Năm 1792, đã hai ba tháng nay Quốc dân nghị hội lưỡng lự không biết quyết bề nào : tuyên chiến chống lại liên minh các vua và các hoàng đế hay duy trì hòa bình. Bản thân Lu-i XVI cũng do dự, ông ta sợ nguy cơ sẽ đến nếu những người cách mạng thắng lợi, nhưng ông ta cũng e ngại hậu quả bất lợi nếu như cách mạng thất bại. Các đảng phái cũng phân vân. Bọn Girôngđanh thúc đẩy tham chiến để duy trì chính quyền. Rôbetxpie và những người thuộc phái Giacôbanh đấu tranh cho hòa bình để có cơ hội dành chính quyền. Tình thế mỗi ngày một căng, báo chí làm rùm beng, các câu lạc bộ tranh cãi, tin đồn lan truyền mỗi ngày một thêm ghê sợ kích động dư luận quần chúng. Bởi vậy, cuối cùng, ngày 20 tháng tư khi vua Pháp đoạn tuyệt ngoại giao với nước Áo và nước Phổ, quyết định của nhà vua khiến cho mọi người đều cảm thấy nhẹ nhõm – trong những trường hợp tương tự thì bao giờ cũng vậy.
Sự căng thẳng trước cơn bão đè nặng lên Pari trong những tuần lễ dài lê thê này thật nặng nề và đầy khắc khoải, nhưng nỗi xúc động bao trùm lên các thành phố, biên giới còn nhức nhối và khủng khiếp hơn. Các đội quân đóng ngoài trời; trong mỗi khu phố; mỗi làng xã, người ta trang bị các đội quân tình nguyện vào các đội vệ quốc; khắp mọi nơi các công sự được sửa sang lại, nhất là ở Andatxơ là nơi mà người dân biết rằng trong bất cứ cuộc xung đột Pháp - Đức nào, địa phương họ cũng sẽ là nơi diễn ra những trận giao chiến đầu tiên. Trên bờ sông Ranh, không giống như ở Pari, quân thù, đối phương không còn là một cái gì trừu tượng, mơ hồ và thê thảm trong những lời nói của những nhà hùng biện, mà là một hiện thực nhìn thấy được, sờ mó được. Thực vậy, từ đầu cầu đã được bố phòng, cũng như từ đỉnh cao tháp nhà thờ Xtratbuốc, nhìn bằng mắt thường đã có thể thấy những trung đoàn quân Phổ tiến lại gần. Ban đêm, trên dòng sông lạnh lùng, lấp lánh dưới ánh trăng, gió đưa tới cả tiếng xe kéo pháo của quân thù, tiếng lách cách của vũ khí, tiếng kèn đồng. Ai nấy đều biết rõ rằng chỉ cần một sắc chỉ đơn giản, một tiếng đơn giản là sấm vang chớp giật phóng ra từ họng pháo đang còn câm lặng của quân Phổ và cuộc dành giật lâu đời giữa Đức và Pháp lại tiếp diễn, lần này, một bên nhân danh tự do, và bên kia bảo vệ trật tự cũ.
Còn có ngày nào có thể so sánh được với ngày 25 tháng tư năm 1792, ngày mà những người phu trạm mang từ Pari đến Xtratbuốc cái tin chiến tranh đã được tuyên bố. Từ khắp các đại lộ, từ khắp các hẻm phố, nhân dân lập tức đổ ra các quảng trường. Toàn bộ quân đồn trú mặc trang phục chiến dịch đi diễu hành, trung đoàn nọ nối tiếp trung đoàn kia trong một cuộc duyệt binh lần cuối. Trên quảng trường lớn, ông thị trưởng Điêtric đứng chờ đoàn quân, giải băng màu tam tài đeo chéo trước ngực, tay cầm mũ đính phù hiệu, vẫy chào đoàn quân. Nhạc kèn và trống nổi lên, im lặng trở lại. Ở quảng trường này, rồi khắp quảng trường khác, Điêtric đọc toàn văn bản tuyên chiến bằng tiếng Pháp và tiếng Đức. Khi ông đọc xong, quân nhạc cử bài “ Đi tới “, khúc hát chiến tranh đầu tiên, quốc ca tạm thời của cách mạng, một dạng nhạc nhảy, vui tươi, hóm hỉnh, lôi cuốn được các trung đoàn đang cất bước, truyền cho một nhịp điệu hùng dũng. Sau đó quần chúng giải tán và mang theo về các đường phố và các gia đình niềm phấn khích cuồng nhiệt. Trong các câu lạc bộ, trong các tiệm rượu, người ta diễn thuyết say sưa, người ta đưa ra những lời tuyên bố kiên quyết : Hỡi các công dân ! Hãy cầm lấy vũ khí, cờ chiến đấu đã giương lên rồi “. Hiệu lệnh đã ban bố ! Báo chí, áp phích, các diễn giả chỉ lặp lại những lời kêu gọi nồng nhiệt cùng một loại : Hỡi các công dân, hãy cầm lấy vũ khí, hãy làm cho bọn bạo chúa đội vương miện run sợ ! Tiến lên, hỡi những người con của tự do ! “
