Thượng du đất Việt. Núi đồi trùng trùng điệp điệp vắt suốt từ Tàu sang nội địa Việt Nam, chạy dọc theo thế liên hành nhấp nhô khắp bốn phương tám hướng...
Miền đèo cao dốc vút rừng núi thiên hiểm hùng vĩ không thua đất Ba Thục (Tứ Xuyên) bên Tàu.
Miệt Bắc Cạn Cao Bằng lại là đất sản sinh nhiều ngựa nhất Đông Dương, ngựa Nước Hai, Nguyên Bình tốt giống, chạy hay không kém ngựa Châu Tứ, Châu Ký bên Tàu nên đương thời, vùng Cao Bắc Lạng rất lắm xe ngựa, đặc biệt loại xe song mã, vừa chở hàng, vừa chở khách. Vào dịp có phiên chợ tỉnh, châu, chỗ nào cũng đầy xe ngựa. Du khách thị thành, bình nguyên đi chơi hồ Ba Bể thường thích đi xe song mã, cỡi ngựa nếm phong vị sơn cước, trai thanh gái lịch lũ lượt từng đoàn áo màu phấp phới như hoa nở Sơn Khê.
Hôm đó, vào dịp có phiên chợ, lại nhằm ngày thứ bảy, độ nghỉ hè, khách thương, du khách, thổ dân từ các miệt Cao Bằng, Tĩnh Túc, Chợ Rã, Bắc Cạn ngược xuôi đông đúc. Con đường nhánh quốc lộ số 3, ngựa xe qua lại lũ lượt, đám từ hồ Ba Bể ra, đám từ các mạn đổ vào, cảnh vui như trẩy hội.
Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều nhưng mặt trời tháng năm vẫn đổ nắng xuống sơn lâm.
Con đường Tổng Hoá - Chợ Rã quanh co uốn khúc giữa núi rừng trùng điệp, cái bụi hoe vàng cuốn bay từng đám theo bóng ngựa xe.
Khí trời, khí đá oi ả. Thỉnh thoảng mới có một cơn gió thổi qua hẻm trống.
Hoa “Krỏng” đỏ ối ven rừng xanh, vách núi gần xa. Vài tiếng vượn hót chon von nghe buồn ngủ gật, khách ngược xuôi đều chảy mồ hôi.
Vào khoảng bốn giờ rưỡi, mặt trời ngả núi tây, nắng xiên khoai thêm gắt, chợt có một đoàn bốn năm cỗ xe ngựa lóc cóc đổ dốc, và dừng lại trước một quán bên đường, cạnh cầu suối râm mát.
Một chú xà ích trung niên trung niên người Kinh lật chiếc mũ “phở” vừa quạt vừa nói oang oang tiếng Kinh:
- Nào! Mời các ông, các bà, các cô, các cậu vào quán nghỉ ngơi cho mát mẻ, còn đi! Dạo này nghe đồn có chó sói, đười ươi kéo về, ta đi thành đoàn chắc dạ hơn!
Hành khách lũ lượt nhảy xuống đem theo cả hành lý nhẹ. Đây là loại xe chở hàng, mới sửa qua chở khách, chở dân, khách buôn, du khách, nam phụ lão ấu Kinh, Thổ, Tàu, Ấn, Mán lẫn lộn, trong số có mấy nam nữ du khách trẻ người Kinh dưới xuôi, có ba bốn lính tuỳ tùng. Bọn nay coi xinh lịch quý phái, nhác trông biết ngay con cái nhà quan đi chơi hồ.
Khách vào quán hết, chợt thấy một ông già Thổ mặc quần áo Chàm nhạt màu lững thững xuống xe, tay lại xách một cái ô đen chỉ người Kinh mới dùng thay nón.
Khi lão ta vào tới cửa quán, thì chú xà ích vừa rồi cũng vào tới, nhe răng cười hỏi bằng tiếng Thổ:
- Ồ! Ông cụ “người nhà gác” cũng che ô?
Điềm đạm, lão Thổ đáp tiếng Kinh:
- Tôi thường về chợ! Cái ô này tiện lắm, vừa để che nắng, chống thay gậy.
Nghe lão nói tiếng Kinh sõi như người Kinh, chú xà ích có vẻ ngạc nhiên lắm, rủ lão cùng vào.
Một cô gái nhà quan thỏ thẻ hỏi:
- Bác xà ích này! Vừa giờ bác bảo có chó sói, đười ươi mới về vùng này phải không?
Chú xà ích nốc cạn bát nước chè tươi, chừng cao hứng, trợ mắt gật lia lịa, đáp:
- Đúng đó, cô! Tôi còn nghe mấy người đi xe ngựa trong núi bảo có cả đười ươi, chó sói thành tinh, mới tuần trước mò ra hồ Ba Bể bắt mấy người đàn bà đẹp mã.
Lập tức có nhiều tiếng nhao nhao phản đối, tỏ ý không tin, một lão xà ích khác trạc ngũ tuần kêu lớn:
- Ba Đen! Chú mày muốn giải nghệ đánh xe ngựa, cứ giải chớ kéo bọn tao vào. Chú mày định phao ngôn quái vật thành tinh bắt đàn bà con gái, cho bà con thiên hạ sợ hết hồn không dám bén mảng tới vùng hồ Ba Bể này, để bọn tao uống nước hồ trừ bữa?
- Mấy chai Văn Điển rồi, mày?
Chú xà ích Ba Đen vừa định trợn mắt cãi, bỗng người chủ quán Kinh lai Thổ trạc bốn mươi giơ tay, trợn mắt nói to, vẻ đầy nghiêm trọng:
- Đúng đấy! Chú Ba Đen nói đúng đấy, các ông, các bà ạ! Chính tôi cũng nghe nói hơn tuần nay! Tối kia, hình như “ông ta” mò về sau nhà này thì phải! Tôi nghe thấy tiếng chân dẫm lá khô, dòm ra, thoáng thấy hình thù xờm xoàm vòng ra chỗ chân cầu ngoài kia! Tôi nghe ông lội bì bõm!
Đám nam nữ du khách lộ vẻ ghê, đưa mắt ngó nhau. Lão xà ích cười chế nhạo:
- Này! Tư Cao! Lại chú mày nữa! Chú mày muốn phao ngôn cho ế khách đóng cửa quán về "ở nhà gác" chơi? "Ông" nào ?
- Ông đười ươi chứ còn ai nữa ? Đi hai chân, đầu như cái thúng còn ông nào vào đây ?
Cô gái nhà quan lè lưỡi:
- Ôi chao! Nghe khiếp quá! Chú không sợ ?
- Sợ gì ? Tôi có cái này đeo làm bùa hộ mạng, không sợ!
Chủ quán lôi dưới chõng ra hai ống nứa bóng loáng dài mấy gang tay, đưa cho cô gái Kinh. Đám du khách xúm lại coi. Dõng dạc, chủ quán giải thích:
- Giống đười ươi bắt người ta, bao giờ cũng vồ lấy cổ tay, đứng ngửa mặt dòm mặt trời cười, đợi mặt trời lặn mới ăn thịt! Người đi rừng sợ nạn đười ươi ăn thịt, mới chế ra món ống nứa này, xỏ vào tay, đười ươi vớ được, nắm khư khư, dòm mặt trời cười, người ta bèn nhè nhẹ rút hai tay ra, trốn mất, để đười ươi giữ hai ống không, nên ta mới có câu "đười ươi giữ ống" vậy!
Đám trai tỉnh tỏ vẻ thích thú, pha lẫn lo sợ . Cô gái kia reo thảnh thót:
- Bác quán ơi! Bác làm ơn để lại cho bọn tôi đi, bao nhiêu cũng được mà! Cặp ống này tốt không?
Chủ quán Tư Cao tỏ vẻ tần ngần:
- Tôi có chế mấy bộ cho cả nhà đây! Vậy xin biếu các ông bà, cô cậu, lát tôi làm bộ khác vậy!
Dứt lời, y bưng ra một thúng đầy ống nứa . Đám người Kinh xúm lại chọn, đeo thử vào tay. Cô gái bảo mấy người lính "dõng" lấy phòng . Viên cai vỗ vào cây súng "Mút" nói lớn:
- Bọn tôi có cái này!
Chủ quán được mấy đồng "xoè", chỉ riêng chú xà ích Ba Đen làm một cặp biếu không.
Mọi người đang tiếp tục bàn chuyện đười ươi, chó sói, lão Thổ cầm ô lặng lẽ ngồi một góc uống nước, kéo điếu cày nhìn mây bay trên đỉnh đèo cao.
Lát sau, cả mấy cỗ xe ngựa lại chuyển bánh chạy về hướng Chợ Rã, hồ Ba Bể.
Mặt trời đã ngả núi Tây. Sương chiều khí núi bắt đầu dâng, nhưng xe đi được một quãng thình lình trời im bặt gió . Im bất ngờ và rất nhanh, đến chỉ trong chớp mắt, cảnh sơn lâm bỗng như bức tranh tĩnh vật vẽ cảnh hoàng hôn ứa máu trong ác mộng .
Lão Thổ lạ ngồi cùng xe với trai gái con nhà quan, bỗng lẩm bẩm:
- Sắp có cơn giông lớn ?
Ai nấy nhìn quanh bàn tán . Xe vừa lên ngọn dốc, ngựa thở mạnh .
Bỗng lão Thổ gọi vọng lên:
- Xà ích! Đổ dốc mau! Lốc sắp tới, xe bay xuống vực như chơi!
Lời vừa dứt, xe sau, lão xà ích vùng kêu lớn:
- Đổ mau! Đổ mau! Lốc lốc! Xuống chỗ khuất ẩn, chậm chết hết!
Hành khách nhốn nháo, xà ích quất ngựa đen đét, mấy cỗ xe lao xuống như bay.
Quả nhiên, xe vừa xuống gần chân dốc bỗng mây đen cuồn cuộn che kín mặt trời, rồi cuồng phong nổi dậy ầm ầm, đổ lộc rung cây, cái bay mù mịt.
