng 8 có cụ Tú Bảo, cụ Cử Huấn (cụ Cử Huấn và cụ Đặng Thai Mai được cử phụ trách trường Phan Chu Trinh, trường trung học quốc lập đầu tiên của Hà Nội dưới chế độ mới).
Những năm 1951-1954, ở làng có hương sư Ngô Quý Cầm, mở lớp học tư gia. Một số năm sau hoà bình năm 1954 là GS. TS Nguyễn Bá Hào, dạy tại trường đại học Bách Khoa và đại học Tổng Hợp HN; thầy Nguyễn Phú Sơn, dạy tại Thạch Thất năm 1957, từ 1958 -1962 dạy ở Tuyên Quang, từ 1965- 1984 là hiệu trưởng trường cấp II Đông Hội. Đầu thập niên 60 có các thầy: Nguyễn Xuân Hỷ, Vương Khắc Côn. Thế hệ kế tiếp là các thầy: Ngô Bá Dục, Vương Hữu Hinh, Ngô Thiệu A, Nguyễn Văn Âu, Ngô Quý Lệ (thầy Dục hiện là Hiệu trưởng trường PTTH Cổ Loa, thầy Ngô Văn Âu hiện là Hiệu trưởng trường PTCS Đông Hội). Tiếp đó là các thầy cô: Vương Thị Thái, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Phú Nam,... (thầy Nguyễn Phú Nam từng là Hiệu trưởng trường PTCS Đông Hội, huyện uỷ viên huyện Đông Anh).
Cho tới nay, đội ngũ các nhà giáo người Lại Đà lên tới bốn, năm chục người. Các thầy cô dạy ở làng, dạy tại các vùng quê khác, dạy ở trường phổ thông, dạy đại học.
Ngoài những đóng góp trong sự nghiệp "trồng người", thì không thể không nhắc tới sự đóng góp và cả sự hy sinh của nhiều thầy cô giáo người Lại Đà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thầy Nguyễn Phú Nghị là nhà giáo đầu tiên lên đường nhập ngũ. Thấy đã chiến đấu và anh dũng hy sinh ở chiến trường miền Nam. Rồi các thầy cô: Nguyễn Văn Âu, Nguyễn Thị Tâm, Vương Khắc Côn, Nguyễn Phú Nam đã tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Năm 1972 để chi viện cho giáo dục vùng giải phóng, nhiều thầy cô đã lên đường, như Ngô Thị Dần, Nguyễn Xuân Hỷ, Vương Hữu Hinh, Vương Thị Hiền.
Cưới xin Xưa, việc kết hôn nam nữ, dựng vợ gả chồng cho con cái, luôn là việc hệ trọng. Vì vậy mới có câu: "Hôn nhân đại sự". Ngày xa tuổi lấy vợ, lấy chồng, thì gái thập tam, nam thập lục, tức là gái 13 tuổi, trai 16 tuổi là cái tuổi đã lấy được nhau. Việc gả bán con cái hoàn toàn do cha mẹ quyết định, cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đấy.
Việc cưới gả, thì môn đăng hộ đối, luôn được hai gia đình xem trọng. Sau khi đã xem xét mọi mặt, đặc biệt là tuổi tác của đôi trẻ có hợp nhau không, nhà trai sẽ nhờ bà mối (hoặc ông mối) sang nhà gái đánh tiếng, rồi bà mối tổ chức cho nhà trai sang nhà gái xem mặt. Đó là tục vấn danh (so tên tuổi)
- Lễ chạm ngõ: Dù giàu, nghèo, lễ chạm ngõ đều phải tuân thủ lễ tiết, phải chọn ngày tốt. Từ sáng sớm, nhà trai sắm một lễ để cáo với tổ tiên, sau đó sửa lễ sang nhà gái, tối thiểu cũng là cơi trầu têm độ chục miếng, nhà giầu thì cả buồng cau, mứt sen, trà lạng. Bà mối hay ông mối dẫn bà cô, ông cậu của chàng trai đến nhà gái. Sau ngày chạm ngõ, chú rễ phải thường xuyên đi lại, thăm hỏi gia đình nhà gái. Nhà trai phải sêu tết nhà gái vào các dịp lễ, tết, các ngày giỗ chạp, các công việc hệ trọng của nhà gái. Ngày giỗ thì lá trầu, quả cau, chai rượi; tết Đoan ngọ thì cặp ngỗng; tết trung thu thì hồng cốm; vào mùa cơm mới là đôi cá trắm, cá chép. Thông thường chàng trai phải đi về nhà cô gái độ đôi ba năm.