Quần chúng bao giờ cũng hoan hỉ reo hò vang dậy hưởng ứng lời tuyên chiến, nhưng trong những lúc như thế, cũng có những tiếng nói khác, nhẹ nhàng hơn, lẻ loi hơn : nỗi lo lắng, sợ hãi cùng bừng dậy trong những phút này. Có điều những ý nghĩ đó người ta chỉ nói rất khẽ ở chỗ kín đáo, sau những tấm cửa đóng kín, hoặc giả là không hé răng nửa lời, những cặp môi nhợt nhạt mím chặt. Bao giờ cũng vậy và ở khắp mọi nơi vào giờ phút đó, có những bà mẹ tự hỏi rằng liệu binh lính địch có chọc tiết con cái họ hay không, có những người nông dân run sợ cho ruộng đất, gia súc, mùa màng, những túp lều tranh của mình. Tuy nhiên, ông thị trưởng Xtratbuốc, bá tước Friđeric Điêtric, chắc chắn là một nhà quý tộc, cũng như nhiều người khác của giới quý tộc Pháp hết lòng trung thành với lý tưởng mới, chỉ muốn nghe những lời nói lạc quan : ông chủ tâm biến vùng này thành một ngày vui chung. Giải băng đeo chéo ngang ngực, ông ta chạy từ nhóm này sang nhóm khác để cổ vũ dân chúng. Ông cho phân phát rượu vang và lương thực cho binh sĩ lên đường và chiều đến, ông mời các tướng tá, sĩ quan và quan chức cấp cao đến dự một tiệc chia tay tại dinh cơ rộng rãi của ông ở quảng trường Brôgơli, trong bữa đó, niềm hân hoan đã sớm mang tính chất lễ mừng chiến thắng. Các vị tướng tin chắc vào chiến thắng cũng như mọi vị tướng trên đời đóng vai chủ trì bữa tiệc. Các sĩ quan trẻ thấy trong chiến tranh ý nghĩa cuộc đời họ được thực hiện, lúc này mặc sức nói năng thoải mái. Người ta tán tụng lẫn nhau, người ta vung gươm lên, người ta ôm chầm lấy nhau. Người ta chạm cốc và một loại rượu vang hảo hạng khiến cho những lời diễn thuyết càng thêm say sưa. Trong những bài diễn thuyết ngắn ngủi ấy, những lời kêu gọi sôi động của báo chí và những lời tuyên cáo được nhắc đi nhắc lại : Hỡi các công dân, hãy cầm lấy vũ khí... cờ chiến thắng đã giương cao, đã tới ngày đưa lá cờ tam tài tung bay phấp phới trên khắp thế giới ! Vì nhà vua, vì lá cờ, vì nền tự do, hãy hiến dâng những gì tốt đẹp nhất trong ta !”. Đó chính là tiếng nói của dân tộc, tiếng nói của cả đất nước đang mong mỏi sự đoàn kết thiêng liêng trong niềm tin chiến thắng và trong khát vọng đấu tranh cho tự do.
Đột nhiên giữa những cốc rượu mừng, giữa những diễn từ, ông thị trưởng quay về phía viên đại úy công binh tên là Rugiê ngồi cạnh ông. Ông ta nhớ rằng viên sĩ quan nhũn nhặn và dễ mến, nếu không gọi là trang nhã này, sáu tháng trước đây, nhân dịp bản tuyên ngôn quốc ước đã sáng tác một ca khúc rất thú vị ca ngợi Tự do, lập tức nó được ông Plâyen, nhạc công quân đội phối âm cho dàn nhạc. Tác phẩm khiêm nhường đó đã được xác nhận là nghe khá lọt tai, ban nhạc và ban đồng ca quân đội đã tập luyện và biểu diễn trên quảng trường. Việc tuyên chiến và xuất chinh này sao không có thể là một dịp long trọng như vậy ? Với giọng nói bình thản như nhờ người bạn giúp cho một việc, Điêtric đề nghị Rugiê đờ Lilơ (tên anh chỉ là Rugiê và anh đã tự gán cho mình cái họ quý tộc) hãy nhân những sự kiện khơi gợi lòng yêu nước lúc này mà sáng tác một cái gì, giả dụ một ca khúc chiến đấu cho quân đội sông Ranh ngày mai lên đường đi chống quân thù.
Rugiê, con người bình thường nhũn nhặn, chưa bao giờ nghĩ rằng mình là một nhà soạn nhạc lớn, tuy vậy cũng tự biết mình có thể viết nhanh được những ca khúc kịp thời. Anh nhận lời để làm vui lòng vị quan cao cấp đồng thời là người bạn tuyệt vời của mình. Phải, anh sẽ làm thử. “ Hoan hô Rugiê “ một viên tướng reo lên ngay trước mặt anh, nâng cốc uống mừng sức khỏe anh và xin anh gửi ngay ra mặt trận cho ông bài ca của anh sau khi làm xong, bởi vì quân đội miền sông Ranh có thể sẽ rất cần một khúc quân hành yêu nước và lôi cuốn. Trong lúc đó có người lên tiếng. Người ta lại bắt đầu nâng cốc và nói chuyện ồn ào. Cuộc trao đổi ngắn ngủi ngẫu nhiên đó bị chìm ngập trong làn sóng nhiệt tình chung. Bữa tiệc mỗi lúc một thêm huyên náo, những lời nói mỗi lúc một hăng say, và mãi đến rất khuya khách khứa mới rời nhà ông thị trưởng ra về.