Trên biên thùy sơn cước, vào mùa hè, xưa nay vẫn có những cơn phong vũ bất thần nhanh và khủng khiếp như ác mộng . Trời đang nắng chang chang, mây trắng xốp như bông gòn bay trên nền trời xanh lơ thăm thẳm, bỗng nhiên mây đen kéo tới, trời đất tối sầm, rồi đùng đùng gió thổi, mưa đổ như trút nước . Chỉ trong nháy mắt, mưa giông xoá mù hết núi rừng, đứng cách hai ba thước không còn thấy gì nữa . Và chỉ sau ít phút, nước nguồn lụt suối, chảy như thác, ngập hết cầu, lữ khách mất lối về, phải đợi nước rút mới đi lại được . Người đường xuôi mới lên đường ngược, ngoạn cảnh bàng hoàng trước mưa gió bất thần, nhưng cũng được nhiều cảm giác, đặc biệt là thú leo cầu vồng!
Không phải là thứ cầu treo chênh vênh lơ lửng qua suối vực, mà là cầu vồng thật, thứ cầu mà ta thường thấy mọc từ chân trời lên cao báo điềm thời tiết . Đây là cầu vồng mọc từ chân núi lên, có khi mọc ngay bên một dòng suối, thác sát ngay cạnh núi đá, đúng chỗ có cầu treo cầu gỗ nứa bắc qua, rực rỡ muôn màu, cong vút tận thinh không . Cầu này chỉ là tụ khí trời đất vô hại, rất có thể là nguồn bồi bổ nguyên khí ngũ hành, nên lữ khách cứ việc leo qua cầu treo, leo luôn cái chân cầu vồng mọc từ chỗ đó lên trời . Nhưng nếu chỗ nó hướng Đông hoặc nó chỉ mọc vài thước về hướng Tây, đó là cái mống, khách bộ hành mau chạy tìm chỗ ẩn vì sẽ có cơn mưa giông bão lụt đến nơi!
Tuy vậy, chưa đáng sợ bằng loại giông tố, cuồng phong, thổ dân gọi là "lốc ma", "lốc quỷ", một thứ lốc tử thần nguy hiểm nhất trên này, nhất tại những vùng đèo cao dốc vút . Đang nắng, bất thần thiên hôn địa ám, rồi cuồng phong kéo tới với sức mạnh khủng khiếp, xoắn gãy cây cối, xoắn khách bộ hành, người ngựa bốc lên trời, ném xuống vực như ném đồ hàng mã, không sức nào cưỡng nổi . Nguy nhất là nó đến nhanh lạ thường . Thấy trời tối sầm chỉ chạy được vài mươi thước có khi nó đã tới . Gặp lúc đang đi trên đèo cao chốc núi, không có mã phu hướng đạo biết điềm trời, trói ngay người ngựa vào hốc khuất thì lữ khách kể như đã đầu quân âm phủ, làm lính Diêm Vương! Hoặc may phúc chưa phải lốc ma mà chỉ là một trận cuồng phong nhỏ, cũng dập mày dập mặt, bị thương vì ngã lụi, cát bụi đá vụn ném vào mặt .
Rất may là mấy cỗ xe ngựa này đã chạy xuống gần chân dốc . Và trận gió cuồng cũng chưa phải lốc ma. Nhưng mới có mấy đợt tạt vào, bầy ngựa đã muốn dúm vó, loạng choạng vì cỗ xe bị gió thổi mạnh muốn vật ngang .
Rào rào! Cái bụi, đá dăm, lá cây bắn vào xe ngựa tối tăm mặt mũi . Xà ích thất kinh, kéo sụp mũ che trán, ra roi đen đét, người hét, ngựa hý, hành khách kêu, náo loạn .
Rắc rắc! Một cành cây bên đường bị xoắn gãy, gió bốc ném rầm vào cỗ xe lão xà ích đi sau lão Ba Đen .
Lão khách Thổ xách ô ngồi ngay cửa hậu xe trước . Bỗng trong gió vẳng có tiếng ai kêu "trời! đổ!" hành khách đưa mắt dòm lại thấy cỗ xe thứ hai kia ngựa bị trúng đầu cành, giật mình hoảng chồm ngang, cỗ xe theo đà gió thổi ngã vật ngựa dúm vó không kìm nổi . Ngay bên đường là cái hố suối sâu bảy tám thước, lão xà ích kêu rú lên giật cương không nổi .
Nhưng bỗng hai con ngựa lại đứng thẳng vó, thùng xe vụt ngay ngắn như thường . Hành khách ngồi trong hú vía, chẳng ai hiểu vì sao .
Rào rào! Đá dăm, cát bụi lại ném một mớ vào xe . Lão Thổ đóng úp cửa hậu, cả đoàn xe bốn năm chiếc xuống chân đồi vô sự .
Không bảo nhau, cả bọn xà ích đều chực gò cương, dừng xe lại .
Lão Thổ vùng quát át cả cuồng phong:
- Cứ chạy! Kiếm chỗ khuất gió! Chỗ này trống!
Đoàn xe tiếp tục chạy trên đường cát bụi. Tiếng gió rít ghê người. Ngựa hý từng tràng. Cũng may gió thổi ngang, hai bên mang tai có da che, cát đá không vào mắt ngựa, nhưng bị cát đá đau như roi đét.
Cuồng phong vẫn ào ào, cây rừng trút lá bay loạn trong không khí với những mớ cát bụi cuốn mù đường.
Chạy khỏi khu dốc độ một trăm năm mươi thước, chợt con đường mòn quanh co chạy bên một reng núi chắn chếch bên phải, cản phần lớn cuồng phong. Xà ích mừng rỡ vừa toan rủ nhau dừng xe lại đợi dứt cuồng phong sẽ đi tiếp, bỗng thấy đằng trước có hai cỗ xe ngựa từ hướng hồ Ba Bể, chợ Rã chạy như giông tới, vẻ hốt hoảng như bị ma đuổi.
Khi hai cỗ xe kia lại gần, mọi người nhìn thấy trong xe có nhiều bàn tay thò ra xua lia lịa. Xà ích ngồi trước thùng xe lật mũ dạ khoa tít. Người trong xe kia nhấp nhổm vươn cổ sang hét inh ỏi, tiếng bị gió tạt bay:
- Quay lại, quay lại mau... không chết hết! Loạn... quay...
- Quay... lại.. nó về nhiều ăn thịt chết hết!
Mọi người nghe loáng thoáng, chẳng hiểu chuyện chi, nhưng sợ lắm. Xà ích Ba Đen nhoài mình vươn cổ đón hỏi lớn:
- Gì đấy? Chuyện gì?
Xe vừa gặp nhau, chú xà ích kia hét to, mặt xanh như đổ chàm.
- Loạn rừng! Loạn rừng hồ Ba Bể! Hùm beo, chó sói, đười ươi... ra từng đàn kéo về...
Cả hai cỗ xe đã chạy lồng qua, còn nghe tiếng người kêu réo. Ai nấy còn đang dáo dác nhìn nhau, bỗng lại thấy hai ba tốp vừa cỡi ngựa thồ vừa đi bộ dắt xe đạp chạy như điên tới, vẻ kinh hoàng vô cùng!
Thấy xe chạy tới, họ hét inh ỏi:
- Chớ đi tới! Loạn rừng! “Các ông các bà” kéo về.. mới “cõng” mấy người đằng kia..
Có người sợ quá, vừa hét “quay lại”, bỗng phía trước, sau khúc quẹo, chạy xổ ra một bọn vừa thổ dân vừa dân buôn, lại có kẻ dắt xe đạp chạy.
Chỉ nhìn qua đã thấy cảnh chạy như ma đuổi, đám hành khách, xà ích trên mấy cỗ xe ngược chợ Rã đều nhô đầu ra dòm, chưa hiểu chuyện chi.
Bỗng nghe có nhiều tiếng gầm rống vang động trong gió cuồng, ai nấy nhìn kỹ, mới chợt nhận ra có một đàn vừa beo cọp vừa cầy cáo, hươu nai chạy rầm rập trên đường như rượt theo đám bộ hành, xe cộ.
Lúc đó thiên hôn địa ám, cái bụi lá cây bay đầy đường. Quãng này tuy có núi cản gió nhẹ đi nhiều, nhưng cuồng phong vẫn ào ào, lại thổi tạt ngang chếch như xô người và vật vào núi, chạy phía sau là mấy con cọp mộng, coi không khác một bầy thú gánh xiếc thả phóng trên đường.
- Hùm beo! Hùm beo đuổi người! Quay xe lại!
Có nhiều tiếng thét thất thanh. Xà ích Ba Đen đi đầu chợt hãm xe lộn lại. Bỗng lão Thổ quát:
- Cứ chạy thẳng! Lộn lại ngược gió chạy sao được! Loạn rừng, thú chạy, mặc nó!
Tiếng lão quát có mãnh lực làm xà ích nghe ngay, cứ cho xe chạy thẳng.
Ào ào! Đám xe cộ bộ hành phía trước vừa chạy tới, nhiều người giơ tay làm hiệu xin lên, nhưng xà ích không dám ngừng xe.
Hai đám gặp nhau, đúng lúc bầy thú chạy tới. Mấy con hươu, nai nhảy chồm lên, đâm cả vào khách bộ hành. Hùm beo gầm rống, nhe nanh múa vuốt phóng tới. Một con cọp mộng xám nhảy chồm qua đầu một con hươu sao, vồ người đàn ông Kinh dắt chiếc xe đạp ghi-đông “ca-rê” loại “Te-rô”. Người này ngoái nhìn lại, sợ hết hồn, đẩy phóng chiếc xe lại, trúng bụng con cọp, đúng lúc nó vồ xuống, ôm luôn cả phần sau của chiếc xe, không khác nào cọp cỡi xe đạp. Cả xe và con cọp ngã vật xuống. Đúng khi đó, đoàn xe ngựa chợ Rã, hồ Ba Bể chồm qua, ngựa ngửi mùi ác thú, nhác bóng hùm beo, nhất loạt hý vang lừng, chồm hai vó trước, không dám chạy nữa, muốn phá đứt dây cương.
