Lần đầu tiên đến phòng mạch của tôi, có một quí ông trung niên bảnh bao, ăn mặc sang trọng trong bộ com lê Armani, rất giữ lịch sự khi ngồi xuống, ông bắt đầu kể những gì đã khiến ông tới chữa bệnh. ông nói khá dịu dàng bằng một giọng nói có cân nhắc và tự chủ. Tôi liền hỏi ông một loạt câu hỏi thường lệ: nêu lý do bất mãn, tuổi tác, tiểu sử, tình trạng hôn nhân.
"Con mụ phản trắc đó" ông đột nhiên kêu lên, giọng ông nổi xung lên "Con vợ chết tiệt của tôi! Con vợ trước của tôi. Nó đã lang chạ sau lưng tôi! Tôi đã cho nó tất cả. Đồ đốn mạt... đồ yêu tinh... con mẹ bẩn thỉu..." Giọng của ông trở nên to hơn, giận dữ hơn, và độc địa hơn, và trong hai mươi phút kế tiếp, ông kể hết sự bất bình này đến bất bình khác về người vợ cũ của ông.
Đã gần hết giờ. Biết ông đang nổi nóng và có thể tiếp tục nổi gân hàng giờ, tôi hướng dẫn ông: Hầu hết mọi người đều gặp khó khăn lúc mới ly dị, chắc chắn có cái gì đó chúng ta sẽ nói đến trong những buổi gặp tới". Tôi nói một cách dỗ dành, "À này, ông đã ly dị bao lâu rồi?."
"Tháng Năm vừa qua là 17 năm"!
Ở chương trước, chúng ta bàn về tầm quan trọng của sự chấp nhận khổ đau như một là một việc tất yếu trong đời sống con người. Mặc dầu có một số thứ khổ đau không thể tránh được nhưng một số thứ khác là do tự mình tạo ra. Chúng ta đã khảo sát tỉ mỉ, chẳng hạn, làm sao mà khước từ không chấp nhận khổ đau là một phần tất yếu của cuộc sống có thể dẫn tới việc xem mình là một nạn nhân suốt đời và trách cứ người khác về những khó khăn của chúng ta - một phương cách chắc chắn dẫn đến cuộc sống khổ đau.
Nhưng chúng ta cũng thêm vào những khổ đau riêng của chúng ta bằng nhiều cách khác. Thường thường tất cả chúng ta cứ làm cho cái đau đớn của chúng ta kéo dài, cứ tiếp tục, bằng cách diễn đi diễn lại mãi nỗi đau đớn trong tâm, thổi phòng những bất công trong chuyện đó. Chúng ta nhắc lại những kỷ niệm đau thương với lời mong muốn vô tình có lẽ bằng cách này hay cách khác điều đó sẽ thay đổi được tình hình - nhưng nó chẳng bao giờ thay đổi cả. Đương nhiên, đôi khi kể lại mãi những nỗi thống khổ có thể thỏa mãn một ít mục đích, nó có thể tăng thêm kịch tính và một sự sôi động nào đó cho cuộc sống hay gợi chú ý và cảm tình của người khác. Nhưng nó nó có vẻ giống như sự cân đối tội nghiệp cho sự bất hạnh mà chúng ta tiếp tục phải chịu đựng. Nói về việc làm sao ta lại làm tăng thêm khổ đau, Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng nghĩa, "Chúng ta có thể thấy có nhiều con đường dẫn chúng ta kinh qua bất an và khổ đau tinh thần. Mặc dầu, thường thường, những nỗi ưu phiền tinh thần và cảm xúc tự chúng có thể xẩy ra một cách tự nhiên, nhưng chính chúng ta lại làm cho những cảm xúc tiêu cực ấy mạnh thêm khiến chúng trở thành tai hại. Chẳng hạn khi chúng ta giận dữ hay căm ghét một người nào đó, rất ít khi nó phát triển đến một mức cao độ nếu chúng ta bỏ mặc nó. Tuy nhiên nếu ta tưởng ngưới ta đối xử bất công với chúng ta, những khía cạnh mà chúng ta bị xử đối không được công bằng, và chúng ta cứ suy nghĩ mãi đến nó thì điều đó sẽ nuôi dưỡng sân hận. Sân hận sẽ trở thành mạnh mẽ. Đương nhiên, cũng có thể áp dụng như vậy khi chúng ta gắn bó với một người đặc biệt nào đó, chúng ta có thể nuôi dưỡng ý tưởng là anh ấy hay cô ấy đẹp làm sao, và chúng ta tiếp tục suy tưởng về những đức tính mà chúng thấy ở người đó, sự gắn bó càng ngày càng mạnh. Nhưng điều đó cho thấy qua sự suy nghĩ và thân mật liên tục, tự chúng ta làm cho những cảm xúc của chúng ta mãnh liệt hơn.
"Chúng ta cũng thường làm tăng thêm cái đau đớn và khổ đau vì xúc cảm quá mức, phản ứng quá mạnh trước những việc tầm thường, và đôi khi coi chúng như nhằm vào riêng mình. Chúng ta hay coi những việc nhỏ quá quan trọng và thổi phồng chúng lên quá cỡ trong lúc ấy lại dửng dưng trước những việc thực sự quan trọng, những vấn đề đó có ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của chúng ta và có hậu quả và mối quan hệ lâu dài.
"Cho nên, tôi nghĩ, theo nghĩa rộng, bạn đau khổ hay không đau khổ tùy thuộc vào cách bạn phản ứng trước một tình huống nhất định. Thí dụ, bạn khám phá ra người nói xấu sau lưng bạn. Nếu bạn phản úng khi biết chuyện người ta nói xấu bạn, thì đó là tính tiêu cực với cảm giác thương tổn và giận dữ, rồi thì chính bạn tự phá hoại sự yên ổn trong tâm bạn. Sự đau đớn của bạn do chính bạn tạo ra. Mặt khác nếu bạn kìm giữ không hành động một cách tiêu cực, hãy để cho lời phỉ báng ấy qua đi như thể cơn gió nhẹ thoảng qua bên tai bạn, bạn bảo vệ mình không có cảm nghĩ đau đớn, cảm nghĩ thống khổ. Cho nên mặc dầu bạn thường không thể tránh được những tình huống khó khăn nhưng bạn có thể thay đổi mức độ bạn khổ đau bởi sự lựa chọn cách phản ứng với tình hình.