*
* *
Đã quá nửa đêm từ lâu. Ngày 25 tháng tư, một ngày vô cùng xúc động của thành phố Xtratbuốc đã kết thúc và ngày 26 bắt đầu. Bóng đêm vẫn còn trùm trên các mái nhà, nhưng là bóng tối lừa dối, bởi vì thành phố vẫn bừng bừng phấn khích. Trong các trại lính, binh sĩ chuẩn bị lên đường, giữa lúc đó, ở bên trong các cánh cửa, không ít thị dân khôn ngoan cũng sẵn sàng khăn gói. Các trung đội kéo đi nườm nượp ngoài đường, chốc chốc, tiếng vó ngựa vang dội của những người truyền tin lại làm rung chuyển cả phố phường rồi đến một đoàn pháo binh kéo qua ầm ầm như sấm động. Sau cùng là tiếng gọi đều đều của những người lính canh vang lên không ngừng từ trạm này qua trạm khác. Quân thù đã đến gần. Thành phố ở trong tâm trạng quá lo lắng, quá xúc động, ngủ làm sao được trong cái thời điểm nghiêm trọng như thế này.
Rugiê vừa leo chiếc thang xoắn ốc lên tới căn phòng nhỏ xoàng xĩnh của mình. Anh cũng cảm thấy trong lòng rạo rực khác thường. Anh không quên lời hứa thử sáng tác trong thời gian sớm nhất một hành khúc, một bài hát ra trận cho quân đội sông Ranh. Anh bứt rứt đi đi lại lại trong căn phòng chật hẹp. Mở đầu thế nào, ừ mở đầu thế nào đây ? Những lời cổ vũ bốc lửa của những bản tuyên bố, những diễn từ, những lời chúc mừng khi nâng cốc còn vang lên lộn xộn bên tai anh : Hỡi các công dân, hãy cầm súng lên... Tiến lên, hỡi những người yêu Tự do ! Hãy đập tan bạo quyền !... Cờ chiến đấu đã giương cao ! ”. Nhưng anh cũng nhớ lại những mẩu câu khác nữa đã đập vào tai anh ngoài đường phố. Tiếng nói của những người phụ nữ run sợ cho con trai của mình, của những người e sợ các đội quân của nước ngoài sẽ đến tàn phá nước Pháp và làm cho trái đất này ngập máu. Chính trong trạng thái gần như vô thức, anh viết những đoạn đầu tiên, nó chỉ lặp lại hoàn toàn, chỉ là tiếng vọng của những lời kêu gọi mà anh đã nghe thấy :
Hỡi các con yêu của Tổ quốc
Ngày vinh quang đã tới nơi rồi !
Sau đó, anh ngừng lại và suy nghĩ. Tạm được. Mở đầu tốt. Bây giờ phải tìm nhịp cho đúng, tìm nhạc điệu cho hợp với lời. Anh lấy viôlông ra kéo thử. Ồ, kỳ diệu làm sao ! Ngay từ những nhịp đầu tiên, nhạc đã hoàn toàn hợp với lời ca. Anh vội vàng viết tiếp, cao hứng vì một sức mạnh chợt đến, lôi cuốn anh. Và, bỗng nhiên, mọi tình cảm bùng lên trong giờ phút này - niềm căm hờn bọn bạo chúa, lòng tin vào thắng lợi, lòng yêu tự do, tất cả, dồn dập đến với anh. Rugiê chẳng cần phải sáng tạo, hư cấu gì nữa. Anh chỉ việc đặt thành thơ những câu mà trong cái ngày duy nhất này, vẫn bay từ miệng người này sang người khác. Và như vậy anh sẽ nói, sẽ diễn đạt, và sẽ hát lên tất cả những gì mà cả dân tộc đang cảm thấy tự đáy lòng mỗi người. Anh cũng không cần sáng tác nhạc bởi vì nhịp điệu của đường phố, của giờ phút nghiêm trọng đến với anh qua những cảnh cửa sổ mà anh đóng kín, cái nhịp điệu kiêu hãnh và thôi thúc đó, nổi lên trong nhịp bước đều của binh lính, trong tiếng kèn trôngpet vang dội, trong những tiếng ầm ầm của những cỗ pháo kéo qua. Có lẽ không phải chính tại anh, không phải chính anh đã nghe thấy những cái đó, mà tinh thần của thời điểm này, đêm nay đã nhập vào anh. Và nhạc điệu mỗi lúc càng ngoan ngoãn tuân theo cái nhịp mạnh mẽ đanh thép và khoái hoạt, nó là nhịp đập của trái tim cả một dân tộc. Rugiê viết thành hàng những câu thơ, và nốt nhạc mỗi lúc một nhanh, như chép theo lời người khác đọc vậy - một cơn bão táp mà tâm hồn cạn hẹp và trưởng giả của anh chưa hề biết tới, đã ập đến với anh. Một sự hứng khởi, một