-
Lễ xin cưới: Sau vài ba năm suôn sẻ, nhà trai mượn người xem tuổi cô gái đã được tuổi cới cha. Thường cô gái vào tuổi chẵn là cưới được:14, 16, 18. Trước ngày cưới độ một tháng, bà mối sang xem nhà gái cần gì, gọi là thách cưới. Nhà nghèo thì đơn giản: ba lễ mặn, mỗi lễ là một con gà, đĩa xôi, kèm theo trầu, rượu. Nhà có thế lực, có "máu mặt", thì thách to, nào khuyên vàng, xà tích, chăn bông, quần áo mấy bộ cho cô dâu, tiền mặt. Sau khi giá cả đã nhất trí, nhà gái hẹn ngày "nạp thái giao ngân", nhà trai phải dẫn đủ lễ nghi như nhà gái đã thách. Nếu còn thiếu gì, nhà trai khất đến ngày đón dâu.
Sáng sớm nhà trai làm lễ cáo với tổ tiên mình, rồi mang lễ sang nhà gái. Lễ dẫn cau trầu đi trước, tiếp đó nhà nghèo thì xôi gà, nhà giầu thì lợn quay, xôi cả mâm, khiêng, đội theo. Đây là lần đầu tiên bà mẹ chồng và bà mẹ vợ trực tiếp gặp gỡ, trao nhận. Thường thì mọi việc diễn ra suôn sẻ, nhưng có trường hợp nhà trai không nạp đủ đồ sính lễ, bà mẹ vợ cương quyết không nhận, có khi phải hoãn cả đám cưới. Lúc này vai trò của bà mối rất quan trọng.
-
Lễ nghênh hôn (đón dâu): Nhà trai phải kén người đàn ông cao tuổi trong gia tộc, song toàn, con cái đề huề, sẽ làm người đón dâu - còn gọi ông cầm hương. Đoàn đón dâu sẽ do ông cầm hương dẫn đầu. Đến nơi, chú rể phải làm lễ tổ tiên nhà gái, rồi cô dâu, chú rể lạy bố mẹ vợ bốn lạy, ba vái. Từ lúc này bố mẹ vợ chính thức gọi chàng rễ là con. Bố mẹ vợ cho con gái của hồi môn, hoặc dặn dò đôi vợ chồng trẻ. Trong khi đó thì khách khứa ăn trầu, uống nước, hoặc dùng cỗ. Rồi một chàng trai đốt mấy nén hương hay cả bó hương, đa cho ông cầm hương, ông sẽ nói đôi lời xin phép đa dâu về nhà chồng.
Xa ở làng ta, vào lúc đa dâu, có việc trẻ nhỏ hay ai đó đóng cửa ngõ hay chăng dây. Sau làng có quy định, ngày nghênh hôn, cấm không ai được chăng dây, đóng cổng, ngăn chở việc nghênh hôn. Nếu ai phạm, dù là trẻ con, làng cũng bắt phạt.
Khi đến nhà trai, cô dâu, chú rể phải làm lễ tơ hồng, cầu khấn ông tơ bà nguyệt xe duyên cho đôi lứa hạnh phúc. Sau đó làm lễ gia tiên, rồi lễ ra mắt bố mẹ chồng. Buồng cưới được trang trí đẹp đẽ, chiếu gấp ở đầu giường, ông cầm hương trải chiếu ra giường sao cho thật ngay ngắn, phẳng phiu. Vốn là người con đàn cháu đống, người trải chiếu sẽ để phúc cho đôi trẻ mắn con.
Cỗ bàn tuỳ theo gia cảnh, nhà nghèo thì năm, mời mâm, mời họ hàng; nhà giàu thì dăm bảy chục mâm, đến vài trăm mâm, mời khách khứa ăn uống vài ba ngày, có nhà cấm lửa cả làng, tất cả dân làng được mời đến ăn cỗ.