"Chúng ta cũng thường làm tăng thêm đau đớn và khổ đau của chúng ta vì cảm xúc quá mức và phản ứng quá mạnh trước những việc tầm thường, và đôi khi coi chúng như nhằm vào riêng mình."
Với những lời trên, Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận căn nguyên của những sự việc trầm trọng hàng ngày có thể làm tăng thêm nguồn gây khổ đau. Các thầy thuốc chuyên khoa đôi khi gọi tiến trình này là cá nhân hóa những đau đớn của chúng ta - khuynh hướng thu hẹp tầm nhìn của tâm lý của chúng ta bằng cách giải thích hay giải thích sai mọi sự việc xẩy ra như là nó tác động đến chúng ta.
Một tối, tôi dùng cơm chiều cùng một đồng nghiệp tại một tiệm ăn. Việc phục vụ khách ăn nơi đây quá chậm, từ lúc ngồi xuống bạn tôi bắt đầu phàn nàn .: "Hãy xem kìa! Người hầu bàn này quá ư là chậm chạp! Anh ta đâu nhỉ! Tôi nghĩ rằng anh cố tình không biết đến chúng ta!"
Mặc dầu cả hai chúng ta đều không có việc gì phải vội cả, ông bạn đồng nghiệp của tôi tiếp tục phàn nàn trong suốt bữa ăn và phát triển thành những lời kể lể than van về đồ ăn, bát đĩa,dao dĩa và tất cả mọi thứ không hợp ý của ông. Cuối bữa ăn, người hầu bàn bưng đến chúng tôi hai món tráng miệng không tính tiền và giải thích: "Tôi xin lỗi vì phục vụ chậm tối nay" anh ta nói rất thành thực, "vì chúng tôi thiếu nhân viên, một người nấu ăn nghỉ hôm này vì gia đình có tang, và vào phút cuối một người hầu bàn gọi điện thoại báo ốm. Tôi hy vọng không có gì bất tiện với quý ông..."
"Tôi sẽ không bao giờ còn đến đây nữa", bạn đồng nghiệp của tôi cay đáng lẩm bẩm trong hơi thở của ông khi người hầu bàn bước đi.
Trên đây chỉ là một minh họa nhỏ cho thấy chúng ta đã góp phần vào khổ đau của chúng ta bằng cách cá nhân hóa mọi tình huống khó chịu như thế nào, như thể có dụng ý gây ra cho chúng ta. Trong trường hợp này, kết quả cuối cùng chỉ là làm mất ngon, một giờ bực mình. Nhưng khi kiểu suy nghĩ như vậy trở thành một mẫu hình lan tràn khắp thế giới, thấm chí vào lời luận bàn trong gia đình hay bè bạn, thậm chí cả những sự kiện trong xã hội rnói chung, nó sẽ trở thành khổ đau, nguồn đáng kể của chúng ta.
Trong khi mở rộng quan hệ mật thiết về loại suy nghĩ hẹp hòi này, Jacques Lusseyran đã từng đưa ra một nhận xét sâu sắc. Lusseyran, bị mù từ năm 8 tuổi, là người sáng lập tập đoàn kháng chiến trong Đệ Nhị Thế Chiến. Cuối cùng, ông bị Quân Đức bắt và cầm tù tại Trại Tập Trung Buchenwald. Sau này kể lại những kinh nghiệm của ông tại trại tù, Lusseyran nói, "... Lúc đó tôi thấy bất hạnh đến với mọi người chúng tôi, vì chúng ta nghĩ mình là trung tâm thế giới, vì chúng ta có một niềm tin khốn khổ là chỉ có mình chúng ta đau khổ đến mức không chịu nổi. Sự bất hạnh là cảm thấy mình luôn bị cầm tù trong cái đẫy da bọc thân của mình, trong tâm trí của mình."
NHƯNG ĐIỀU ĐÓ KHÔNG CÔNG BẰNG
Trong đời sống hàng ngày, khó khăn luôn luôn phát sinh. Nhưng bản thân khó khăn không tự động gây đau khổ. Nếu chúng ta có thể trực tiếp giải quyết các khó khăn và tập trung nghị lực của chúng ta vào việc tìm giải pháp, chẳng hạn, khó khăn có thể biến đổi thành thử thách. Tuy nhiên nếu chúng ta rơi vào sự lẫn lộn, cảm thấy khó khăn của ta là "không công bằng", tức là chúng ta đã thêm chất liệu để nó trở thành nhiên liệu mạnh tạo tinh thần bất an và cảm xúc đau đớn. Và bây giờ chúng ta có không chỉ hai khó khăn thay vì một, mà còn cảm thấy "bất công" làm rối trí chúng ta, làm hao mòn chúng ta, và cướp đi nghị lực cần thiết để giải quyết khó khăn gốc ban đầu.
Nêu vấn đề với Đức Đạt Lai Lạt Ma vào một buổi sáng, tôi hỏi:"Làm sao có thể đối phó với cảm nghĩ bất công xem ra thường hành hạ chúng ta khi khó khăn phát sinh?
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Có thể có nhiều cách đối trị với cảm tưởng đau khổ của ta là bất công. Tôi đã nói về tầm quan trọng của sự chấp nhận khổ đau là việc tất yếu trong đời sống con người. Và tôi nghĩ rằng ở một số khía cạnh người Tây Tạng đã ở trong vị thế chấp nhận thực tại khó khăn tốt hơn, vì họ sẽ nói "Có thể đó là do Nghiệp của tôi trong quá khứ". Họ sẽ đổ việc đó cho những hành động tiêu cực phạm ở đời này hay đời trước, do vậy có mức chấp nhận lớn hơn. Tôi đã thấy một số gia đình định cư tại Ấn Độ trong tình trạng hết sức khó khăn, sống trong cảnh hết sức nghèo và con cái còn bị mù cả hai mắt hoặc đôi khi đôi khi trì độn. Và bằng cách này hay cách khác bà mẹ khổ sở đó vẫn trông nom chúng, đơn giản chỉ than, "Đó là vì nghiệp của chúng, số phận của chúng".