Xà ích cũng sợ hết hồn, hành khách nhốn nháo. Liền ngay đó, ba bốn con ác thú nhảy xổ tới. Chúng thấy nhiều người ngựa, chừng nổi tính nóng, nhất loạt chồm vào, có con nhảy tót cả lên lưng ngựa, coi dễ sợ!
Hỗn loạn cực kỳ! Xà ích quất roi đen đét, ngựa vẫn không đi. Đoàn xe dồn cục nối đuôi. Khách bộ hành vừa kêu vừa cuống cuồng leo bừa lên xe, có kẻ quá sợ, lại chui vào gầm.
Trong cỗ xe đầu, có hai ba chú lính dõng đeo súng “mút” phò đám con cái nhà quan nhưng thấy cảnh loạn rừng, ác thú chạy nhông nhông trên đường vồ người ngựa, bọn dõng này cũng sợ hết vía, quên cả súng đeo vai.
Hành khách kêu inh ỏi, nhiều kẻ phát cuống lại chực lom khom nhảy xuống đường, kiếm chỗ núp cho kín hơn.
Nhưng lão Thổ ngồi chắn ngay cửa hậu, vùng quát lớn:
- Ngồi yên! Có mấy con cọp, chớ sợ! Mấy chú dõng! Bắn đi chớ!
Bọn dõng lúc đó mới nhớ ra, kéo súng, lên “quy-lát”, dáo dác chĩa ra, chưa kịp bắn, đã thấy hùm beo phóng tới.
Dõng bóp cò bừa. Rõ ràng vì xúc động nên cả mấy mũi súng đều chỉ thiên. Nhưng lạ thay, cả mấy ác thú rống lên, ngã vật xuống chân ngựa, bánh xe, chân người, giẫy dụa ra chết.
Lúc đó, cả mấy cỗ xe xuôi ngược cũng dừng lại. Thú rừng, khách bộ hành, khách trên xe nhốn nháo kiếm chỗ núp. Ngựa hý chồm muốn đổ xe. Bỗng thấy mấy con cọp ngã lăn kềnh sau mấy phát súng chi thiên, hầu hết ai cũng hoảng hồn hoảng vía hoa cả mắt chẳng thấy gì nữa. Ai cũng tưởng mấy chú lính dõng bắn trúng, chỉ có đám trai gái nhà quan ngồi trong xe đầu cạnh mấy chú, thấy rõ mũi súng ngóc lên trời, có cô cậu lại tưởng hùm beo nghe súng giật mình ngã quay!
Ngay lúc đó, bộ hành người Kinh vừa quăng xe đạp vào con cọp mộng, hoảng sợ chạy lung tung, nghe tiếng gầm sau lưng, bèn phóng luôn sang bên đường, khom mình chui vào gầm xe đầu.
Con cọp mộng ngã ôm chiếc xe đạp nổi hung tạt một cái bắn chiếc xe đạp vào bụi và phóng rượt theo chủ cái xe, cách hai thước lại bị một con hoẵng chạy đâm ngay trước mặt. Con cọp vả một cái, bay luôn cái đầu con hoẵng, cái mình còn chạy mấy bước mới đổ dụi. Con cọp gầm lên nhảy tới vồ người kia.
Nhiều kẻ trông thấy kêu rú lên, bỗng nghe con cọp rống lên một tiếng rồi nhảy bổ xuống ôm trúng lưng người chủ xe đạp như cỡi lên mình y.
Người này ré lên khủng khiếp, cứ giẫy dụa nửa mình trong gầm xe, lão Thổ ngồi ngoài túm gáy con cọp mộng lôi phứa lên, muốn chật cửa xe. Người kia chui ra, mặt xanh như chàm đổ nhìn thấy con cọp, y lại nhảy dựng lên, ù té chạy tưởng cọp mò lên xe.
Hành khách thấy cọp cũng sợ hết hồn, lão Thổ vỗ đầu cọp bảo:
- Ba mươi chết rồi, còn sợ gì nữa! Chẳng hiểu sao nó chết? Mấy thầy dõng bắn nó phải không?
Đám dõng ngó nhau, ngó quanh thấy thú rừng đã chạy hết, xác cọp beo nằm rải rác. Một người cai dõng gật đầu, vỗ “đốp” báng súng nói to:
- Còn ai vào đây nữa, ông già! Bọn tôi coi hùm beo như con chó dữ mà!
Lão Thổ ngỏ lời khen, nói lớn:
- Yên rồi, chú xà ích à! Đi thôi!
- Còn loạn rừng mà! Chỉ sợ lại gặp mấy ông ba mươi kéo ra!
- Có súng đây, sợ gì? Không đi định nằm giữa rừng chắc?
Một người một ý, cỗ xe xuôi cùng đám bộ hành, có kẻ đã lên xe núp, vùng nhảy xuống hè nhau đi miết về mạn Tổng Hoá. Mấy cỗ xe ngược cũng tiếp tục cuộc hành trình.
Nhưng vừa khỏi nguy, đỡ sợ, lòng tham lại dậy, nhiều kẻ ùa xuống nhặt xác hươu, beo, cọp khiêng ì ạch, cuối cùng lại phải nhường cho bọn xà ích để mui xe, coi như món “bổng” dọc đường. Đoàn xe lại tiếp tục lăn bánh trên đường.
Trời vẫn giông tố, cái bụi lá rừng bay loạn, mấy khúc đường này vẫn có núi chắn gió, nên xe chạy không đến nỗi vất vả.
Chừng hai mươi phút sau, xe ra khỏi vùng núi chắn, tới quãng đường xe chạy chậm lại, tuy vậy phía núi bên tay phải cũng chạy chênh chếch cách đường cũng chỉ độ trăm thước, nên cũng đỡ cuồng phong.
Trời đất vẫn hôn ám, nhưng chưa có giọt mưa nào. Hành khách ngồi sát vào nhau, quần áo bay phần phật, đang bàn chuyện loạn rừng.
Bỗng ngựa ré lên, lại hất đầu vểnh mõm, như muốn giở chứng.
Xà ích chưa hiểu chuyện chi, cứ quất ngựa đen đét giục chạy. Chợt có tiếng kêu hoảng, giọng Thổ:
- Kòi ka! Kòi ka (coi kìa coi kìa) ông Trư.
Trên rừng có nơi thổ dân thường gọi lợn độc là “trư”. Mọi người cùng nghển cổ, thò đầu dòm, chú xà ích Ba Đen bỗng kêu “ối trời kìa”. Mãi lúc đó, mọi người mới trông thấy trước mặt, phía tả có một đàn lợn lòi vừa từ trong rừng chạy qua đường, đến năm sáu con, con nào con nấy to gần bằng con trâu, nanh chìa hai bên mép hơn gang tay, vừa chạy vưa kêu “hộc, hộc”, đằng sau lại có đàn lợn hàng chục con.
Khi cả lũ đã sang bên kia đường, lại có một đàn nữa ngót hai chục con. Cách đầu xe độ hai mươi thước lại một bầy hươu nai, cầy, hoẵng, nhím, sơn dương vừa gấu lợn, gấu chó, gấu ngựa chạy nhông nhông qua đường, không khác bầy thú gánh xiếc diễn hành trong giông tố.
Không bảo nhau, cả mấy người xà ích đều hãm xe chậm lại cố ý chờ bầy thú rừng đi qua. Gấu, lợn lòi tuy không đáng sợ bằng hùm beo, chó sói đàn, nhưng giống này nổi hung, lại còn nguy hiểm hơn cả hùm beo.
Dân sơn cước, thợ săn đều hiểu rõ “đặc tính” của mấy loài này. Gấu ngựa từ trên cao phóng xuống không đáng ngại nhiều! Vì giống này có cái bờm như bờm ngựa theo chiều dốc, bờm che kín mắt, nó không thấy rõ người ta. Nhưng nếu nó phóng từ dưới lên, bờm rẽ hai bên, người vật coi chừng! Nó phi nhanh như ngựa, hùng hơn cọp, nhanh như khỉ vượn, chỉ một cái vờn chồm đã chụp được cả người lẫn súng như chơi. Còn lợn lòi có thói nổi hung khi bị thương hoặc ngửi mùi thuốc súng. Nó to như cánh phản, nhưng phóng tới nhanh như gió, chỉ húc chúi một cái cây đổ gãy đừng nói người! Trên Yên Bái có kẻ dùng tên tẩm nhựa “sui” bắn trúng mắt một con lợn lòi bên kia suối, nó đeo tên phóng ùm qua, người này nhanh chân bám dây leo lên cây, nó húc một cái suýt trúng người, chẻ bay một mảnh cây to bằng miệng thúng đầy nửa gang. Cứ thế nó lồng lộn kêu hộc nhảy chồm húc, rung chuyển cây như có bão. Năm phút sau thuốc ngấm, nó ra suối uống nước rồi gục chết. Thân cây đã bị chẻ tước hai phần ba quanh gốc; củi chất một đống. Lợn lòi thường đi một mình, đi hai là nhiều, nên gọi lợn độc.
Chiều nay loạn rừng, nó mới kéo đi từng đàn. Chỉ loáng mắt chúng đã phóng qua đường gần hết. Nhưng con đi trước bỗng nhìn thấy mấy cỗ xe chạy lóc cóc, tự nhiên nó kêu hộc lên đảo vòng lên đường, phóng tới cỗ xe đang lăn bánh.
Chẳng may đúng lúc đó, mấy con gấu cũng vừa băng qua đường cách xe mươi thước, lợn lòi đâm sầm vào một con gấu ngựa to lớn, ngã lăn kềnh.
Trời vẫn giông tố. Gió cuồng mạnh, yếu tuỳ theo thế đồi núi chạy bên đường. Lúc này ngựa đã mệt lại thêm mấy con cọp mộng trên mui, xe chạy bắt đầu ì ạch, gió tạt, ngựa thở hộc. Nhưng bọn xà ích vẫn tiếc mấy xác thú quý, vì xương da hổ lúc nào cũng đắt giá. Nhứt là cỗ xe Ba Đen lại “dính” thêm con gấu ngựa bên sườn, chạy càng nặng.