Sau lễ nghênh hôn là lễ nhị hỷ (lại mặt). Ngày hôm sau, cô dâu xin phép nhà chồng được về nhà mình. Xin nói thêm, từ giờ phút này, cô dâu đi đâu khỏi nhà, nhất nhất phải xin phép bố mẹ chồng. Lễ lại mặt đối với người con gái vô cùng hệ trọng, nó xác định sự thành danh của người con gái trước xã hội. Lễ lại mặt, cô dâu và chú rể cùng đi, có người nhà mang lễ theo. Lễ có mâm xôi, thủ lợn, trầu rượu, trong đó thủ lợn là lễ vật quan trọng nhất. Theo quy ước, nếu thủ lợn còn nguyên tai, chứng tỏ trước đêm tân hôn, cô dâu còn trinh trắng; nếu thủ lợn bị cắt tai, chứng tỏ cô dâu tiết hạnh đã không còn. Nhà trai có thể trả cô dâu về cho nhà gái, thậm chí bắt bồi thường tổn phí việc cưới xin. Ấy là tục lệ đề ra, chứ ít khi xảy ra chuyện ấy.
Ngày nhị hỷ, bố mẹ vợ đưa chú rể ra đình lễ hương, rồi về nhà từ đường làm lễ tổ.
Tục lệ làng ta, thì việc giá thú là quan trọng. Trước khi cưới phải trình làng. Làng xem xét thấy đúng, mới được làm lễ giá thú. Sau đó cũng phải có chứng nhận đã nộp cheo, rồi mới được làm lễ nghênh hôn. Tiền cheo có 2 hạng:
1- Cheo nội là con giai làng lấy con gái làng. Lệ cau 50 quả, rượu 1 chai (lễ chín tuỳ nghi) và tiền cheo 2 đồng bạc.
2 - Cheo ngoại là con gái làng lấy chồng làng khác. Lễ cau 100 quả, lễ chín tuỳ nghi, tiền cheo 5 đồng bạc.
Vào những năm từ 1930 đến 1935, dịp ấy làng lát gạch đường làng, nên tiền cheo đổi thành nộp gạch. Cheo nội nộp 300 viên, còn cheo ngoại nộp 600 viên. Khi làm lễ cheo, phải mời cụ từ và thủ quỹ ra nhận tiền cheo.
Cưới xin ngày nay trong Quy ước làng văn hoá quy định: Năm nữ kết hôn phải đúng tuổi, nam 20 nữ, nữ 18, tuyệt đối cấm tảo hôn, đa thê. Phải đăng ký kết hôn và dự lễ nhận giấy kết hôn tại UBND xã. Việc lo tổ chức ngày kết hôn là do hai gia đình thoả thuận, cần tổ chức giản dị, trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm, có văn hoá. Tổ chức liên hoan có thể là tiệc trà, tiệc mặn theo tinh thần tiết kiệm, theo quy mô thích hợp với hoàn cảnh gia đình, tránh hình thức phô trương lãng phí, đảm bảo an toàn về mọi mặt sức khoẻ, an ninh và nên làm trong 1 ngày, không dùng thuốc lá.
Hội Những ngời cao tuổiTrọng ngời cao tuổi là một trong những truyền thống của người Việt Nam. Đây cũng là một phong tục vốn có từ lâu đời trên quê hương Lại Đà. Ngày xa, cuộc sống của dân ta cha cao, nên các cụ từ 50 tuổi trở lên được xắp vào hàng hương lão, coi là thọ. Lệ 60 tuổi lên lão được định từ đời Hồ Hán Thương (1401-1407). Sang triều Lê, triều Nguyễn, lệ này vẫn được duy trì. Hương ước làng ta quy định, các cụ từ 55 thì lên lão. Cứ vào dịp cuối năm âm lịch, biện lễ 10 quả cau, trình dân chứng thực, rồi biện lễ 20 quả cau, một chai rượu làm lễ thăng lão và nộp tiền thăng lão, thế là thành lão hạng rồi, làng mời sang dòng hương lão. Làng còn có quy định về việc cụ Thượng quá cố và khoản phúng viếng của làng. Cùng với quy định đó, còn có nghi thức khi cụ Thượng quá cố, thì làng cử ông thủ hiệu đem trống cái của làng đi rước.