"Nói đến Nghiệp, ở đây tôi nghĩ rằng quan trọng là phải lưu ý và hiểu rằng đôi khi vì hiểu nhẩm học thuyết về Nghiệp, chúng ta hay đổ lỗi mọi việc cho Nghiệp và cố gắng tự miễn cho mình trách nhiệm hay sự cần thiết phải có chủ động. Ta hoàn toàn có thể dễ dàng nói, đó là do Nghiệp quá khứ của tôi, Nghiệp quá khứ tiêu cực của tôi, và tôi phải làm gì? Tôi bất lực. Đó là một sự lầm lẫn hoàn toàn về Nghiệp, vì lẽ dầu ta chịu hậu quả của những hành vi trong quá khứ, nhưng không có nghĩa là cá nhân ta không còn lựa chọn nào khác hay không còn khả năng chủ động để thay đổi, để tiến hành sự thay đổi tích cực. Và nó cũng vậy trong tất cả các lãnh vực đời sống. Ta không nên trở thành thụ động, và cố bào chữa cho mình không phải chủ động với lý do mọi thứ đều là kết quả của Nghiệp, vì lẽ nếu ta hiểu quan niệm về Nghiệp một cách đứng đắn, ta sẽ hiểu rằng Nghiệp có nghĩa là "hành động". Nghiệp là một tiến trình hết sức tích cực. Và khi chúng ta nói về Nghiệp, hay hành động thì đó là chính hành động của mỗi người gây ra, trong trường hợp này của chính chúng ta trong quá khứ. Vậy kiểu tương lai nào sẽ xẩy ra, nói rộng ra, nằm trong tay bạn ở hiện tại. Nó sẽ được quyết định bởi loại chủ động mà bạn áp dụng bây giờ. "Cho nên Nghiệp không nên được hiểu là loại tác động thụ động, tĩnh tại, mà đúng ra phải hiểu là tiến trình tích cực. Điều này cho thấy tác động cá nhân đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định diễn biến của tiến trình Nghiệp. Chẳng hạn, ngay cả một hành động bình thường hay một mục đích bình thường, như nhu cầu ăn uống... Muốn đạt được mục tiêu đơn giản ấy, chúng ta cần một hành động của chính chúng ta. Chúng ta cân phải kiếm thực phẩm, rồi thì chúng ta cần phải ăn, điều này cho thấy cả đến một hành động tầm thường nhất, thậm chí một mục tiêu đơn giản chỉ có thể đạt được nhờ hành động..."
"Vậy thì, giảm thiểu cảm nghĩ bất công bằng cách chấp nhận điều đó là kết quả của Nghiệp có thể rất hữu hiệu cho người Phật Tử" Tôi xen vào, " Nhưng đối với những người không tin tưởng vào học thuyết về Nghiệp, chẳng hạn rất nhiều người Phương Tây thì thế nào?...
"Những người tin tưởng vào khái niệm Đâng Sáng Tạo, Thượng Đế, có thể chấp nhận những hoàn cảnh khó khăn dễ dàng hơn bằng cách xem mình là một phần sáng tạo của Thượng Đế hay ý định của Thượng Đế. Họ có thể cảm thấy rằng dầu vậy, tình hình dường như rất tiêu cực. Thượng Đế toàn năng và rất nhân từ, cho nên có một ý nghĩa lnào đó, một tầm quan trọng nào đó là ẩn sau tình thế đó mà người ta không biết được. Tôi nghĩ là hồ như niềm tin như vậy có thể trợ sức và giúp đỡ họ trong lúc khổ đau.
"Những người không tin học thuyết về Nghiệp và khái niệm Thượng Đế Sáng Tạo thì sao?"
"Với những người không có niềm tin.., "Đức Đạt Lai Lạt Ma suy nghĩ một lát trước khi trả lời, "... có lẽ một cách giải quyết thực tiễn và khoa học có thể giúp ích. Tôi nghĩ rằng các khoa học gia thường coi trọng cách nhìn vào vấn đề một cách khách quan, nghiên cứu vấn đề mà không để cho tình cảm dính líu. Bằng cách giải quyết như vậy, bạn có thể nhìn vào vấn đề với một thái độ "Nếu có cách tranh đấu, thì tranh đấu, thậm chí có phải ra tòa? Ngài cười ." Nếu bạn không thể thắng được, bạn chỉ có thể quên nó đi."
"Một phân tích khách quan khiến tình thế khó khăn hay giải quyết có thể rất quan trọng, vì lẽ với cách nắm bắt vấn đề này bạn thường sẽ thấy có thể có nhiều nhân tố liên can khác ở hậu trường. Chẳng hạn, nếu bạn cảm thấy bị xử đối bất công bởi ông chủ nơi làm việc, có nhiều nhân tố khác liên quan, có thể ông ta bị khó chịu bởi điều gì đó, cãi vã với vợ ông ta sáng này hay điều gì đó, và cách hành xử của ông ta chẳng liên quan gì đến cá nhân bạn cả, có thể không rõ ràng là nhằm vào bạn. Đương nhiên, bạn vẫn phải đối đầu mặc dù tình thế như thế nào, nhưng ít nhất với cách thức giải quyết này, bạn không thêm phần lo ấu vào sự lo ấu đã có." "Loại giải quyết khoa học này phân tách tình hình một cách khách quan, có thể giúp ta khám phá ra những khía cạnh mà chính ta đã góp phần vào vấn đề không? Điều đó giúp giảm thiểu cảm nghĩ bất công liên quan đến tình huống khó khăn không?"
"Có chứ" Ngài trả lời một cách nhiệt tình."Điều đó nhất định có tác động. Thông thường, nếu ta xem xét tỉ mỉ bất cứ trạng huống nào với một cách không thiên vị và chân thật, chúng ta sẽ nhận ra rằng ở một phạm vi rộng, chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về cái bộc phát các sự việc.