niềm hăng say vốn không phải của bản thân anh, mà là một sức mạnh thần kỳ cô đọng trong phút bùng nổ ấy đã nâng anh chàng chơi nhạc nghiệp dư xoàng xĩnh lên cao hàng trăm sải tay trên tầm vóc thật sự của anh và phóng anh ta như một quả pháo thăng thiên – ánh sáng và ngọn lửa lóe lên trong giây lát - tới tận các vì sao. Trong một đêm, viên đại úy Rugiê đờ Lilơ được phép đứng vào hàng những người bất tử. Ngôn từ sáng tạo thức tỉnh trong anh nhờ vay mượn những lời kêu gọi ngoài đường phố và trên báo chí, nó vút lên thành một tiết thơ bất hủ, về chất thơ cũng như về âm điệu :
Yêu tổ quốc, tình yêu thiêng liêng
Hãy dẫn dắt nâng đỡ những cánh tay phục thù của chúng tôi
Ôi, Tự do, Tự do yêu quý
Hãy chiến đấu cùng với những chiến sĩ bảo vệ Người
Một vài câu thơ nữa và bài ca bất tử được sáng tạo liền một mạch, thấm nhuần một cảm hứng hào hùng duy nhất, phối hợp hoàn hảo lời và nhạc, đã hoàn tất trước lúc rạng đông. Rugiê tắt đèn và nằm vật xuống giường. Cái minh mẫn vừa qua của giác quan nhường chỗ cho sự kiệt sức ủ ê. Anh ngủ say li bì, say như chết. Và thực sự nhà thơ, người sáng tạo thiên tài đã chết trong anh. Nhưng tác phẩm đã làm xong vẫn còn đấy, độc lập với người đang ngủ, người đã được giao cho sứ mệnh làm nên cái kỳ tích đó trong một cơn say mê thần thánh. Chưa bao giờ trong suốt lịch sử các dân tộc, một bài ca lại được sáng tác nhanh và hoàn hảo đến như thế.
*
* *
Như mọi buổi sáng, chuông nhà thờ báo giờ cầu nguyện. Chốc chốc, gió tây từ phía sông Ranh thổi về lại đưa đến tiếng nổ của một loạt súng. Những cuộc giao chiến đầu tiên đã bắt đầu. Rugiê thức dậy. Phải khó nhọc lắm anh mới ra khỏi giấc ngủ say. Anh mơ hồ cảm thấy có chuyện gì đã xảy đến với mình, chuyện gì còn lưu lại cho anh một hồi ức lộn xộn. Vừa lúc đó, anh chợt nhận ra trên mặt bàn những mảnh giấy chi chít chữ vừa mới viết. Ơ này, những câu thơ ! Anh viết vào lúc nào nhỉ ? Lại cả những dòng nhạc nữa ? Đúng là nét chữ của anh ! Anh đã sáng tác những dòng nhạc đó khi nào nhỉ. Khỉ quá, đó là ca khúc hôm qua anh bạn Điêtric đã yêu cầu anh sáng tác, bài hành khúc cho quân đội vùng sông Ranh. Rugiê đọc những dòng thơ của anh, rồi khẽ hát theo điệu nhạc, nhưng cũng như tất cả những người sáng tạo đứng trước tác phẩm mình vừa hoàn thành, anh vô cùng lưỡng lự. Anh có người láng giềng là một người bạn cùng trung đoàn, anh đưa cho anh bạn xem và hát ca khúc của anh cho anh bạn nghe. Bạn anh có vẻ hài lòng và chỉ đề nghị vài sửa đổi nhỏ. Sự tán thưởng đầu tiên ấy khiến Rugiê vững dạ hơn. Nôn nóng như mọi tác giả và tự hào vì đã thực hiện lời hứa của mình nhanh đến thế, anh chạy ngay lại nhà ông thị trưởng, đúng vào lúc ông ta đang đi dạo buổi sớm trong vườn, vừa đi vừa ngẫm nghĩ một bài diễn văn mới. Thế nào, anh đấy à, Rugiê ? Ca khúc của anh đã xong rồi ư ? Nào, ta thử coi liền xem sao ! Họ trở vào phòng khách. Điêtric ngồi vào pianô và đệm đàn cho Rugiê hát. Bị lôi cuốn bởi cuộc hòa nhạc buổi sớm mai khác thường này, phu nhân ngài thị trưởng bước vào phòng. Bà hứa chép lại tác phẩm mới và với tư cách là một nữ nhạc sĩ điêu luyện, bà viết luôn nhạc đệm cho khúc hát để đem trình diễn trong chương trình buổi chiêu đãi mà họ mời bạn bè thân thiết ngay chiều hôm đó. Điêtric tự hào về giọng têno hay của mình, quyết tâm học thuộc ca khúc. Và ngày 26 tháng tư, ngay buổi chiểu trong ngày được thảo xong, khúc hát được trình bày ngay trong phòng khách nhà ông thị trưởng, trước một cử tọa nhiều tầng lớp khác nhau.