Trước đây ở làng có 4 dòng vị thứ, thì những người cao tuổi đợc xếp là một trong những dòng đó - dòng hương lão. Khi ngồi ở đình, cùng với chiếu cụ thượng, có cụ chức sắc cao tuổi ngồi cùng, tiếp đến là các cụ lão có chân đương cai vị thứ kỳ cựu, rồi tiếp là các cụ lão hạng. Dòng này ngồi phía Tây bên trong của đình, một trong hai vị trí trang trọng ở đình.
Truyền thống trọng người cao tuổi hiện nay vẫn được dân làng gìn giữ. Người cao tuổi được gia đình chăm sóc, họ hàng, làng mạc tôn trọng. Trước đây người cao tuổi tập hợp trong dòng hương lão, thì nay tập hợp trong Hội người cao tuổi. Tính đến đầu năm 2003, Chi hội người cao tuổi Lại Đà có trên 400 hội viên. Các cụ ông 56 tuổi, các cụ bà 50 tuổi, vào 30 tết âm lịch hàng năm, thì trình trầu và nhập hội người cao tuổi. Quy ước mới cứ vào ngày 15 tháng Giêng, Chi hội tổ chức lễ mừng thọ các cụ trong làng. Lễ mừng thọ năm 2003, Lại Đà có 3 cụ tròn 90 tuổi, làng gọi là Hồng thượng thọ; 5 cụ tròn 80 mơi, làng gọi là Thượng thượng thọ và 17 cụ bảy mươi, làng gọi là Thượng thọ.
Lễ mừng thọ được diễn ra trang trọng tại đình. Vào buổi sáng, các cụ trong diện được mừng thọ cũng các hội viên người cao tuổi và thân nhân tập trung ở đình, có đại diện của xã, của thôn tới dự. Sau những nghi thức trang trọng chúc mừng các cụ của ông Chi hội trưởng người cao tuổi thôn, xã, của đại diện các đoàn thể, là nghi thức trao giấy mừng thọ của Hội người cao tuổi xã, Ban chấp hành chi hội người cao tuổi thôn Lại Đà tặng cờ, những cụ thọ 100 tuổi được Chủ tịch nước tặng lụa và mừng quà. Sau đó là phần văn nghệ, là các cá nhân lên đọc thơ, nói những lời chúc tụng. Ngoài lễ mừng thọ ở đình, các gia đình đều có buổi mừng thọ tại tư gia, người thân, họ hàng, bạn bè đến dự. Tuỳ theo hoàn cảnh từng nhà, mà tổ chức liên hoan mặn ngọt.
Chi hội người cao tuổi có rất nhiều hoạt động. Sáng sáng tại sân đình, các cụ ra tập thể dục. Hội hiện nay có 9 câu lạc bộ hoạt động thường xuyên, như CLB thể dục dưỡng sinh, CLB văn nghệ, CLB phụ nữ,... Ngày 6/8/1998 Hội thành lập Câu lạc bộ Người yêu thơ với 15 hội viên. Câu lạc bộ đã ra mắt nhiều tập thơ và có quan hệ với nhiều câu lạc bộ thơ của địa phương bạn. Sau đây xin giới thiệu một số bài thơ mà Câu lạc bộ đã ra mắt cùng dân làng:
Quê mẹ "làng quan"Mẹ ta áo bạc nâu sồng
Cơm thơm nấu dẻo cua đồng ngọt canh
"Quan làng" bia tạc công danh
Tìm đâu tên mẹ sinh thành ra quan
Mẹ ơi! Bia của thế gian
Tim con bia mẹ con mang suốt đời....
- Xuân Hỉ -Cây đềChẳng biết có tôi tự thuở nào
Mà bao văn sĩ cứ xôn xao
Thơ ca hoạ vịnh tôi đâu biết
Cảm tạ hồn thơ thấy tự hào
- Kim Canh -Soi gươngGương là một vật vô tri
Đặt vật phía trước vật thì hiện ra
Gương đâu phân biệt chính tà
Gương nào có biết là ma hay người
Dù cho nhìn ngược nhìn xuôi
Gương đâu có biết lòng người trắng đen
Gương không phân biệt dữ hiền
Trái phải lẫn lộn chớ tin vội vào
Muốn biết con người ra sao
Phải dùng trí tuệ soi vào trong tâm
- Vương Khắc Côn - Phút chia tay
.....