"Chẳng hạn, nhiều người đổ lỗi Chiến Tranh Vùng Vịnh cho Saddam Hussein. Sau đó, trong một vài dịp, tôi đã nói. Như vậy không công bằng ! Trong những hoàn cảnh như vậy, tôi thật sự cảm thấy phần nào tiếc cho Saddam Hussein. Đương nhiên ông là một nhà độc tài, đương nhiên có nhiều chuyện xấu về ông ta. Nếu nhìn vào tình thế một cách đại khái, rất dễ dàng đổ tất cả tội lỗi cho ông ta - ông là kẻ độc tài, chuyên chế, và thậm chí mắt ông ta cũng có vẻ đáng sợ? Ngài cười."Nhưng nếu ông không có quân đội, khả năng gây tác hại sẽ bị giới hạn và nếu không có trang bị quân sự, đạo quân hùng mạnh ấy không thể hoạt động được. Tất cả trang bị quân sự không tự nó sinh ra từ không khí loãng! Cho nên khi ta nhìn vào điều đó như vậy, ta thấy có nhiều quốc gia dính líu vào. "Vậy" Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp, " thường thường ta hay đổ lỗi cho người khác về những khó khăn của chúng ta, về những nhân tố bên ngoài. Hơn nữa chúng ta chỉ tìm kiếm nguyên nhân một chiều, rồi cố miễn trách nhiệm cho mình. Dường như bất cứ lúc nào có cảm xúc mạnh thì thường hay có sự sai biệt giữa những sự việc biểu lộ như thế nào và chúng thực đúng ra sao. Trong trường hợp này, nếu bạn đi xa hơn nữa và phân tích trạng huống thật cẩn thận, bạn sẽ nhận thấy Saddam Hussein chỉ là một phần của vấn đề, một trong nhiều yếu tố, ngoài ra còn có nhiều điều kiện khác góp phần vào. Một khi bạn nhận thức được như vậy, thái độ trước đây cho rằng chỉ mình ông ta là nguyên nhân tự động không còn nữa và thực tế của tình hình sẽ hiện ra.
"Thói quen này dẫn đến đến việc nhìn vào sự việc một cách toàn diện hơn - nhận thức rằng nhiều biến cố góp phần vào tình hình. Thí dụ, vấn đề của chúng tôi với Trung Hoa- cũng vậy chúng tôi đã góp phần gây ra. Tôi nghĩ rằng có lẽ thế hệ của chúng tôi có thể đã góp phần tạo ra tình hình này, nhưng nhất định thế hệ trước chúng tôi, tôi suy xét, rất rất chểnh mảng, ít nhất cũng một vài thế hệ trước. Cho nên tôi nghĩ rằng, chúng tôi, người Tây Tạng, đã góp phần vào tình trạng bi thảm này. Sẽ không công bằng nếu đổ lỗi tất cả cho Trung Hoa. Nhưng có nhiều mức độ. Đương nhiên, mặc dù chúng tôi có thể là nhân tố góp phần vào tình hình, nhưng không có nghĩa là chỉ trách cứ mình chúng tôi. Thí dụ, người Tây Tạng không bao giờ chịu khuất phục dưới sự áp bức của Trung Hoa, để có sự kháng cự liên tục. Vì điều đó người Trung Hoa triển khai một chính sách mới - di dân Trung Hoa sang Tây Tạng, để dân số Tây Tạng trở thành thiểu số, người Tây Tạng bị chiếm chỗ, phong trào tranh đấu đòi tự do không thể còn hữu hiệu. Trong trường hợp này, chúng ta không thể nói là cuộc kháng chiến của người Tây Tạng đáng trách hay chịu trách nhiệm về chính sách của Trung Hoa."
Tôi hỏi, "Khi chúng ta nhìn vào sự góp phần của mình vào tình huống, Ngài nghĩ sao khi tình huống ấy rõ ràng không phải là do lỗi của mình dù mình không mảy may dính líu gì đến, ngay cả những tình huống không đáng kể hàng ngày, như khi một người cố ý nói dối bạn?"
"Đương nhiên, đầu tiên tôi có thể cảm nhận thấy thất vọng khi một người nào đó không thành thực, nhưng dù vậy, nếu tôi xem xét tình huống, tôi có thể khám phá thực ra động cơ thúc đẩy họ dấu giếm tôi một điều gì đó không phải là kết quả của một động cơ xấu. Có thể đơn giản chỉ là thiếu tin tôi. Cho nên thỉnh thoảng khi tôi cảm thấy thất vọng bởi những loại vụ việc đó tôi cố nhìn họ dưới một góc độ khác, tôi sẽ nghĩ rằng có lẽ người đó không hoàn toàn tin tôi vì tôi không thể giữ bí mật. Tính tôi thường thẳng thắn, vậy nên vì lẽ đó người ấy có thể đã quyết định tôi đúng không phải là người có thể giữ bí mật, và tôi có lẽ không thể giữ được bí mật khi nhiều người mong muốn. Nói một cách khác, tôi không phải là người đáng tin cậy vì bản tính cá nhân của tôi. Cho nên, nhìn vào điều đó bằng cách ấy, tôi phải coi nguyên nhân là vì lỗi của chính tôi.
Thậm chí bắt nguồn từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, cách phân tích nguyên nhân này dường như hơi giống sự suy rộng nghĩa - tìm ra sự góp phần của chính mình" vào tính không trung thực của người khác. Nhưng có một sự thành thật xác thực trong giọng nói của Ngài khi Ngài nói, gợi ý rằng thực tế đâu là kỹ thuật Ngài đã sử dụng ưu thế thực tiễn trong đời tư của Ngài để đối trị nghịch cảnh. Áp dụng kỹ thuật đó vào đời sống của chúng ta, đương nhiên chúng ta có thể không thường thành công trong việc tìm ra sự đóng góp phần của chính mình vào tình huống khó khăn. Nhưng dù thành công hay không, ngay cả sự cố gắng chân thật muốn tìm ra sự góp phần của mình vào vấn đề cho phép thay đổi trọng tâm giúp khắc phục được lối suy nghĩ hẹp hòi dẫn đến cảm nghĩ thiếu xấy dựng về bất công mà nó là nguồn bất mãn trong chính chúng ta và trên thế giới.
TỘI LỖI
Là sản phẩm của một thế giới không hoàn hảo, tất cả chúng ta đều không hoàn hảo. Mỗi người trong chúng ta đều đã làm điều gì đó sai trái. Có nhiều sự việc chúng ta hối hận.- những sự việc chúng ta đã làm hay những sự việc chúng ta đáng lẽ phải làm. Thừa nhận sự sai lầm với ý thức hối hận chân thành, giúp ta bám sát được con đường chính đáng trong đời và khích lệ chúng ta sửa chữa những lỗi lầm lúc có thể và có biện pháp để uốn nắn những sự việc trong tương lai. Nhưng nếu chúng ta để sự hối tiếc chuyển thành tội lỗi thái quá cứ bám chặt vào ký ức về những tội lỗi trong quá khứ mà tự trách mình và tự căm ghét mình triền miên, điều đó chẳng đi đến đâu ngoài việc là nguyên nhân hành hạ mình không ngưng và tự gây đau khổ.