Được một quãng nữa, tới một chiếc cầu khá cao, cỗ xe song mã của Ba Đen lên được giữa cầu. Ngựa mệt, phải chậm bước tụt hậu, cho mấy cỗ xe sau vượt trước. Mấy cỗ xe kia vừa đổ khỏi dốc cầu, bỗng ào ào, thú rừng từ bên rừng tả chạy túa ra hàng mấy chục con, rải rác một quãng đến bảy tám chục thước.
Xe đang xuống dốc, cứ chạy bừa, hành khách nhốn nháo kêu inh ỏi, may sao đàn thú rừng này toàn là loài ăn cỏ ăn củ như hươu, nai, hoẵng, sơn dương, nhím... Xe chạy bừa chẹt cả vào chúng, có kẻ động lòng tham tiếc của giữa đường, nhoài mình vươn cổ dòm xuýt xoa.
Chỗ dưới chân dốc cầu, đường ăn vòng cung về bên trái, cỗ xe Ba Đen chạy sau cùng, đổ dốc khá nhanh.
Vừa tới khúc quanh, chỗ có hai ba con thú nhỏ mới bị chẹt chết, thình lình từ nẻo rừng bên trái có con đường tiều hướng về hồ Ba Bể bắt ra, bỗng có hai thớt ngựa phóng ra như hai mũi tên lao.
Bên đường cây cối bờ bụi um tùm, khi hai thớt ngựa vừa vọt ra, thì cỗ xe song mã cũng vừa chạy tới, hai bên chợt thấy xe, ngựa đã kề đầu.
Có tiếng người cỡi ngựa kêu thất thanh. Hành khách trên xe nhiều người rú lên.
Lão Thổ tuy ngồi sau xe, lại trông thấy trước, giật mình quát lớn:
- Hãm lại!
Như máy, Ba Đen vừa kêu “uý trời” vừa gò cương giật cương thật mạnh. Hai con ngựa hãm vó, nhưng vì đang đà vừa đổ dốc, lại nhọc, nên cứ trườn đi hàng thước mới dừng. Thớt ngựa chạy trước được gò lại, nhưng cũng đâm sầm vào càng xe, ngã vật xuống, hất văng người cỡi ngựa ra xa. Thớt sau người cỡi kêu lên, vừa hãm, vừa vươn mình thò tay chụp lưng người trước, nhưng không kịp. Thớt ngựa này đâm rầm vào thùng xe, cũng đổ sụm theo.
Hành khách, xà ích cùng rú lên, đinh ninh kỵ sĩ vỡ đầu chết tươi.
Ai nấy nhốn nháo, nhổm cả lên, có dòm, hỏi lớn:
- Có sao không? Có sao không?
Lão Thổ, xà ích Ba Đen cùng nhảy xuống đường, chạy lại chỗ ngựa ngã.
Thớt ngựa đâm càng xe là con ngựa trắng, kỵ sĩ cũng mặc toàn quần áo trắng. Con ngựa này ngã bên chân ngựa kéo xe và không dậy nữa, nằm trợn mắt thở hồng hộc. Còn kỵ sĩ áo trắng may sao lại bắn văng ngay phải bụi rậm đầy dây leo, nằm bất động.
Còn thớt ngựa thứ hai là một con ngựa kim, nằm thoi thóp. Người cỡi là một kẻ mặc quần áo “kaki” vàng, quấn xà-cạp trắng, khổ người vạm vỡ, nhưng người này cũng nằm im vắt mình trên cổ ngựa, gác bánh xe.
Lão Thổ cúi xem nạn nhân. Mắt y đã trợn ngược, miệng ứa máu, sờ tay xem mạch, mạch đã tuyệt. Lão thở dài lắc đầu bảo Ba Đen:
- Người này bị nội thương trầm trọng bởi dùng sức nhiều té nặng nên vong mạng. Tội nghiệp!
Chợt nghe tiếng con nít khóc lớn, lão vùng nhìn quanh, rồi nhanh nhẹn tiến lại bụi cây chỗ kỵ sĩ áo trắng nằm. Thì ra đó là một nữ lang còn rất trẻ, nằm ngất lịm mê man, mắt nhắm nghiền, mái tóc huyền xổ tung. Chỉ thoáng trông qua cũng biết nàng là một giai nhân tuyệt sắc ít người sánh kịp. Xế cạnh nàng, một đứa trẻ mới chừng lên hai đang mếu máo vừa khóc vừa giãy dụa. Lão Thổ vội bồng đứa bé lên trao cho Ba Đen đoạn lập tức cứu tỉnh nạn nhân. Mấy người hành khách trên xe cũng nhảy xuống xúm lại xem. Giây lâu nữ lang dần hồi tỉnh, đưa mắt nhìn mọi người thều thào:
- Con tôi.. các ông các bà... làm ơn... con tôi...
Lão Thổ mở “bi-đông” nước đưa nàng uống, dịu dàng trấn an:
- Bà yên tâm, cháu bé không sao đâu!
Chừng nhận thấy con mình vẫn bình yên không bị thương tích, nữ lang ôm đứa bé vào lòng, mừng rỡ:
- Nhờ ơn Trời Phật!
Đang hôn hít con bỗng nàng đứng vội lên nhanh giọng bảo mọi người:
- Thôi các ông các bà đi mau đi! “Nó” kéo đến thì nguy!
Vẻ sợ hãi hiện rõ trên mặt, giọng nàng càng lúc càng run hơn:
- “Nó”... Con đười ươi khủng khiếp... Thôi, đi mau đi kẻo không kịp.
Nàng vừa giục mọi người vừa rảo bước lại chỗ xe thổ mộ. Chợt thấy người đàn ông mặc quần áo kaki vàng, nữ lang nhào tới bên bật khóc nức nở:
- Trời! Chú quản... chú... chết rồi sao? Một thân chú liều xông pha đưa tôi chạy từ hồ Ba Bể đến đây... Giờ... trời ơi!
Lão Thổ lên tiếng an ủi nàng. Một hành khách bỗng hỏi rụt rè:
- Này bà ơi, nãy bà nói cái gì... đười ươi... phải không? Phải đười ươi nó đuổi bắt bà không?
Nữ lang vùng gạt nước mắt nói:
- Phải! Con đười ươi chúa thành tinh... Nó dắt một bầy đười ươi; đuổi bắt chúng tôi từ vùng hồ Ba Bể! Thôi, các ông các bà mau lên xe chạy đi kẻo... chúng kéo tới thì nguy!
- Ôi chao, vậy tôi nói có sai đâu? Đã bảo loạn rừng có lắm con tinh! Đi mau không chết hết! Leo lên!
Quên cả người mắc nạn thảm, hành khách tranh nhau lên xe. Riêng lão Thổ đứng bảo nữ lang:
- Bà lên ngay! Tôi đem xác người nhà bà lên!
Nữ lang chưa kịp leo lên thì cỗ xe đã chuyển bánh. Lão Thổ nắm luôn đuôi xe lại quát “Khoan” đoạn vác cái xác viên quản kia lên, xà ích kêu lớn:
- Ôi chao, xe đã chật lại còn đem xác lên làm gì?
Lão Thổ bảo nữ lang bồng con leo lên, đoạn vác xác chết lên, hất luôn xác cọp xuống, đặt xác vào đó.
Xà ích tiếc của, kêu chu tréo. Lão Thổ điềm nhiên:
- Đười ươi tới, sợ xác chú còn không mang nổi, huống chi xác cọp!
Thấy lão ta khoẻ như trâu, hất cái tung xác cọp, lại nghe nói đười ươi, xà ích hoảng hồn, quất ngựa chạy liền.
Mọi người ngồi xích vào cho nữ lang ngồi phía ngoài, cạnh cô gái nhà quan, đối diện lão Thổ. Ai nấy tò mò nhìn nữ lang, nhao nhao hỏi chuyện.
Mấy cô gái nhà quan đã đẹp, nữ lang còn đẹp hơn. Mắt phượng, mày liễu đao, môi đỏ màu san hô, má ửng nhuỵ đào, dáng thon lẳn, tuy trong cơn sợ vẫn lồ lộ sắc khuynh thành. Giọng thánh thót như suối đàn, nàng bảo:
- Chị em tôi khi xem cảnh hồ Ba Bể, có sáu, bảy người gia nhân. Bỗng loạn rừng thú dữ đổ ra từng đàn, chúng tôi chạy kiếm nơi ẩn tạm. Nào dè đười ươi, khỉ vượn kéo ra từng đàn, vồ người xé xác. Con đười ươi đầu đàn thành tinh rượt vồ bắt tôi, nếu không có đàn chó sói thình lình kéo tới, chúng tôi cũng bị bắt hết rồi. Phải vất vả liều lĩnh lắm mới thoát được nanh vuốt chúng.
Một cô gái nhà quan lè lưỡi tỏ vẻ kinh dị:
- Khiếp quá! Nhưng sao bà biết là con tinh? Nó... nó biết biến hoá?
Mặt hiện nét kinh mang, nữ lang đáp:
- Chẳng biết nó có biến hay không, nhưng có điều rõ nhất là nó... biết nói tiếng người!
Hành khách nhao nhao, ngó nhau, ngó nữ lang. Người đầy vẻ thông minh, Tây học như nàng, không thể là kẻ mê tín dị đoan ngầy ngô. Lão Thổ nhíu mày:
- Biết nói tiếng người? Bà vừa bảo con đười ươi biết nói tiếng người?
Nữ lang gật đầu:
- Vâng! Nói tiếng người rất sõi! Nói cả tiếng Kinh, tiếng Thổ, hình như biết cả tiếng Tây!
Nhiều tiếng kêu “ồ”. Nữ lang tiếp:
- Và điều này nữa là nó không sợ súng! Chúng tôi đã bắn hết đạn, trúng mình nó như mưa, nhưng nó không chết. Nó xông lại, bẻ súng như bẻ que diêm!