Hình như thính giả đã nồng nhiệt vỗ tay hoan nghênh và không tiếc lời tán dương tác giả. Nhưng đương nhiên, các vị khách của khách sạn Brôgơli không hề ngờ là trước mắt họ, bài ca bất tử vừa cất cánh bay lên bằng đôi cánh vô hình. Những người đương thời của một tác phẩm hay một nhân vật rất hiếm khi nhận ra ngay được sự vĩ đại của tác phẩm hay nhân vật đó. Bức thư của phu nhân ngài thị trưởng viết cho người em trai, trong đó bà hạ thấp một kỳ tích xuống hàng một chuyện tiếp tân bình thường, chứng tỏ bà đã đánh giá thấp cái thời khắc thần kỳ đó đến mức nào : “ Cậu biết rằng anh chị đón tiếp rất nhiều khách khứa và phải luôn luôn nghĩ ra những trò tiêu khiển mới. Chồng chị chợt nảy ra một ý nghĩ cần có một ca khúc kịp thời. Viên sĩ quan công binh Rugiê đờ Lilơ, một thi sĩ và nhạc sĩ duyên dáng đã nhanh chóng soạn lời và nhạc cho một ca khúc chiến đấu. Chồng chị có giọng têno hay đã hát ngay ca khúc rất hấp dẫn và không thiếu phần đặc sắc đó. Bài hát tập trung được những gì ưu tú nhất của Gơluc, nhưng sinh động hơn và hấp dẫn hơn. Về phần chị, chị đã sử dụng năng khiếu hợp tấu của chị và đã soạn bè cho dương cầm và các nhạc cụ khác. Vì thế chị làm việc khá vất vả. Ca khúc đã trình diễn ở nhà chị, được mọi người rất thích thú “.
“ Mọi người rất thích thú “. Sự đánh giá đó đối với chúng ta ngày nay có vẻ quá ư lạnh lùng. Nhưng cái ấn tượng thuận lợi đó, sự thành công có mức độ đó có thể giải thích rất rõ : mới nghe lần đầu, bài Macxây chưa thể bộc lộ hết sức mạnh của nó. Thực vậy, bài Macxây không phải là một tác phẩm dùng cho giọng têno nhẹ, nó không phải soạn ra để đơn ca trong phòng khách tư sản, giữa một bản tình ca và một đoản khúc. Một bài hát mỗi lúc một hùng dũng, dần dần tới mức như búa nện, nhịp điệu truyền cảm mạnh như luồng điện giật : “ Cầm lấy vũ khí, hỡi các công dân “ là để nói với đám đông, với quần chúng và sự hợp tấu đích thực của nó là ở trong tiếng loảng xoảng của vũ khí, trong tiếng kèn ầm vang, trong tiếng ồn ào của các trung đoàn hành quân. Nó không phải để trình diễn cho một cử tọa trầm tĩnh và chăm chú, mà cho những người đang hành động, đang chiến đấu. Nó không phải được viết ra cho một giọng nữ kim duy nhất, cho một giọng nam kim duy nhất, mà cho hàng ngàn giọng gào thét của đám đông. Đó là khúc quân hành giàu ý nghĩa tượng trưng, khúc khải hoàn ca, bài ca bi tráng, quốc ca, bài ca yêu nước của cả một dân tộc. Chỉ riêng nhiệt tình làm nảy sinh ra bài hát đó đã đem lại sức mạnh cho tác phẩm của Rugiê. Khúc ca chưa làm bừng lên ngọn lửa trong trái tim của dân tộc, âm hưởng kỳ diệu của lời ca của điệu nhạc chưa thấu đến trái tim ấy, quân đội chưa biết tới khúc quân hành chiến thắng của mình, Cách mạng cũng chưa biết tới khúc khải hoàn ca bất tử của mình.
*
* *
Cũng như mọi người khác, con người có sứ mạng hoàn thành phép lạ đó cũng không nghĩ tới tầm cỡ lớn lao của cái mà anh đã sáng tác trong cơn thụy du, theo cảm hứng của một thiên tài không vững chắc. Dĩ nhiên, nhà nghệ sĩ nghiệp dư đáng yêu và dễ gây thiện cảm ấy lấy làm thích thú về những lời khen ngợi nhã nhặn và những tràng vỗ tay rộn rã vang lên quanh anh, các tân khách nhà ông thị trưởng hoan nghênh thành công của anh... Vả lại, chính anh cũng tìm cách khai thác thành công trong môi trường nhỏ bé của mình theo kiểu đó. Anh hát tác phẩm mới của anh trong quán cà phê trước các chiến hữu, anh cho chép lại tác phẩm và gửi cho các tướng lĩnh quân đội sông Ranh. Giữa lúc ấy, theo lệnh của ông thị trưởng và yêu cầu của các quan chức trong quân đội, ban nhạc Vệ quốc quân thành phố Xtratbuốc phải tập “ Bài ca chiến đấu cho quân đội sông Ranh “ và bốn ngày sau trình diễn hành khúc mới tại quảng trường lớn nhân một dịp xuất quân. Xúc động bởi tình cảm yêu nước, một nhà xuất bản của thành phố nhận in không công tác phẩm này, có ghi lời tác giả kính cẩn đề tặng cấp trên của mình là đại tướng Luychne. Nhưng không một viên tướng nào của đoàn quân sông Ranh thực sự nghĩ đến chuyện cho tấu nhạc hoặc hát bài hát đó vào lúc hành quân. Và cũng như tất cả, mọi tiểu phẩm trước kia của Rugiê, thành công của “ Tiến lên hỡi các con yêu của Tổ quốc “, hình như chỉ ngày hôm sau là không ai biết đến nữa, nó sẽ chỉ là một sự kiện tỉnh lẻ, vì vậy bị quên lãng nhanh chóng.