Trong cuộc đàm đạo trước đây chúng ta có nói qua về cái chết của người anh Ngài, tôi nhớ là Đức Đạt Lai Lạt Ma có nói đến điều Ngài hối hận về cái chết của anh Ngài. Tò mò về cách Ngài đối trị với cảm nghĩ hối hận, và có thể là cảm nghĩ tội lỗi, tôi trở lại vấn đề trong cuộc đàm luận sau đó, hỏi Ngài, " Khi Ngài nói về cái Chết của Lobsang, Ngài có nói đến hối hận. Có tình huống nào khác trong đời Ngài mà Ngài hối hận nữa không?"
Ồ, có chứ. Chẳng hạn có một nhà sư già sống ẩn tu. Trước đây vị sư này có đến gặp tôi để thỉnh giáo, mặc dầu tôi nghĩ rằng vị này thực sự cao đạo hơn tôi nhưng đến gặp tôi như thể là thủ tục. Dầu vậy một hôm nhà sư này đến và hỏi tôi về tu tập bí truyền mức cao. Tôi vô tình nhận xét sự tu tập này rất khó thực hành và có lẽ nó thích hợp với người trẻ hơn, và theo truyền thống việc tu tập này bắt đầu ở giữa tuổi vị thành niên. Sau này tôi khám phá ra nhà sư này đã tự tử để được tái sanh vào một thân thể trẻ hơn hầu tu tập theo cách này cho được hiệu quả hơn..."
Ngạc nhiên về câu chuyên này, tôi nhận xét "Ồ, thật là ghê gớm. Hẳn là khó khăn cho Ngài khi Ngài hay tin...
Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu buồn bã.
Ngài làm thế nào đối trị với cảm nghĩ hối hận như vậy? Làm sao cuối cùng Ngài có thể rũ bỏ được nó?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm một lát trước khi trả lời, "Tôi không quên được, nó vẫn còn đây" Ngài ngừng lại một lúc rồi mới tiếp tục, "Tuy cảm nghĩ hối hận vẫn còn đó, nhưng nó không liên kết với cảm nghĩ buồn phiền hay có tính chất lôi kéo tôi quay về. Nó không ích lợi gì cho ai cả nếu tôi để cảm nghĩ hối tiếc đó đè nặng lên tôi là nguyên nhân gây nản chí và thất vọng không có mục đích gì hoặc cản trở khả năng tôi tiếp tục phát huy hết của tôi trong đời sống."
Vào lúc đó, hoàn toàn theo bản năng, điều làm tôi chú ý là con người có khả năng thực sự đối đầu hoàn toàn với những bi kịch của cuộc đời và phản ứng bằng cảm xúc, thậm chí bằng hối tiếc, mà không cho phép mình mặc cảm tội lỗi thái quá hoặc coi thường mình. Con người hoàn toàn có khả năng chấp nhận mình, là có giới hạn, nhược điểm, và suy xét lầm lẫn. Có khả năng thừa nhận tình hình khó khăn về vấn đề nào đó và có phản ứng bằng cảm xúc, nhưng không phản ứng quá mức. Đức Đạt Lai Lạt Ma thành thực cảm thấy hối hận về việc xẩy ra mà Ngài đã mô tả nhưng kèm theo tâm trạng hối hận là phẩm giá và tình thương. Và trong khi mang tâm trạng hối hận này, Ngài không để sự hối tiếc này đè nặng lên Ngài thay vì như vậy Ngài vẫn tìm cách tiến lên và tập trung vào giúp đỡ người khác bằng khả năng tối đa của Ngài.
Đôi khi tôi băn khoăn rằng liệu khả năng sống mà lại không để cho tội lỗi dằn vặt mình là một phần của văn hóa không. Kể lại cuộc đàm luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma về hối hận với người bạn, một học giả Tây Tạng, tôi được biết, thực ra trong ngôn ngữ Tây Tạng, thấm chí không có từ ngữ nào tương đương với từ "tội lỗi" trong tiếng Anh, mặc dù có những từ có nghĩa "ăn năn", "hối hận" hay "hối tiếc" nhưng có ý nghĩa sửa chữa trong tương lai."
Tuy nhiên dù ý nghĩa thành phần cấu tạo văn hóa như thế nào, tôi tin tưởng rằng bằng cách cân nhắc lại thói quen suy tư của chúng ta, và bằng cách trau dồi cách nhìn tinh thần khác biệt dựa vào những nguyên tắc mà Đức Đạt Lai Lạt Ma nêu ra, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể học được cách sống không có vết nhơ tội lỗi khi nó chẳng làm được gì cả ngoài việc gây cho chính mình khổ đau không cần thiết.
CHỐNG LẠI SỰ THAY ĐỔI
Tội lỗi nảy sinh khi chúng ta thuyết phục mình là chính chúng ta đã gây ra các lầm lỗi không thể sửa chữa được. Sự dày vò của tội lỗi là cứ cho rằng bất cứ vấn đề gì cũng là không thay đổi. Tuy nhiên vì không có gì không thay đổi, cho nên đau đớn cũng vậy rồi sẽ dịu đi - Vân đề không còn tồn tại. Đó là mặt tích cực của đổi thay. Mặt tiêu cực là chúng ta chống lại sự thay đổi gần như trong mọi phạm vi hoạt động của cuộc sống. Điểm xuất phát để thoát khỏi khổ đau là khám phá ra một trong những nguyên nhân chính: chống lại sự thay đổi.