Lại nhiều tiếng kêu “ồ”, “chao ôi”, “ghê quá”, ai nấy dáo dác nhìn nhau, nhìn lại phía sau, chợt lão Thổ hỏi:
- Thưa, xem bà cũng biết võ? Và bà vừa nói có người chị em nữa?
Buồn rầu nàng đáp:
- Vâng, tôi còn cô em nữa cùng đi, nhưng thất lạc từ lúc nổi cơn giông. Chúng tôi cũng có học đôi chút phòng thân, nhưng... vô dụng với quái vật. Nó mình đồng da sắt khoẻ bằng đội binh!
Lão Thổ nghe nữ lang nói, vể rầm ngâm suy nghĩ, hồi lâu mới nói lẩm bẩm:
- Súng bắn không chết! Xưa nay dầu tay cao thủ võ nghệ trùm đời cũng chỉ có thể chịu nổi sức gươm đao đâm chém là cùng! Ngay cả những môn công phu đặc dị, như Kim Chung Trạo hay Thiết Bố Sam mà thỉnh thoảng có người luyện được cũng không chịu nổi sức công phá của một viên đạn cối hay Pạc-hoọc! Hừ, có lẽ con đười ươi đó là một kẻ tà đạo mang lốt thú có lót giáp chống đạn chăng? Vả lại xưa nay làm gì có chuyện đười ươi biết nói tiếng người! Hừ!
Lão nhíu mày ngó mông lung hai bên bìa rừng. Giông gió vẫn nổi ào ào, lá rừng bay tơi tả trên mặt tiểu lộ. Thình lình từ xa xa vụt nổi lên một loạt âm thanh quái gở phi phàm đến nổi gai ốc người ta. Lão Thổ nghiêng tai nghe ngóng. Tiếng tru hú vọng tới như đuổi theo cỗ xe, mỗi lúc một rõ hơn.
Một cô gái nhà quan hốt hoảng kêu lớn:
- Trời! Tiếng gì ghê quá! Loạn rừng lắm giống lạ kêu gào...
Vẫn nhìn ra xa, lão Thổ bảo:
- Đười ươi chứ còn tiếng gì nữa! Hừ! Hình như không phải một con!
Quả như lời lão nói, bỗng trong gió cuồng, vụt nổi lên nhiều tràng hú vang âm, vụt lên không trung xám, nhọn hoắc như còn mang nguyên khuôn răng nanh lởm chởm.
Vẫn một thứ tiếng vừa rồi, lúc này nghe đã rõ tuy cuồng phong vù vù như tiếng tù và thổi giữa đêm đông dưới đồng bằng.
Cách đó một hai phút, từ lúc nữ lang kêu xe chạy, gió vù mà tiếng hú quái gở kia đã như kề gần đủ biết giống thú đó mạnh đến mức nào.
Nữ lang ôm con kêu thống thiết:
- Nó đuổi ra đường cái! Lúc tôi đã kiệt sức... trời ơi!
Hành khách càng nhốn nháo, mặt mày xanh xám, kêu hoảng mỗi khi tiếng hú rõ dần. Một cô gái run giọng:
- Chắc tiếng kêu từ trong rừng vọng ra?
Không ai nói chi. Như đáp lời cô gái, tiếng tru hú vụt nổi lên rõ mồn một, vang động phía sau xe. Ngót chục bộ mặt càng xanh xám, nhiều người hoảng quá nhấp nhổm chực chạy, há mồm nhe răng chực kêu khóc, đến mấy cô gái cũng không làm dáng nữa.
Xà ích Ba Đen ngồi đầu xe quá nửa người ra ngoài, gió thổi vù, nghe không rõ, bỗng run run kêu:
- Ôi chao! Gió ma gió quỷ! Gió gì kêu ru rú như doạ người ta!
Một chú dõng ngồi gần thò tay vỗ mạnh vào lưng y, nói như hét:
- Gió nào? Đười ươi đấy! Không nghe thấy à?
Ba Đen giật mình ngoái cổ vươn đầu dòm lại, bỗng y giẫy lên như đỉa phải vôi, kêu ré thất thanh:
- Uý trời. Kìa! Đuổi theo xe, chạy như ngựa! Đen như bồ hóng! Chết rồi! Chết tôi rồi! Chạy trố đi các ông các bà ơi!
Hành khách dòm kỹ, phía sau con đường uốn cong vòng thúng, giữa lá cây cát bụi bay mù từng đám, vụt hiện ra một hình thù quái gở lông lá xồm xoàm, đầu to tướng, tóc xoã sợi, đang chạy nhanh như giông, mặt ngửa lên trời coi phát ghê! Và sau nó vài chục thước lại một đàn nữa nhô ra, chạy vùn vụt, hai chân bước dài, đầu to, tóc xoã, nanh chìa mặt ngửa, không khác một đám lực sĩ đang chạy nước rút đường trường.
Xà ích Ba Đen kêu ré chực buông cương bỏ chạy. Hành khách cũng có mấy người sợ cuống cuồng chực sấn ra cửa hậu. Nhưng lão Thổ đã giơ tay ngăn lại. Viên cai dõng túm lấy hông xà ích . Lão Thổ nạt:
- Muốn xuống cho đười ươi ăn thịt? Không thấy nó đông như rươi? Quất ngựa chạy cho mau. Kìa, chớ để nó đuổi kịp!
Xà ích quất mạnh roi da, hai con ngựa cố sức nhọc chạy nước kiệu. Cỗ xe chạy lóc cóc. Ngoái dòm lại, Ba Đen sợ hết hồn quất ngựa như điên, chạy như bị ma đuổi.
Từ lúc thấy bầy đười ươi hiện giữa gió bụi ào ào, nữ lang lộ vẻ kinh hoàng cực độ, hành khách cũng bạt vía bay hồn, cả mấy người lính dõng cũng xanh rờn mặt mày, khi nhớ lại lời nữ lang mới lên xe.
Quá sợ hãi, một lão khách trú trạc ngũ tuần thò đầu dòm thấy bầy quái chạy theo ào ào đuổi riết, lão méo xệch mồm kêu:
- Ý a, chết ngộ rồi! Cái con đười ươi to đầu đuổi bà con gái đẹp, các bà con gái lại trên xe, cái con đười ươi ăn thịt cả ngộ ý a! Cái miệng con đười ươi nó có cái nanh nó cắn một cái chết ngộ rồi! Các bà con gái đẹp hại người ta!
Một hai người nữa cũng trố mắt kêu hoảng, oán trách nữ lang mới lên xe. Nữ lang đang ôm con sợ hãi, dòm lại sau xe, bỗng nghe tiếng mấy người kêu khổ, nàng vừa ngoảnh lại, kêu lớn:
- Dừng lại cho tôi xuống!
Kêu chưa dứt, lão Thổ ngồi đối diện vùng quát lớn:
- Cứ chạy! Xin bà cứ ngồi nguyên! Họ sợ quá hoá nói càn đó thôi bà đừng buồn! Này, các chú gặp người hoạn nạn phải giúp đỡ chứ! Sao các chú lại ăn nói bừa bãi như vậy? Không thấy bà ấy bị quái vật cào rách cả áo sao? Chú nào còn nói bậy tôi ném xuống cho đười ươi ăn thịt.
Giọng lão Thổ la bỗng nghe oai nghiêm như lão tướng cầm quân làm ai cũng nể. Bọn kia phát hoảng, im thin thít, chỉ có lão khách trú nhe răng vàng khè cười như mếu.
- Cái lầy ngộ khiếp, ngộ kêu nhảm nhí, chớ cái ngộ ốm chỉ có bộ xương, cái con đười ươi không ăn thịt mà!
Cỗ xe cũng vào khu khuất gió, lúc này cuồng phong lại thổi xuôi chếch chiều xe chạy, đem theo một thứ mùi còn tanh khẳm hơn cả mùi phân cọp. Hành khách mấy kẻ há hốc mồm hít phải muốn lộn mửa, hai con ngựa đang chạy, “đánh” thấy mùi khẳm, chừng biết ngay ác thú lập tức hý loạn lên chồm vó trước giật cương, phá dữ không chịu đi!
Khách trên xe sợ hết hồn, nhốn nháo. Lão Thổ bỗng lấy trong bọc ra một củ tỏi lớn, đưa cho chú dõng ngồi đầu xe, quát lớn:
- Xát tỏi vào mũi ngựa mau! Chú dõng tạm cầm cương cho xà ích.
Người dõng vội vàng dúi cú tỏi vào tay Ba Đen. Y đã sống trên sơn cước lâu, đã hiểu dân đi rừng thường xát tỏi vào mũi ngựa, vì khi ngửi thấy mùi ác thú, ngựa hoảng không chịu đi nữa. Rất nhanh xà ích bỏ củ tỏi vào miệng nhai ngấu nghiến, xì mũi liên hồi và nhoài bò lên hông ngựa, càng xe, xát vội vào mũi ngựa.
Quả nhiên hai con vật này lại chạy lốc cốc trong giông tố.
Cỗ xe chạy tới khúc quanh co hai bên đường mũi dựng, xa gần trùng trùng cát bụi lá cây vẫn tấp loạn vào thùng xe, vó ngựa.
Bỗng đười ươi chợt hú lên một tiếng ngắn, rồi chìm bay trong gió cuốn.
Cỗ xe chạy thêm quãng nữa bỗng có một cỗ xe song mã khác từ hướng chợ Rã hồ Ba Bể rầm rầm chạy về! Khi xe vừa sau đám bụi phóng ra, đã tới gần cỗ xe Ba Đen.
Tuy lúc đó trời sa sầm vì mây nặng, mọi người cũng nhận ra đó là cỗ xe vừa chở hàng vừa chở khách, cả xà ích cũng độ ba, bốn người.
Không bảo nhau, Ba Đen, hành khách cũng xua xua tay, kêu thất thanh:
- Quay lại! Quay lại! Đười ươi đang chạy đằng kia!
Tiếng kêu gọi la hét chưa dứt, cỗ xe kia đã chạy qua. Xà ích là một người Kinh trung niên, chừng say rượu, ngồi ngất ngưởng, tay vẫn còn chai rượu gần cạn.