Tuy nhiên, sức mạnh tự nhiên của một tác phẩm rút cuộc bao giờ cũng bộc lộ ra. Một kiệt tác rất có thể bị thời gian lãng quên, người ta có thể cấm đoán hoặc chôn vùi nó, nhưng bao giờ cái trường cửu nhất định cũng thắng cái phù du. Trong một, hai tháng, người ta không nghe nhắc tới bài hát nổi tiếng đó nữa. Những bản chép tay và những bản in đã lọt vào hoặc chuyển qua tay những con người hờ hững. Nhưng chỉ cần một người thực sự nhiệt tình với một tác phẩm là đủ để kéo nó ra khỏi lãng quên, bởi vì mọi nhiệt tâm chân thành đều là một yếu tố sáng tạo. Ở đầu kia của nước Pháp, tại Macxây, ngày 22 tháng 6, câu lạc bộ những người bạn của Quốc ước tổ chức một bữa tiệc tiễn những người tình nguyện lên đường. Mặc đồng phục liên minh quân cách mạng, sáu trăm chàng trẻ tuổi hăng hái ngồi quanh một chiếc bàn rộng mênh mông. Cũng như những người Xtratbuốc ngày 26 tháng tư, họ bừng bừng như trong cơn sốt, nhưng cơn sốt này còn nóng bỏng hơn và say sưa hơn nhiều do khí chất người phương nam của họ. Tuy nhiên, lần này người ta không còn tỏ ra tin tưởng huênh hoang vào chiến thắng như những giờ đầu nữa. Thực ra, những đoàn quân cách mạng đã không vượt qua được sông Ranh, không được dân chúng tiếp đón thân tình, như những viên tướng đã cam kết một cách khoác lác; trái lại, quân thù đã tiến khá sâu vào đất nước, nền tự do bị đe dọa, chính nghĩa đang lâm nguy.
Bỗng nhiên, giữa bữa tiệc, có một người, ngài Mirơ nào đó, bác sĩ y khoa trường Đại học Môngpenliê, cầm cốc đứng dậy, mọi người im lặng nhìn ông. Họ chờ đợi một bài diễn văn, một cuộc chạm cốc. Nhưng thay vì làm như vậy, con người tuổi trẻ đó dang tay phải ra và hát một bài hát mới không ai biết mà anh ta đã học được không biết bằng cách nào : “ Hỡi các con yêu của Tổ quốc !... “ Tia lửa đã bắt vào thuốc súng. Tình cảm đã gặp nhau.
Tất cả những chàng trai trẻ đó trong vài ngày nữa sẽ phải lên đường, đang nóng lòng chiến đấu cho tự do và sẵn sàng chết cho Tổ quốc, họ cảm thấy ý chí sâu sắc nhất của họ, tư tưởng riêng tư nhất của họ được thể hiện qua lời của bài hát đó. Nhịp điệu của bài ca dựng họ vùng lên không sao cưỡng nổi trong niềm hân hoan cuồng nhiệt. Mỗi đoạn lại được hoan hô, phải hát lại hai, ba lần. Mọi người thuộc ngay bài ca, nâng cốc đồng thanh hát lại điệp khúc, gào đến vỡ họng : “ Cầm lấy vũ khí, hỡi các công dân. Hãy thành lập các tiểu đoàn “. Những người tò mò từ ngoài đường phố chạy đến để biết vì sao họ cuồng nhiệt đến thế và lập tức hát cùng với họ. Cả ngày hôm sau, mọi người đều hát bài đó. Nó, được in ra hàng ngàn bảng và ngày mồng 2 tháng 7, ngày lên đường, nó theo những người tình nguyện trong suốt cuộc hành trình của họ. Trên đường đi, lúc mệt nhọc, khi chân họ lê bước nặng nề, chỉ cần một người trong bọn cất tiếng hát, là nhịp điệu lôi cuốn của bài ca lại cổ vũ họ truyền thêm sức mạnh cho họ. Có lúc hành quân qua một làng, những người nông dân ngạc nhiên tụ tập lại, hòa giọng hát với đoàn quân. Bài ca ấy trở thành bài hát của Liên minh cách mạng thành phố Macxây mà không ai biết nó vốn là bài hát soạn cho đoàn quân sông Ranh. Không ai biết tác giả, cũng không ai biết nguồn gốc của nó. Họ đã thừa nhận nó và coi nó là biểu tượng lòng tin của mình. Nó là của họ, cũng như lá quân kỳ, và họ hăm hở muốn đem truyền bá ra khắp mọi nơi trên thế giới.