Mô tả bản chất luôn luôn thay đổi của cuộc sống, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích, " Hết sức quan trọng là tìm ra nguyên nhân hay nguồn gốc của khổ đau, và khổ đau phát sinh ra sao. Ta phải bắt đầu tiến trình này bằng cách hiểu rõ bản chất tạm bợ phù du trong cuộc sống của chúng ta. Tất cả mọi sự, các sự kiện và hiện tượng là đông lực thay đởi từng khoảnh khắc, không có gì đứng yên. Nghĩ về sự tuần hoàn của mạch máu có thể dùng để củng cổ khái niệm này, máu luôn luôn chảy, chuyển động và không bao giờ đứng nguyên một chỗ. Bản chất thay đổi từng khoảnh khắc của hiện tượng này giống như một cơ chế gắn liền. Và vì bản chất của tất cả hiện tượng đều thay đổi từng khoảnh khắc, nó cho chúng ta thấy tất cả mọi sự vật đều không có khả năng tồn tại mãi không có khả nâng giữ chúng mãi mãi nguyên như vậy. Vì mọi sự vật đều phải thay đổi, không có cái gì có thể hiện hữu trong điều kiện vĩnh viễn, không có gì có thể giữ nguyên bằng sức mạnh của chính nó. Vì mọi sự vật đều phải thay đổi, không có gì tồn tại mãi, không có gì không thay đổi trước sức tác động độc lập với nó. Vì thế mọi sự chịu tác động hay ảnh hưởng của những yếu tố khác. Cho nên, vào bất cứ lúc nào, dù bạn có thích thú hay thú vị đến đâu thì cũng không lâu bền. Điều này trở thành cơ sở phân loại khổ đau được biết trong Phật Giáo cho là đau khổ về đổi thay ."
Khái niệm vô thường đóng một vai trò chính trong tư tưởng Phật Giáo, và suy tưởng về vô thường là sự tu tập then chốt. Suy tưởng về vô thường phục vụ hai chức năng chính yếu trong phạm vi Phật đạo. Ở mức độ thông thường hay trong ý nghĩa hàng ngày, người tu tập Phật Giáo suy tưởng cái vô thường của chính mình- sự thật là đời sống rất mong manh và chúng ta không biết sẽ chết lúc nào. Khi phối hợp suy nghĩ này với niềm tin vào cuộc sống hiếm có của con người, và khả năng đạt được tình trạng Giải Thoát tinh thần, khả năng thoát khỏi khổ đau và vòng tái sinh vô tận, thì việc suy tưởng này được dùng để tăng quyết tâm của người tu tập trong việc sử dụng thời giờ của mình vào lợi ích tốt nhất, bằng cách dân thân vào việc hành trì đưa đến Giải Thoát. Ở mức độ cao hơn, suy tưởng về những khía cạnh tinh tế hơn của vô thường, bản chất vô thường của tất cả hiện tượng, người tu tập bắt đầu truy tìm bản chất thực sự của thực tại, và nhờ sự hiểu biết này, phá tan vô minh, nguồn gốc khổ đau chủ yếu của chúng ta.
Cho nên, trong khi suy tưởng về vô thường có một ý nghĩa to lớn trong phạm vi Phật Giáo, câu hỏi được nêu lên: Suy tưởng và hiểu biết về vô thường có ứng dụng thực tiễn nào trong đời sống hàng ngày cho người không phải là Phật Tử không? Nếu chúng ta nhìn khái niệm "vô thường" từ một lập trường "thay đổi", thì cậu trả lời nhất định là có. Xét cho cùng, dù ta nhìn đời bằng một nhãn quan Phật Giáo hay Tây Phương, sự thực vẫn là cuộc sống luôn thay đổi. Tới mức độ này mà chúng ta vẫn không chấp nhận sự thật đó và chống lại những thay đổi tự nhiên của cuộc sống, chúng ta tiếp tục kéo dài mãi khổ đau của chúng ta.
Chấp nhận sự thay đổi có thể là một nhân tố quan trọng trong việc giảm thiểu mức khổ đau do chúng ta tự tạo ra. Cho nên thường là chúng ta gây nên khổ đau cho chính chúng ta vì không chấp nhận từ bỏ quá khứ. Nếu chúng ta xác định hình ảnh cho chúng ta bằng những gì thường có vẻ giống hoặc có thể có vẻ giống hay không thể có vẻ giống thì chắc chắn chúng ta sẽ hạnh phúc hơn khi về già. Đôi khi, chúng ta càng cố bám níu thì đời lại càng trở nên kỳ cục và méo mó. Khi chấp nhận sự thay đổi không tránh được như một nguyên tắc tổng quát, chúng ta có thể đối phó được nhiều vấn đề, giữ một vai trò tích cực hơn nhờ học riêng về những thay đổi bình thường trong cuộc sống có thể ngăn chặn được nhiều hơn nữa những lo ấu hàng ngày, nguyên nhân của nhiều phiền muộn của chúng ta.
Phát giác ra giá trị của việc công nhận sự thay dổi bình thường trong cuộc sống, một bà mới sanh kể cho tôi nghe chuyện bà đến phòng cấp cứu lúc 2 giờ sáng.
"Có chuyện gì thế?" viên bác sĩ nhi khoa hỏi bà.
"Con tôi, tôi không biết nó làm sao!", bà ta khóc dữ dội, "tôi nghĩ rằng nó bị ngạt thở hay sao ấy. Lưỡi nó cứ thè ra; đúng là nó cứ thè lưỡi ra, lặp đi lặp lại nhiều lần như nó muốn nhổ ra một cái gì, nhưng trong miệng nó không có gì cả ..."
Sau một vài câu hỏi và khám bệnh lẹ làng, viên bác sĩ bảo đảm với bà ta, " Không có gì lo ngại cả. Khi đứa trẻ lớn lên nó ngày càng phát triển ý thức nhiều về thân thể nó và nó xem thân thể có thể làm gì. Con bà mới khám phá ra cái lưỡi của nó" Margaret, một ký giả ba mươi mốt tuổi, minh họa tầm quan trọng chủ yếu của việc hiểu biết và chấp nhận thay đổi trong phạm vi quan hệ cá nhân. Cô đến gặp tôi phàn nàn về một ít lo ấu mà cô cho là khó thích ứng với việc ly dị mới đây của cô.
Cô giải thích, "tôi nghĩ rằng có một vài cuộc gặp gỡ để chuyện trò với một người nào đó là một ý kiến hay, nó giúp tôi bỏ quá khứ và trở về đời sống độc thân. Thật thà mà nói, tôi hơi bồn chồn về việc ấy"
Tôi hỏi cô về hoàn cảnh ly dị của cô.