Anh ta thấy lạ, vươn hẳn cổ cùng mấy người đi xe, quát hỏi:
- Cái gì? Gì đấy?
- Quay lại! Đười ươi... ư... ươi...
Tiếng “đười ươi” kéo vút theo xe phóng bên nhau, gã xà ích nghe không rõ, tưởng bọn kia đùa mình, vùng nhe răng cười rú:
- Đười ươi? Hà hà! Tớ giống con đười ươi? Hí hí đười ươi... chai bố...
Tiếng cười kéo dài trong gió cát, bóng xà ích ngửa cổ tu rượu lắc lư rẽ vào nền núi xám chiều mây. Xe lao đi bên này, còn có mấy kẻ nhoài mình kêu inh ỏi. Ba Đen múa tít cái roi ngựa, hét với theo như tên khùng. Nhưng lại có một chàng trai thị thành vụt lên tiếng:
- Chạy vào miệng đười ươi, nó ăn no, may không đuổi thep xe ta...
Ai cũng hiểu chàng ta muốn nói đó là thế mạng nhưng nữ lang lắc đầu, giọng khổ sở:
- Chúng ăn no rồi! Chúng... chỉ đuổi bắt... mẹ con tôi...
Ai nấy dòm nhau dòm về phía sau. Cỗ xe say rượu đã mất hút trong cái bụi rừng già.
Cỗ xe Ba Đen cũng vừa ra khỏi khúc trống hơn, núi chạy chếch ra. Tuy vậy giông tố đã hơi dịu, bắt đầu có vài giọt mưa bay tung võng.
Thấy êm, lão khách trú lại bật kêu:
- Ý a cái con đười ươi không thấy hú. Nó bắt được người rồi nó bỏ ta!
Như đáp lời lão, bất thần phía sau dậy lên một tràng hú cực mạnh vang động cả buổi chiều đông, tiếp liền có tiếng tru rú lê thê nghe như rót vào tai mọi người:
- Tên xà ích kia, dừng xe lại, còn chạy... tao bắt ăn thịt mi trước!
Lão khách ré lên, ngồi trợn mắt. Xà ích Ba Đen kêu vọng lại:
- Ai đó? Ông bà nào vừa nói?
- Ai đâu? Hình như nó!
Ba Đen dáo dác ngoái đầu vươn cổ dòm lại, bỗng giầy lên như đỉa phải vôi, kêu thất thanh:
- Ma quỷ! Ma quỷ! Cái quái ngồi xe, chết thằng “Hai chai bố” rồi!
Hàng chục cái đầu cũng ngoái dòm qua cửa sau xe, tất cả giật nảy mình kêu trời “uý”, mặt tái xanh như chàm đổ. Vì phía sau một cỗ xe song mã vừa nhô khỏi khúc quanh chính là cỗ xe của gã xà ích say rượu. Ba Đen vừa kêu “Hai chai bố” vì y là con sâu rượu, mỗi lần phải làm hai chai bố thứ rượu bình dân thông dụng đương thời.
Cỗ xe này đã quay đầu đang rượt theo cỗ xe Ba Đen.
Họ không phải bỏ chạy đười ươi mà chính đười ươi đã ngồi lù lù trong xe!
Một con đười ươi to lớn đầu như cái thúng, lông lá xồm xoàm nanh chìa trắng nhỡn, hai con mắt trố sáng như đèn pha, ngồi trên mui xe và gã xà ích “Hai chai bố” đã bị lôi lên ngồi bên đang ra roi quất ngựa chạy như giông.
Lố nhố trên mui, trong xe còn thấy chín, mười con đười ươi nữa, lẫn lộn với người. Có lẽ hàng hoá đã bị ném xuống đường.
Khoảng cách chỉ hơn trăm thước, ngồi xe trước nhìn lại rất rõ. Ba Đen kêu:
- Ối trời! Mấy con quái đuổi đến nơi rồi!
Gã hốt hoảng cuống cuồng. Lão Thổ quát lớn:
- Bình tĩnh, cứ chạy thẳng, nhanh lên! Chớ để sa vào tay lũ quái hung tợn này!
Bọn du khách con quan nghe lão bảo, càng sợ cuống, ai nấy nhấp nhổm đứng ngồi không yên, làm cỗ xe cứ vặn mình chực đổ. Lão Thổ lại phải quát lên, mọi người tạm ngồi xuống nhưng vẫn dáo dác vươn cổ dòm lại phía sau.
Nữ lang vẫn ôm con trong lòng, mặt tái xanh, trông sắc diện còn có vẻ sợ hãi hơn cả đám hành khách nhát gan kia, hồi nãy chỉ một cái nhảy cũng đủ tỏ ra nàng càng biết võ, giờ thấy nàng có vẻ sợ thái quá, lão Thổ ngạc nhiên hỏi:
- Sao bà có vẻ sợ hãi quá vậy? Trong xe này có ba tay súng, kia có năm, bảy con đười ươi có gì nguy hiểm quá đâu? Bà đâu phải người không biết võ?
Nữ lang nhìn lão Thổ, lắc đầu đáp:
- Cụ chưa biết đó thôi! Đười ươi không đáng sợ thật nhưng có con mình đồng da sắt, như con chúa kia vô cùng lợi hại, súng bắn không chết, có thể chụp bắt được người ta. Lúc gặp nạn tại vùng hồ Ba Bể, chúng tôi đã chống cự lại, nhưng sức nó không ai làm gì nổi! Tôi sợ vì chỉ thương con trẻ bơ vơ!
Dứt lời thấy lão Thổ có vẻ không tin, nữ lang xoè luôn bàn tay chặt vào thành xe một cái “Rắc!”, thành xe gẫy bay luôn một mảnh như bị búa rìu đẽo vạt. Như sợ chưa đủ chứng minh nàng lại đưa tay búng nhẹ vào thành cửa một cái nữa bay luôn một mảnh bằng đồng hào ván (hai cắc).
Hành khách trong xe thấy tay nữ lang mềm mại chặt, búng bay cả gỗ, ai nấy càng thêm sợ. Lão Thổ gật gù bảo:
- Bà rất giỏi về ngoại gia quyền!
Buồn bã, nữ lang thở dài:
- Chẳng giấu gì ông cụ, tôi có học võ Nhật võ Tàu nhưng tất cả đều vô dụng trước đười ươi. Nó thành tinh, có sức phi phàm.
Lão Thổ quay nhìn lại sau. Cỗ xe “Hai chai bố” vẫn đuổi riết. Người xà ích luôn tay quất roi như máy. Con đười ươi chúa ngồi cạnh lù lù, hình thù lắc lư in vào nền mây xám như quái tượng hoàng hôn rừng. Khoảng cách không đầy trăm thước, lão Thổ hỏi nữ lang:
- Bà bảo đười ươi chúa súng bắn không chết? Phải con ngồi trên mui kia?
Nữ lang ghé mắt nhìn, gật đầu:
- Chính nó! Ở hồ Ba Bể tôi cũng bắn nó liền hai phát.
Lão Thổ bảo mấy người lính dõng:
- Các chú đợi gì không bắn?
Mấy người dõng ngó nhau, xem vẻ người nào cũng hoảng. Viên cai đáp:
- Bà đây vừa bảo súng bắn không chết? Nó ngồi bên si sợ đạn lạc! Xe lại lắc lư!
Bỗng xa xa, con đười ươi lại hét vang động:
- Thằng xà ích Ba Đen! Mi dám cưỡng lệnh lâm vương, mi chạy lên trời, ta cũng bắt ăn thịt mi trước!
Tiếng gió cuốn chếch mang tiếng quát hú về đằng trước rõ mồn một. Ba Đen nghe quái vật gọi tên mình, y bất giác thêm hoảng hồn kêu rú:
- Ối trời! Nó biết cả tên tôi! Đúng thành tinh! Chết mất!
Cỗ xe hạ nước chạy, hành khách nhốn nháo, lão Thổ lại phải hét:
- Xà ích! Ngừng lại, chết ngay! Ta ném chú cho đười ươi!
Lời lão có mãnh lực làm Ba Đen lật đật quất đít ngựa. Ngựa chồm lên chạy như điên. Tuy vậy xe sau cũng đuổi gần thêm.
Khoảng cách giữa hai xe chỉ còn sáu mươi, rồi năm mươi, bốn mươi thước vì ngựa xe “Hai chai bố” còn sung sức hơn ngựa xe Ba Đen.
Đười ươi chúa hét lê thê.
Ba Đen ngoái dòm lại sợ hết hồn, giẫy như đỉa phải vôi. Đám hành khách cũng sợ bạt vía vì lúc này xe đuổi cũng đã gần, trông lũ quái vật rất rõ.
Một bầy đười ươi ngồi trên xe ngựa thò đầu ra, dòm hau háu. Mặt mũi gớm ghiếc. Con đười ươi chúa ngồi trên mui túm gáy xà ích giục chạy hết tốc lực, hai con mắt nó sáng như đèn pha, nanh chìa trắng nhởn. Kẻ bạo mấy cũng phải sợ. Nhất là con quái thú lại biết nói tiếng người, lúc nó hú giọng Kinh, lúc giọng Thổ, ầm ầm ồm ồm lơ lớ nghe đầy chất phi phàm, như ma kêu quỷ hú.
Ào ào! Bỗng một cơn lốc thổi tới, hắt một mớ lá cây cát bụi muốn bay vào xe.
Tiếng hú quái gở theo gió cuồng rót vào tai mọi người, lần này như búa bổ màng tang:
- À, xà ích Ba Đen! Mi chạy không thoát, tao hút óc tuỷ mi... Hà hú...
Ba Đen giẫy lên mấy cái như đỉa phải vôi, chỉ muốn dừng xe, lại sợ lão Thổ. Lão Thổ bỗng quát lớn:
- Đười ươi! Mi muốn gì lại đuổi theo xe? Mi muốn ăn thịt, sao không kiếm loại thú rừng?