Thắng lợi to lớn đầu tiên của bài Macxây (chẳng bao lâu về sau bài hát của Rugiê đờ Lilơ được mang cái tên như vậy) là ở Pari. Ngày 30 tháng bảy, đoàn quân đi vào các vùng ngoại ô, dẫn đầu là quốc kỳ. Trong các phố xá hàng ngàn người chờ đón những người Macxây để hoan hô họ và khi sáu trăm con người tiến lên, vừa đi vừa hát hoàn toàn hòa hợp với nhịp bước bài ca mà họ hát đi hát lại không mệt mỏi thì đám đông dỏng tai nghe. Bài ca kỳ diệu làm nức lòng người mà những người Macxây kia hát là bài gì vậy ? Câu “ Cầm lấy vũ khí hỡi các công dân ! “ nghe như lời kêu gọi bằng kèn, kèm theo tiếng trống rền vang làm rung động mọi con tim. Hai, ba giờ sau, điệp khúc lan ra khắp các phố phường. Bài “ Đi lên ! “ bị quên đi, những bài quân hành cũ, những khúc đoạn cổ hủ của nó cũng bị quên đi : cách mạng đã nhận ra tiếng nói của mình, cách mạng đã khám phá ra bài ca của mình.
Bài ca được truyền đi nhanh như chớp, thắng lợi của nó không gì cưỡng lại nổi. Người ta hát bài ca trong các bữa tiệc, trong các rạp hát, trong câu lạc bộ, và cả trong nhà thờ. Vài tháng sau, bài Macxây trở thành bài ca của quân đội, của toàn dân. Xecvan, ông Bộ trưởng thứ nhất bộ chiến tranh nước Cộng hòa nhận ngay thấy tính năng nổ, sức cổ vũ của bài ca dân tộc phi thường như vậy. Ông đã nhanh chóng cho phân phát hàng trăm ngàn bảng tới tất cả các binh đoàn và chỉ trong hai, ba ngày, bài hát vô danh đã trở nên quen thuộc hơn tất cả các tác phẩm của Môlie, Raxin, và Vônte. Không có ngày hội nào không kết thúc bằng bài Macxây. Không có trận đánh nào mà ban nhạc của các trung đoàn lại không cử bài ca của tự do. Ở Giơmappơ và ở Phlơrut, các đoàn quân tập trung để tiến hành một cuộc xung phong quyết định đã đồng ca bài hát đó. Và những viên tướng bên địch vốn chỉ biết động viên binh sĩ bằng một cách cổ điển là tăng gấp đôi khẩu phần rượu mạnh, đã kinh hãi nhận thấy rằng họ không thể chống đỡ nổi sức mạnh kinh hồn của bài ca “ khủng khiếp “ đó, khi nó được phát ra cùng một lúc từ giọng ồm ồm của hàng ngàn người, ngân vang và rung động diệu kỳ như đợt sóng ào tới trùm lên đầu binh sĩ của họ. Bây giờ bài ca đã bay lượn khắp các chiến trường, bài Macxây, như Nikê, nữ thần chiến thắng có cánh đã thôi thúc biết bao con người hân hoan lao vào cuộc tử chiến.
*
* *
Trong lúc đó Rugiê, người sĩ quan công binh vô danh vẫn ở trong cái trại lính nhỏ tại Humingơ và kiên trì tiếp tục vẽ sơ đồ xây dựng những thành lũy bố phòng. Có thể anh đã quên bài ca chiến đấu của đoàn quân sông Ranh mà anh đã sáng tác trong cái đêm 26 tháng tư năm 1792 xa xưa ấy, và anh không hề ngờ rằng bài ca chiến trận đã chinh phục trái tim Pari mà báo chí nói đến, bài Macxây vinh quang ấy và bài ca anh sáng tác chỉ là một. Bởi vì – cái trớ trêu của định mệnh mới khoảnh ác làm sao – chính người làm ra bài ca vang động khắp gầm trời và thấu tới các vì sao ấy vẫn chỉ là người lính thường như trước. Chẳng có người nào ở nước Pháp bận tâm đến viên đại úy Rugiê đờ Lilơ. Cái vinh quang vĩ đại xưa nay chưa bài ca nào có được, mãi mãi dừng lại nguyên vẹn ở chính bài ca đó, tuyệt nhiên không đem lại mảy may vinh dự cho tác giả. Tên của anh không được ghi trên các bản nhạc bè và bản thân anh sẽ hoàn toàn không được các chủ nhân đương thời biết đến nếu như tự anh không làm cho họ phải tức giận anh. Bởi vì - chỉ lịch sử mới biết tạo ra cái trò ngược đời thiên tài – người làm ra bài ca cách mạng không phải là người cách mạng. Trái lại, chính anh, người đã giục giã cách mạng mau đến bằng bài ca bất tử của mình thì bây giờ lại muốn ra sức ngăn cản cách mạng. Khi dân chúng Pari hát bài Macxây xông lên tấn công điện Tuylơri và phế truất ngôi vua, Rugiê đờ Lilơ không thừa nhận cách mạng nữa. Anh từ chối