"Chắc tôi phải nói việc ly dị được giải quyết êm thấm. Không có mâu thuẫn, lục đục gì lớn hay điều gì tương tự. Chồng tôi và tôi đều có công ăn việc làm tốt, cho nên chúng tôi không có vấn đề gí phải giải quyết về tài chánh cả. Chúng tôi có một đứa con trai và dường nhu nó có thể thích nghi với việc ly dị của chúng tôi, chồng tôi và tôi đồng ý cả hai đều có quyền trông nom con, và việc này tiến triển tốt đẹp..."
"Ồ, tôi muốn hỏi là điều gì đã dẫn đến ly dị?
"Hừm... Tôi cho rằng chúng tôi không còn thương yêu nhau", bà thở dài " dường như tình yêu lãng mạn dần dần không còn nữa, chúng tôi không còn khăng khít như lúc ban đầu mới cưới. Chúng tôi đều quá bận về công ăn việc làm và con chúng tôi hầu như bị bỏ mặc. Chúng tôi đã có một vài lần đến văn phòng cố vân về hôn nhân, nhưng cũng chẳng đi tới đâu. Chúng tôi vẫn sống với nhau, nhưng giống như tình anh em chị em. Không cảm thấy tình yêu, tình yêu vợ chồng thực sự Dù sao, chúng tôi cùng thỏa thuận, tốt hơn là chúng tôi nên ly dị, để không còn điều gì nữa.
Sau hai lần đến khám bệnh mô tả vấn đề của cô, chúng tôi quyết định áp dụng một phương pháp chữa tâm lý ngắn hạn, đặc biệt tập trung vào giúp cô giảm thiểu lo ấu và điều chỉnh những thay đổi cuộc sống gần đây của cô. Nhìn chung, cô là một người thông minh và là một người thích nghi dễ dàng về mặt cảm xúc. Cô đã đáp ứng tốt đẹp trong đợt trị bệnh ngắn ngày và dễ dàng chuyển trở lại cuộc sống độc thân.
Mặc dù lo lắng cho nhau, rõ ràng Margaret và chồng cô đã hiểu sự thay đổi mức độ say mê là dấu hiệu chấm dứt hôn nhân. Nhiều khi chúng ta thường hiểu sự giảm thiểu say mê là một dấu hiệu báo có vấn đề tai hại trong mối quan hệ. Những lời to nhỏ đầu tiên về sự thay đổi trong mối quan hệ có thể tạo ra ý nghĩa hoảng sợ, một cảm giác hết sức sai lầm. Có lẽ xét cho cùng là chúng ta đã không chọn đúng người bạn đường. Người bạn đường không giống người mà chúng ta mê say. Những bất đồng xuất hiện - chúng ta có ý muốn quan hệ tình dục, nhưng người bạn đường của chúng ta lại mệt mỏi, chúng ta muốn đi xem một bộ phim đặc biệt nhưng người bạn đường lại không thích hoặc luôn luôn bận rộn. Chúng ta khám phá ra có nhiều dị biệt mà trước đây chúng ta không bao giờ thấy. Cho nên, chúng ta kết luận, phải chấm dứt, rốt cuộc, không phải lẩn tránh sự thật là chúng tôi trở nên có khoảng cách. Mọi việc không còn như cũ nữa, chúng tôi nên ly dị.
Cho nên chúng ta phải làm gì? Những chuyên gia về quan hệ đẻ ra háng tá sách, những cuốn sách nấu ăn bảo chúng ta phải làm gì khi đam mê và ngọn lửa tình ái lãng mạn trở nên yếu dần. Họ đưa ra vô số gpợ ý được đứa ra để nhen nhóm lại ngọn lửa tình yêu lãng mạn -sắp xếp lại thời khóa biểu nhằm ưu tiên cho tình yêu lãng mạn, trù tính các bữa ăn chiều mơ mộng lãng mạn, hoặc đi chơi xa ngày nghỉ cuối tuần, khen ngợi người bạn đường, học hỏi cách trò chuyện có ý nghĩa. Đôi khi những việc này có kết quả, đôi khi không.
Nhưng trước khi tuyên bố mối quan hệ này chết, một trong những việc có lợi ích nhất mà chúng ta có thể làm được là khi chúng ta nhận thấy có thay đổi thì hãy lùi lại, đánh giá tình hình, và trang bị cho mình càng nhiều kiến thức càng tốt những mẫu bình thường về thay đổi trong mối quan hệ.
Khi đời sống của chúng ta tiến triển, chúng ta phát triển từ lúc ẵm ngửa đến tuổi thiếu niên, đến tuổi trưởng thành, đến tuổi già. Chúng ta chấp nhận những thay đổi trong sự phát triển cá nhân như một tiến triển tự nhiên. Nhưng mối quan hệ cũng là một hệ thống động, gồm có hai cơ quan tác động lẫn nhau trong môi trường sinh động. Là một hệ thống sống, cũng tự nhiên và bình thường là sự quan hệ phải đi qua các giai đoạn. Bất cứ mối quan hệ nào cũng có những phương diện gần gũi thân mật khác nhau- thể xác, cảm xúc, và trí tuệ. Tiếp xúc thể xác chia sẻ cảm xúc, tư tưởng và trao đổi ý kiến hoàn toàn là những cách chính đáng của sự liên hệ với người mình thương yêu. Mạnh lên rồi yếu đi là bình thường nhằm cân bằng: đôi khi gần gũi thể xác suy giảm nhưng gần gũi cảm xúc có thể tăng lên, có nhiều lúc chúng ta không muốn chia sẻ bằng lời mà chỉ muốn được ôm ấp. Nếu chúng ta nhậy cảm với vấn đề này, chúng ta sẽ vui hưởng thời kỳ say mê tươi đẹp đầu tiên trong mối quan hệ, nhưng nếu nó nguội lạnh, thay vì cảm thấy lo ấu hay giận dữ, chúng ta có thể tự mình đi tới những hình thái thân mật mới cùng đem lại thỏa mãn - hay có thể thỏa mãn nhiều hơn nữa. Chúng ta có thể thích bạn tình là bạn đường đời, thích tình yêu vững chắc hơn, mối ràng buộc sâu đậm hơn.