Cuộc vui hoà hợp bao lần
Chốn Ca sơn ấy muôn phần trẻ tơi
Rộn ràng anh nói em cời
Thú hay ta sống cuộc đời tự do....
- liệt sỹ Ngô Quý Cư - Viết 1/1952 tại Phố Gia - Thái Nguyên
Hoa Quỳnh
Phải đợi đến đêm mới mở ra
Ban ngày khất hết bạn gần xa
Quỳnh em chỉ có yêu ai đó
Hay rượu, hay thơ đắm nguyệt hoa
- Nguyễn Phú Đồng -HoaHoa nở hoa tàn việc thế gian
Đường tu tự tại cảnh thanh nhàn
Việc gì cần đến thì ta đến
Như vậy trần gian tức niết bàn
- Sư thầy Thích Đàm Quý - Lập hậu và đám hiếuTrước kia với những người có con cháu, sau khi mất đi, có người cúng giỗ. Còn những người không con, hay toàn con gái, thì có tục lập hậu. Lập hậu có hậu làng, hậu xóm, hậu chùa, hậu ngõ, hậu họ,... Lập hậu làng có 2 lệ: nộp 60 đồng, ruộng tốt 6 sào là hậu chính; nộp 20 mơi đồng, ruộng tốt 3 sào là hậu tòng sự. Còn ai nộp 100 đồng và 1 mẫu ruộng, làng tế hậu riêng. Ngày giỗ hậu làng ta (còn gọi là tế hậu) vào ngày 16/3 âm lịch. Ngày nay lệ đặt hậu không còn, song những ngày sóc, vọng, dân làng, gia tộc vẫn cung thỉnh các cụ về thụ hưởng theo thần linh, tiền liệt.
Đám hiếu trong làng vốn xưa được tổ chức rước xách nền nếp, long trọng. Khi gia đình nào có người nằm xuống, tuổi từ 18 trở lên, gia chủ phải trình hương hội, căn cứ vào địa vị và yêu cầu của gia đình, mà thu tiền lệ ma. Tiền lệ ma có bốn hạng: hạng nhất thu 20 đồng; hạng nhì 8 đồng; hàng ba 4 đồng và hạng tư 2 đồng. Xin thuật lại một đám hiếu xa ở làng ta:
Năm 1942, cụ Nguyễn Bá Quế ở xóm 8, nguyên là Chánh hương hội, qua tuần thượng thọ quá cố, tang chủ xin nộp lệ phí hạng nhất, tức là 20 đồng. Với hạng nhất, cụ được rước đòn đại dư, 7 giáp tham gia, có ban Tư văn tế. Theo lệ làng hiếu chủ khoản đãi người đi rước, mỗi người một hào rưỡi.
Tang lễ được tổ chức trong 3 ngày. Sau khi phát tang, ngày thứ nhất và thứ hai phe Tư văn đến phúng một chầu tế, chủ tế là Tiên chỉ Ngô Quý Doãn. Hai phường bát âm tấu nhạc, giúp cho việc cử ai thêm phần cảm thương, trọng thể. Sau khi tế xong, hiếu chủ khoản đãi quan khách.
Kỳ tế thứ hai do nội tộc tế, một người cao hệ trong họ chịu trách nhiệm thảo văn và làm chủ tế. Sau khi tế xong, cả họ đem đối, trướng vào phúng.
Việc rước xách:
Khâu chuẩn bị: Cắt cử ban tống chung. Theo lệ làng 7 ông trùm giáp họp bàn, cử 5 ông thủ hiệu và phân công đô tuỳ. Số đô tuỳ được gọi là 32 người. Các cụ bà đội cầu, rước phớn theo lệ làng.
-
Trước hôm chuyển cữu: - Áp đòn: Buổi chiều trai đô tuỳ đến rước thử, dưới sự sắp xếp của các ông thủ hiệu, đôi nào đôi ấy theo sự cắt cử, sao cho cân đối, đều đặn. Khi rước thử, một ông thủ hiệu ngồi lên trên, đặt bốn góc bốn bát nước, xem có nghiêng lệch hay không.