tuyên thệ với nền Cộng hòa và cho rằng thà rời bỏ quân ngũ còn hơn là phục vụ bọn Giacôbanh. “ Nàng tự do thân yêu “ mà anh gợi ra ở một trong những đoạn của bài ca không phải là tiếng nói suông đối với con người chân thực ấy. Anh chống lại những người cầm đầu quốc hội lập hiến của nước Pháp không kém chống lại những bạo chúa mang vươn miện ở bên kia trận tuyến, và anh công khai tỏ thái độ ác cảm đối với Ủy ban an ninh quốc gia khi Điêtric, bạn thân của anh, người cha đỡ đầu của bài Macxây, viên tướng Luychne mà anh đề tặng bài ca, những sĩ quan và những nhà quý tộc là những người lần đầu tiên được nghe bài ca trong cái đêm 26 tháng tư đáng ghi nhớ ấy bị đưa lên máy chém. Lập tức xuất hiện một tình thế nực cười : Nhà thơ ca ngợi cách mạng bị cầm tù vì phản cách mạng. Có lẽ chỉ nhờ ngày 9 Tecmiđô, ngày Rôbatxpie bị lật đổ và các nhà tù được mở cửa, cách mạng nước Pháp mới không giao nhà thi sĩ đã sáng tác bài ca bất ca bất diệt cho lưỡi dao cạo quốc gia. Dù sao, nếu sự thể có đến nỗi như thế đi nữa thì đấy cũng là một cái chết anh hùng chứ không phải là sự chôn vùi thê thảm trong bóng tối đang chờ đợi Rugiê. Thực vậy, con người bất hạnh ấy còn sống thêm hơn bốn chục năm kể từ ngày duy nhất thật sự sáng tạo của đời mình. Người ta thu hồi quân phục của anh, anh không được lĩnh hưu bổng nữa, các bài thơ, sách vở, nhạc kịch của anh không được in, không được biểu diễn, hoặc không đem lại lợi lộc gì cho anh cả. Định mệnh đã không tha thứ cho người nghệ sĩ nghiệp dư đã dám bước vào hàng ngũ những người bất tử. Các-nô đã thử giúp anh, nhưng vô ích. Sự tàn ác của số phận đã làm anh trở thành một thiên tài, tôn anh lên bậc thánh nhân trong vài giờ để rồi lại quẳng anh vào cõi hư vô, làm cho tính nết anh đâm ra đổ đốn không phương cứu chữa. Anh cãi nhau, gây lộn với mọi người có quyền thế. Khi đã lọt được vào một chức vụ ngoại giao, anh viết cho Bônapactơ những bức thư thống thiết và xấc xược. Anh khoe ầm lên là đã bỏ phiếu chống ông ta. Điều đó buộc anh phải rời nhiệm sở và tiếp đó anh bị cảnh sát thường xuyên theo dõi, và lại còn bị tình nghi là có âm mưu làm loạn nữa. Mệt mỏi, anh ẩn mình ít lâu ở tỉnh lẻ. Rồi anh trở về Pari, nhưng ở đấy sự khốn cùng đang chờ anh, đến nỗi anh lại phải vào tù vì mắc nợ Xăngtơpêlagi một phiếu khoán không trả được tiền. Trong lúc Rugiê đờ Lilơ giẫy giụa giữa bao nhiêu lo lắng phiền muộn, bài ca vẫn tiếp tục vận mệnh của nó : trước hết những đoàn quân chiến thắng đưa bài ca đi xuyên qua cả châu Âu, rồi Bônapactơ lên ngôi hoàng đế liền gạch bỏ nó ra khỏi mọi chương trình vì tính chất quá ư cách mạng của nó, tiếp đến triều đại Buốcbông cấm hẳn bài ca. Ngạc nhiên biết bao cho ông già khổ não ấy, khi thấy bài ca sống lại mười lăm năm sau trên các chiến lũy của cách mạng tháng bảy và ông lại nhận được giải băng đỏ với danh nghĩa tác giả bài ca cùng với một số tiền trợ cấp nhỏ do Lu-i Philip, ông vua công dân ban cấp. Con người bị bỏ rơi không tăm tiếng cứ tưởng mình nằm mơ : Người ta hãy còn nhớ đến ông ! Nhưng đó chỉ là một hồi tưởng nhạt nhẽo và khi ông chết ở Soadilơroa năm 1836, thọ 76 tuổi, không ai nhắc đến ông nữa, cũng không ai biết đến tên ông. Nhiều thế hệ đã nối tiếp nhau. Mãi đến trong chiến tranh thế giới khi âm điệu sôi nổi của bài Macxây - từ lâu đã trở thành quốc ca vang dội trên khắp mặt trận Pháp - người ta mới ra sắc lệnh đưa di hài viên đại úy tầm thường Rugiê vào mai táng cạnh di hài viên thiếu úy bé nhỏ đảo Coocxơ trong Viện Phế binh. Và con người sáng tạo nên bài ca bất hủ mà tên tuổi vẫn chìm trong bóng tối, cuối cùng đã được yên nghỉ trong hầm mộ danh dự của Tổ quốc : Đấy là niềm an ủi cao cả nhất cho cái số phận hẩm hiu vì đã chỉ là thi sĩ trong có một đêm.