Trong tác phẩm Cư Xử Thân Mật Riêng Tư, Desmond Morris mô tả những thay đổi bình thường xẩy ra trong nhu cầu gần gũi thân mật của con người. ông đưa ra giả thiết mỗi người chúng ta lập đi lập lại qua ba giai đoạn: "Ôm chặt lấy tôi", "Đặt tôi xuống", và " Để mặc tôi". Chu trình này trước nhất trở nên rõ ràng trong những năm đầu cuộc đời khi đứa trẻ chuyển từ giai đoạn "ôm chặt lấy tôi tiêu biểu thời kỳ ẵm ngửa rồi đến giai đoạn "Đặt tôi xuống" khi đứa trẻ lần đầu tiên thám hiểm thế giới, tập bò, tập đi, và đạt được sự độc lập và tự quản nào đó tách khỏi người mẹ. Đấy là một phần của sự phát triển và nẩy nở tự nhiên. Tuy vậy những giai đoạn ấy không chỉ tiến theo một hướng, mà ở nhiều giai đoạn, đứa trẻ có thể kinh qua một số lo ấu khi cảm giác tách rời trở nên quá lớn, thì đứa trẻ quay về với người mẹ để tìm sự xoa dịu và gần gũi. Ở tuổi trưởng thành, giai đoạn "Để mặc tôi" trở thành giai đoạn dễ nhận thấy nhất khi đứa trẻ vật lộn để hình thành cá tính. Mặc dù điều ấy có thể là khó khăn và làm cha mẹ đau đớn, hầu hết các chuyên gia đều công nhận đó là môt giai đoạn bình thường và cần thiết để chuyển tiếp từ tuổi thơ ấu đến trưởng thành. Ngay trong giai đoạn này vẫn có sự pha trộn của các giai đoạn. Trong đứa trẻ mới lớn la lối :"Để mặc tôi" với cha mẹ, nhu cầu "ôm chặt lấy tôi" có thể được đáp ứng bởi sự đồng cảm mạnh với nhóm bè bạn cùng lứa tuổi.
Trong mối quan hệ người lớn cũng vậy, sự thay đổi liên tục như vậy cũng diễn ra. Mức thân mật gần gũi thay đổi, có những thời kỳ thân mật nhiều hơn lẫn với những thời kỳ xa cách lâu hơn. Đấy cũng là một phần của chu trình sinh trưởng và phát triển bình thường. Muốn tiến tới tiềm năng đầy đủ với tư cách con người, chúng ta cần biết quân bình nhu cầu gần gũi và hòa hợp với các thời kỳ khi chúng ta phải quay về nội tâm, với ý thức tự quản sinh trưởng và phát triển với tư cách cá nhân. Nếu ta hiểu được như vậy, chúng ta sẽ không còn phản ứng bằng kinh hãi và hoảng sợ khi lần đầu tiên nhận thấy mình " đang tách rời khỏi" người bạn đường, không còn hoảng sợ gì khi nhìn nước thủy triều xuống ở bờ biển. Đương nhiên, đôi khi sự xa cách tình cảm tăng lên có thể báo hiệu những vấn đề nghiêm trọng trong mối quan hệ (giận dữ ngấm ngầm không nói ra chẳng hạn) và thậm chí sự tan vỡ có thể xẩy ra. Trong những trường hợp đó, những biện pháp như chữa bệnh có thể rất hữu ích. Nhưng đừng quên vấn đề chính yếu là xa cách phát triển không tự động có nghĩa báo hiệu là tai họa. Nó cũng có thể là một phần của chu kỳ đáp lại việc xác định mối quan hệ một lần nữa trong một hình thái mới mà nó thể đoạt lại hay còn hơn cả sự thân mật gần gũi trong quá khứ.
Cho nên, việc chấp nhận, hay thừa nhận sự thay đổi là một phần tự nhiên trong phản ứng qua lại của chúng ta với người khác, đóng môt vai trò quan trọng trong quan hệ. Chúng ta sẽ vỡ lẽ ra rằng chính vào lúc chúng ta cảm thấy thất vọng, nhất như thể mối quan hệ không còn là cái gì đó, thì sự thay đổi sâu xa xẩy ra. Giai đoạn chuyển tiếp này có thể trở thành điểm then chốt khi tình yêu thực sự bắt đầu chín mùi và thăng hoa. Mối quan hệ của chúng ta không còn dựa vào sự đam mê cao độ, coi người kia là hiện thân của sự tuyệt hảo, hoặc cảm thấy hợp nhau. Nhưng trong khi trao đổi vì điều đó, chúng ta nay ở một vị trí bắt đầu thực sự biết người kia - hiểu người kia là như thế, một cá nhân riêng rẽ, có thể có khuyết điểm và nhược điểm, nhưng là một con người như chúng ta. Chính ở điệm trọng tâm này mà chúng ta có thể đưa ra lời cam kết trước sự tăng trưởng của một người kia - một hành động của tình yêu thực sự.
Có lẽ cuộc hôn nhân của Margaret có thể cứu được bằng cách chấp nhận sự thay đổi tự nhiên trong quan hệ và thiết lập mối quan hệ mới dựa vào những nhân tố không phải là đam mê và lãng mạn.
Tuy vậy may mắn là câu chuyện chưa chấm dứt tại đây. Hai năm sau lần khám bệnh cuối cho Margaret, tôi tình cờ gặp cô trong khu vực cửa hàng cửa hiệu (cảnh ngẫu nhiên gặp bệnh nhân cũ trong môi trường xã hội làm cho tôi, cũng như hầu hết các bác sĩ chuyên khoa, cảm thấy một chút lúng túng).
Tôi hỏi, "Dạo này cô ra sao?"
Cô reo lên "Còn gì tốt hơn! Tháng trước, tôi và chồng cũ của tôi tái hôn"
"Thực sao?"
"Vâng đúng, và mọi việc diễn ra tuyệt trần. Chúng tôi tiếp tục gặp nhau vì cùng trông nom con. Dầu sao, lúc đầu cũng khó khăn... nhưng sau khi ly dị, không biết làm sao áp lực không còn nữa. Chúng tôi không còn ước vọng gì nữa. Và chúng tôi thấy chúng tôi thực sự thích nhau, và thương yêu nhau. Mọi việc không giống như khi chúng tôi cưới nhau lần đầu, nhưng không thành vấn đề, chúng tôi thực sự hạnh phúc. Tôi cảm thấy đúng như vậy."