TRẦN NHÂN TÔNG (1258-1306)
Hoàng đế thư 3 nhà Trần, nhà Phật học và nhà thơ Việt Nam. Tên thật là Trần Khâm; miếu hiệu Nhân Tông. Cũng là nhà Phật học đứng đầu Trúc Lâm tam tổ, phái Thiền Tông Yên Tử. Là con trưởng vua Trần Thánh Tông. Sinh ngày 07/12/1858. Nguyên quán ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc Nam Định.
Năm 1278 ông lên ngôi, cùng với cha và các đại thần Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật...chấn chỉnh việc nước, vượt khó khăn, hai lần đánh tan quân Nguyên-Mông xâm lược (1285-1287)
Là người rất mực nhân ái, khoan hòa; triều đại ông nổi bật tinh thần quân dân đại đòan kết; nổi bật qua hai cuộc Hội nghị Diên Hồng và Bình Than.
Năm 1293, ông nhường ngôi cho con là Trần Thuyên (tức Anh Tông), làm Thái Thượng Hoàng, cùng con coi sóc việc chính trị. Ðến năm 1299, ông hoàn toàn phủi sạch trần tục, lên núi Yên Tử ẩn tu; pháp hiệu là Hương Vân đại đầu đà, khai sáng Thiền Tông phái Yên Tử, cũng gọi là phái Trúc Lâm. Ðược người đời tôn xưng là Ðiều Ngự giác hoàng.
Ông mất ngày 16/11/1308 tại Yên Tử.
Tác phẩm chính:
"Thiền lâm thuyết chủng ngữ lục"
"Tăng già toái sự"
"Thạch thất mỵ ngữ"
"Ðại lương hải ấn thi tập"
"Trần Nhân Tông thi tập"
Hiện nay các tác phẩm trên đã thất lạc; chỉ còn khoảng hơn 20 bài thơ chữ Hán và 1 bài phú Nôm "Cư trần lạc đạo" chép trong "Việt âm thi tập" và "Thiền tông bản hạnh".