Tiếng lão Thổ mạnh hết sức, hắt ngược chiều gió cuồng, khách trong xe còn thấy chói tai. Đười ươi cười ré:
- Lâm vương tìm nàng áo trắng từ phía hồ Ba Bể chạy ra đường cái, nàng ngồi trong xe thằng Ba Đen! Không dừng lại, Lâm Vương ăn thịt cả xe!
Lần này, tiếng quát như ập sau xe, mọi người lấm lét dòm lại, kêu rú lên, thấy cỗ xe “Hai chai bố” đang chạy tới như giông chỉ còn cách non bốn cái với tay.
Trong cảnh thiên hôn địa ám hình thù con quái vật ngồi trên mui xe ngựa coi rõ từng đường nét, mười phần gớm ghiếc, kẻ bạo gan mấy ai cũng hoảng hồn vì nó to bằng một người lực lưỡng, hai con mắt trố sáng như đèn pha đầy tia lực phi phàm, hai tay nó giơ phía trước chỉ chực vồ, móng vuốt nó ghê hơn vuốt cọp. Giữa gió cuồng, mưa bay, trông nó không khác một con quái thú kinh-kông đời hồng hoang khuyết sử vừa đội mồ băng tuyết sống dậy mò lên vùng hồ Ba Bể tác quái.
Mặt xanh như chàm đổ, nữ lang áo trắng kêu thống thiết:
- Trời ơi! Con tinh đười ươi đuổi đến nơi... Nó đòi bắt tôi về làm vợ...
Lời nàng làm mấy cô gái nhà quan ngồi trong xe càng sợ hết vía. Lão Thổ giật cây súng “mút” của một anh dõng đưa lên ngắm bắn. Đoàng! Một phát đạn sói trúng mặt con đười ươi chúa. Nó giật mình lắc đầu một cái. Lại đoàng một phát nữa, trúng trán nó. Nó đưa bàn tay lông lá xoa chỗ bị đạn ré lên kinh khủng:
- Hà hú! Thằng nào to gan dám gãi mũi Lâm vương? Phải thằng râu đốm kia hay thằng lính dõng?
Lão Thổ thấy hai lần bị bắn trúng mà con quái vẫn không hề chi, lão có vẻ hơi rung động tâm thần cho là quái gở chớ không sợ, lão thò đầu hẳn ra quát lớn:
- Ta! Mi là loài thú sao đuổi bắt người ta?
Đười ươi hú:
- Thổ già? Mi biết phận mi, sao dám dự vào việc Lâm Vương? Bảo xà ích dừng xe lại, tao đón mỹ nhân về động sẽ tha mạng cả xe.
Lão Thổ hét:
- Mi là loài vật sao không tìm loài vật, lại bắt hiếp người? Người nào lại làm vợ đười ươi?
Đười ươi cười rú lên:
- Thổ già ngốc không đọc truyện Tàu! Lão Tô Vũ người Hán lấy đười ươi cái đẻ cả con, vợ chồng hoà thuận gắn bó keo sơn, chuyện đã ghi vào sổ sách, Thổ già không biết? Nay chúa đười ươi đực lấy đàn bà, khác gì?
Hành khách trố mắt ngạc nhiên. Ba Đen tròn xoe hai con mắt kêu lớn:
- Ôi chao ma quỷ! Ma quỷ! Đười ươi nói tiếng người rồi biết cả tích “Tô Vũ chăn dê”. Ăn thịt người thành tinh? Đúng ăn trăm người là ít.
Hành khách đã hoảng lại hoảng thên, vì lời xà ích Ba Đen, ai còn lại gì lời “tục truyền” xưa nay trên rừng phàm giống cọp nếu ăn đủ một trăm người là hóa thành hùm tinh, biết biến hoá và cứ thịt một mạng, cọp lại cấu một vết vành tai đánh ghi.
Ai nấy co dúm người dáo dác sờ cổ, lão khách trú chừng quá sợ, vội quay bảo người lái buôn ngồi cạnh cốt tự trấn an:
- Cái lầy ngộ già thịt ngộ vừa dai vừa hôi, cái ông đười ươi không thích ngộ a.
Đoàng đoàng! Liền hai phát nổ, lão khách giật thót mình bịt vội tai. Lão Thổ định bắn vào mắt đười ươi nhưng nó cứ lắc lư vùng mạnh, đạn trệch ra thái dương nó. Nó rống lên rung động sơn lâm. Xem chừng đã nổi hung nó túm gáy xà ích bắt chạy thục mạng.
Nhờ sức sung mãn, cỗ xe “Hai chai bố” thoắt đã đuổi sát. Lão Thổ mượn băng năm viên, tra vào súng, giục hai người dõng:
- Ta cùng bắn một lúc! Mau, nó tới gần lắm rồi!
Hai chú dõng kia đành miễn cưỡng nhoài người ra, cũng chĩa súng bắn. Nhưng vì quá hốt hoảng, đạn dõng thành chỉ thiên hết.
Giữa mấy phát, đười ươi vùng mạnh rống dữ dội, một lần trúng đạn, lại giật mình một cái, nhưng chẳng hề gì.
Bất thần “véo véo” từ cổ xe sau bay vụt lên một con hắc xà quấn phăng lấy ba cây súng giật bay. Nhưng lão Thổ đã nhác thấy, rút vội về, quất mạnh một cái.
Hắc xà lẹ như trăn gió đã giật nghiến, súng lão Thổ chỉ quật trúng súng dõng. Ai nấy kêu lên. Dõng chúi đầu suýt bị lôi tụt xuống đường. Dòm theo, còn thoáng thấy lưng hắc xà quăng khúc giữa không gian xám. Hai cây súng vụt đi, nằm dính trong tay đười ươi.
Thì ra hắc xà lại sợi dây móc, mềm như bún. Đười ươi cầm cây súng quật “rầm” vào thành xe, bể mảng lớn, súng cong veo. Nó chực quật chiếc kia, bỗng thôi, cười sằng sặc chỉ luôn cây súng “mút” bắn đì đẹt.
Giật mình lão Thổ hét lớn:
- Nằm xuống! Con quái bắn súng!
Hành khách vừa kịp rạp mình đã nghe đạn xói thùng xe ầm ầm, tiếng “chiu chiu” sạt đầu, nóng ran.
Rất nhanh, lão Thổ vẫy luôn cây súng cắp nách. Đoàng! Cây súng trên tay đười ươi văng xuống đường.
Bị mất súng bất ngờ, con đười ươi nổi giận, rống lên, quờ “véo” một cái, sợi dây thừng đã móc bay lên giật phăng cây súng của lão Thổ quăng đi, ngay một lúc đạn thoát ra khỏi nòng, lần này trúng bụng dưới đười ươi. Nhưng nó vẫn không việc gì. Nó nổi hung, nhảy dựng lên, vừa lắc lư, chờm chờm, vừa gầm rống nghe dễ sợ:
- Hú hú! Thằng Thổ già râu dê to gan dám bắn Lâm vương! Thằng xà ích Ba Đen không dừng xe, tao ăn thịt lũ mi!
Vút phập! Sợi dây bay sang móc ngoạm vào thành xe. Cỗ xe đang chạy phăng phăng, bỗng giảm tốc lực. Hai con ngựa tung vó cố chạy, vẫn bị sức thừng kéo ghì lại. Hành khách hốt hoảng nhao nhao cả lên. Ba Đen thấy cỗ xe rùng mạnh, ngoái dòm lại, kêu ré, tay roi quật đen đét:
- Đười ươi ma đười ươi quỷ, ma quỷ đười ươi! Đười ươi nói tiếng người, bắn súng, ném dây móc... chết mất các ông các bà ơi!
Lão Thổ thấy thế, vội nhổm dậy, đưa tay nắm sợi dây thừng dùng sức mạnh định lôi con quái vật xuống đường. Nào dè nó khoẻ lạ thườig, lão giật mấy cái vẫn không khiến nó chúi đầu nó lại sải rút thêm mấy gang, kéo ghì cỗ xe thêm chậm lại. Bất giác lão Thổ quay lại nữ lang áo trắng:
- Ôi chao bà nói đúng! Con đười ươi chúa này có sức mạnh gớm ghê!
Vừa nói, lão vừa lôi trong mình ra một con dao lan, cắt luôn. Dây thừng dai vô cùng, lão phải vận sức cứa năm bảy cái mới đứt phựt, đầu móc thép rớt xuống sàn xe.
Đang kéo, con đười ươi bị bật lùi một bộ suýt ngã. Nó lại càng nổi hung rống dữ:
- Ăn thịt, tao ăn thịt hết cả lũ mi! Xà ích! Mi có chạy lên trời, không thoát tay Lâm vương!
Trong cảnh thiên hôn địa ám hình thù con quái coi càng gớm ghiếc. Nó lại buộc một cáci móc khác, quăng “véo” sang giật bể mấy miếng thành xe, lôi hai con ngựa loạng choạng, muốn đổ xiêu vẹo. Ngựa hý loạn, ai nấy càng kinh.
Chẳng may đúng khi đó, xe lại gặp một chiếc cầu, mô hơi cao, làm hai con ngựa chạy chậm hẳn lại. Đười ươi móc ngoạm thành xe, lôi nghiến lại đúng lúc xe lên tới giữa cầu.
Ai nấy đều sợ hết vía, lão Thổ vội đưa dao cắt dây thừng.
Con đười ươi quăng khúc dây đứt, dậm chân nhảy vọt lên xe trước làm hành khách kêu ré lên, nữ lang cả kinh vội thò đầu ra cửa hậu hét lảnh:
- Quái vật! Nếu ngươi nhảy sang làm người ta sợ, ta sẽ đập đầu chết ngay cho mi coi!
Đười ươi không dám nhảy ngay, nó thấy mặt nữ lang hiện ra, mừng hí hởn cười ru rú, đưa tay vẫy:
- Mỹ nhân! Mỹ nhân! Chớ sợ! Ta không ăn thịt, ta đón về động làm bà chúa đười ươi!
Ba Đen quất ngựa chạy, cỗ xe sau lên dốc, chậm lại xa them hai ba thước, bỗng con đười ươi lại hét:
- Ba Đen xà ích! Mi không dừng xe, ta đập què chân ngựa ném mi xuống núi!