- Ngày rước chính thức - chuyển cữu - mai táng: Thủ hiệu mặc áo thụng trắng, quần trắng ống sớ, đi giầy Gia Định, trai đô tuỳ thắt lưng xanh, bỏ múi cạnh sườn. Khi vào rước, các ông thủ hiệu dẫn đầu, đô tuỳ xếp hàng thứ tự theo sau. Đứng trước bàn thờ, ông thủ hiệu chấp sinh có nhời, đô tuỳ dạ ran cho phải phép. 5 ông thủ hiệu, thì một ông chấp sinh chỉ huy chung, một ông cầm minh tinh, hai ông chiêng trống, một ông đi trước linh sa. Đô tuỳ người khiêng trống, người rước cờ, người khiêng linh sa, còn 16 người khiêng đòn. Khi hành tiến, nhà sư gõ mõ đi đầu, các cụ bà đội cầu, cầm phướn theo sau, đến phường tuồng trị huyệt, rồi rước linh sa, rước cờ, đối, chướng, đến đám chuyển cữu, con cháu lần lợt theo sau cùng thân bằng cố hữu.
Đội tuần phiên ốc giục từng hồi, hoà với tiếng kèn trống bát âm. Đám rước trang trọng kéo dài tới hàng trăm mét. Sau khi mồ yên, mả đẹp, rước vong trở về. Gia đình lễ tạ, cỗ bàn ngả đồng loạt bốn một, tám hai (tức là bốn người một mâm), ngồi thứ tự theo ngôi thứ. Cỗ bàn đám hiếu làm đầy đặn, có 4 bát nấu, có lòng, gan, có đầy đủ mũi, tai, vai, gối, mỗi mâm 2 chai rượu Phônten, mời đàn anh và đô tuỳ thể lòng báo hiếu của tang chủ, cứ tự nhiên thụ hưởng.
Ngày nay đám hiếu vẫn duy trì những phong tục tốt đẹp xa và loại bỏ những gì là hủ tục, lỗi thời. Ngày xa có 7 giáp đa rước, thì ngày nay toàn dân làng đến viếng và tiễn đa.
Ngày xa có tế lễ, thì ngày nay có điếu văn của các cơ quan, đoàn thể, của bạn bè, thân hữu,...Trước có đòn đại dư, trung dư, thì nay dùng xe tang, vừa giảm nhẹ cho người khiêng linh cữu, mà vẫn đảm bảo tính trịnh trọng, trang nghiêm, không còn cảnh phân biệt sang giầu với các loại đòn đại dư, trung dư. Ban tống chung ăn mặc đồng phục, 5 vị thủ hiệu mặc áo thụng trắng, gồm một vị chấp sinh, một vị rước minh tinh, hai vị chiêng, trống, một vị đánh trống khẩu đi trước linh sa. Trai đô tuỳ áo nâu, thắt đai, mũ trắng. Có các cụ bà cầm phướn, đội cầu. Đám rước có đối, trướng và vòng hoa của các cơ quan, đoàn thể, bạn bè thân hữu tiễn đa để tỏ lòng tiếc thương người quá cố.
Ngày nay trong Quy ước làng văn hoá quy định việc tang: Gia đình cùng dòng họ tổ chức tang lễ sao cho trang nghiêm. Tử thi không được để trong nhà quá 36 tiếng, trường hợp đặc biệt, phải báo cáo với Trưởng thôn. Ban tống chung gồm ban liền anh và ban liền em (đô tuỳ). Ban liền anh có khoảng 9-10 người, tuổi từ 50 trở lên, nhiệm kỳ 2 năm. Ban liền anh có trưởng ban và phó ban để điều hành về việc gọi trai và đám rước. Đô tuỳ gồm trai làng từ 17 đến 49 tuổi. Mọi trai làng phải tự nguyện làm việc hiếu. ai có ý trốn tránh trách nhiệm, thì tạo dư luận nhắc nhở. Nếu ai cố tình sẽ đưa ra dân làng xem xét. Ban liền anh điều hành đám rước, nếu người mất từ 70 tuổi, thì cử 5 liền anh và 22 đô tuỳ. Người dưới 70 tuổi, thì cử 4 liền anh và 17 đô tuỳ. Không tổ chức ăn uống khi người mất còn nằm trong nhà. Lễ tang chỉ diễn ra một ngày, tổ chức đơn giản, tiết kiệm, không dùng thuốc lá và hạn chế trầu cau.