Nghe nó doạ, ai cũng sợ. Lão Thổ bỗng giơ lưỡi dao lan lẩm bẩm:
- Quái vật mình đồng da sắt, mắt đâm phải thủng.
Bỗng con đười ươi chúa hú lên một tiếng ngắn. Lập tức có hai ba con đười ươi nữa hình thù nhỏ hơn chút, từ phía sau chồm dậy, một con cầm một sợi dây móc quay vi vút, quăng “phập phập” ngoạm trúng thành xe hậu, một cái móc trúng thành cửa, giật “rầm, rắc” tung luôn rớt xuống đường.
Lão Thổ vừa vung dao cắt, bỗng một cây búa lớn bay vù lên làm lão phải rụt vội tay lại. Phập! Một cây búa cắm vào thùng xe, lút cán, mạnh đến nỗi cỗ xe rùng lắc một cái như bị sức nặng hàng tấn xô đẩy. Cỗ xe bị kéo ghì lại. Lúc này con đười ươi chúa không tính nhảy sang, chỉ hô đồng loại nó dùng sức lôi đứng xe lại, ngay lúc vừa đổ dốc cầu.
Đang cơn kinh sợ, bỗng từ hướng chợ Rã, có một cỗ xe song mã đang tung bay chạy tới đầu cầu. Gió thổi ngược, tạt mưa thưa vào mặt xà ích tối tăm. Xe này chở hành khách thấp thoáng có cả đàn ông đàn bà, trên mui có hai du khách trung niên mặc quần áo Tàu. Đó là một người đàn ông và một người đàn bà, cả hai đều vạm vỡ như hộ pháp. Ngồi sánh vai chật cả mui xe.
Người đàn ông mặc áo xường xám loà xoà, chiếc áo “nhà nho”, coi thật tương phản với bộ mặt dữ tợn, râu quai nón như râu Trương Phi, mày chổi xể, mắt diều hâu, nhìn qua cũng đoán được ngay hạng “Sơn Đông mãi võ” hay “Đại vương thổ phỉ biên thuỳ”, còn người đàn bà trông tướng mạo còn dữ hơn cả gã đàn ông, mặt đen rám nắng, trán dô, mắc ốc nhồi, mũi to, xem chừng là cặp vợ chồng khá tương đắc, con nít đang khóc, thấy phải im thít. Cả hai đều đội thứ nón rộng vành thông dụng của dân Tàu biên giới, xem ra vẻ rất thích phong ba ào ào, vừa cười nói vừa ngửa mặt đón mưa bay.
Xe tới cầu, vì ngược gió, cát bụi lá cây bay tán loạn, lẫn mưa tạt, xà ích chẳng thấy chi rõ, cứ nhắm mắt giục xe tránh, lên cầu. Tuy lòng đang khủng khiếp, bọn khách trong xe Ba Đen chợt thấy xe chạy tới, cũng buột miệng, kêu inh ỏi:
- Dừng lại! Quay xe lại! Không thấy gì sao? Quái vật! Quái...
- Lộn lại mau! Đười ươi quái bắt.
Khi hai xe gặp nhau, bọn bên kia mới nghe rõ mấy tiếng “quái vật, đười ươi” hắt sang, ai nấy nhổm dòm. Gã xà ích cùng cặp vợ chồng Tàu hộ pháp kia mới kịp chú mục nhìn lên, vừa lúc xe Ba Đen lướt qua, cỗ xe “Hai chai bố” chạy tới giữa cầu, mấy sợi thừng neo căng đang ghì xe trước lại, ngựa hý mạnh.
Thoạt nhìn ai cũng tưởng xe có bọn người mặc áo mưa đứng trên mui, mấy khắc bọn trên xe kia, mới nhận ra hình thù quái đản in vào nền trời đầy mây xám, nhiều kẻ vẫn chưa biết giống chi, nhất loạt kêu rú lên. Nhưng xem chừng chú xà ích và cặp vợ chồng hộ pháp đã nhận ra đúng loại chủng, xà ích lại giật thót mình trước cảnh kỳ lạ, vùng ré lên thất thanh:
- Đười ươi! Đười ươi quăng dây bắt người ăn thịt!
Cặp vợ chồng Tàu lập tức đứng lên, hất nón ra sau gáy. Mụ đàn bà trợn tròn xoe hai con mắt ốc nhồi, phát cười the thé vẻ thích chí chứ không hề sợ hãi.
- Đười ươi cỡi xe đuổi người! Ngộ dữ! Ngộ dữ!
Con đười ươi chúa vùng rống lên:
- Hà hú! Vợ chồng Dạ Xoa, Hứa Chử cũng sang đây. Hà hú!
- Đười ươi! Mi biết tiếng bà sao dám gọi mụ Dạ Xoa! Phải mi là con quái thành tinh đuổi xe bắt người ăn thịt?
Đười ươi tru hét:
- Tao là Lâm Vương đi đón mỹ nhân về động, mụ xí chớ lo!
Hai cỗ xe còn cách nhau năm bảy thước, nhờ đứt dây xe nên Ba Đen đã chạy vuột khỏi chân cầu.
Nhưng đười ươi bỗng hú “đập chết ngựa thằng Ba Đen”, lão Thổ quát “chạy mau”. Bỗng đười ươi cầm một viên đá ném vù sạt nóc xe, may sao lại trúng đầu càng xe bên má ngựa thủng lỗ như đạn xói, sức mạnh đè ấn cả ngựa xuống hý inh ỏi.
Mẫu Dạ Xoa theo đà xe lên thả “véo” cây búa dây, một luồng thép nháng cầu vồng lưỡi búa trúng ngực đười ươi, cắm “phập”!
Mẫu Dạ Xoa thích chí cười ré giựt búa về. Tưởng nó lủng ngực chết tươi nào dè nó vùng hét dữ thò tay túm luôn cán búa giật một cái. Xoảng! Dây búa đứt liền. Đười ươi quăng vù cây búa sang. Nó némm nhanh như chớp. Trại Hứa Chử giựt luôn nón đỡ cho vợ. Chiếc nón văng trượt sang bên bay xuống, cán búa trúng ngực Mẫu Dạ Xoa đến “chát” một tiếng. Mụ Tàu hộ pháp đeo cả búa ghim ngồi phệt xuống mui xe.
Trại Hứa Chử giật mình sà xuống đỡ vợ, nhưng mụ đã giật búa đứng dậy nhờ mặc giáp.
Tuy vậy lưỡi búa cũng xuyên ngập y giáp, vỡ mất cả chiếc hộ tâm kính bên trong, đau như chầy vồ nên Mẫu Dạ Xoa trợn ngược mắt kêu lớn:
- Tỉu nà! Đười ươi ma quỷ, búa chém không chết, còn giật búa ném người.
- Tỉu nà!
Miệng kêu tay rút búa, hét lên một tiếng quăng “vút” sang, đúng khi đó hai cỗ xe ngựa cùng lăn bánh chỉ còn cách nhau hơn sải tay. Trại Hứa Chử cũng xoay mình, giựt búa trước bụng ném “véo” theo.
Chỉ thấy hai luồng thép sáng nhoáng trong hoàng hôn xám. Nhanh như chớp lát chém trúng con đười ươi chúa. Phập! Phập! Một lưỡi cắm trước trán, một lưỡi cắm ngay mỏ ác đụng nhau đến chát một tiếng như nện đe. Con đười ươi lại vùng mạnh đầu một cái đeo cả hai cây búa lớn hét ru rú:
- Hai vợ chồng Hứa Chử, Dạ Xoa kia, mày sang Nam hồ Ba Bể không muốn mang xác về Quảng Tây làm tiên sinh, phu nhân? Hà hú, mày thích về âm ty? Âm ty?
Tiếng rú chưa hết nó đã giật một cây búa ném vụt sang cặp vợ chồng trùm thổ phỉ Quảng Tây cùng hụp đầu tránh nhưng nó lại ném dứ trước khi thả thật cả hai lưỡi búa đều trúng cặp vợ chồng, mạnh như trời giáng, cả hai bật lùi một bộ ngã xệp xuống. Tuy đều mặc giáp dầy cả hai vẫn đau như trời giáng, “tỉu” ầm lên.
Lòng kinh dị, cả hai vợ chồng nổi xung hét lớn, tay rút súng bắn liền ngay lúc còn ngồi. Bốn tiếng nổ đoàng, cả bốn viên “pạc họoc” đều xói trúng mặt mũi màng tai đười ươi làm con quái phải bật lùi nửa bộ, nổi hung quăng vút dây móc giật luôn một lúc cả bốn khẩu pạc họoc văng xuống cầu.
Đầu ngựa kề nhau, Trại Hứa Chử, Mẫu Dạ Xoa thấy nó bị đạn vẫn trơ trơ, cả hai bắt đầu kinh dị cho nó có sức phi phàm.
Mẫu Dạ Xoa trợn mắt kêu the thé “Ôi chao! Con quái thành tinh!” Con đười ươi quờ bàn tay lông lá một cái, hai con ngựa xe bên đã lên gục ngã sụm kéo chống dựng cỗ xe. Xà ích lảo đảo chúi đầu vừa la lên được tiếng “úi trời” đã bị nó quơ túm ngực ném tung qua cầu, rớt “ùm” xuống con suối rộng.
Hành khách trong xe kêu thất thanh ngã dúi vào nhau. Con đười ươi xô cái nữa. “Rắc rắc... rầm”, càng xe gãy thùng xe bắn sang bên giáng vào thành cầu chổng hai bánh chực lăn xuống suối.
May mà vợ chồng Mẫu Dạ Xoa đã kịp thời tung mình nhảy vọt sang thành cầu, đưa tay đỡ lấy cỗ xe, dùng sức mạnh đẩy một cái.
Bánh xe chạm sàn cầu, lắc lư trườn đi mấy thước qua chỗ hai con ngựa đang giẫy chết. Vừa khi đó, cỗ xe “Hai chai bố” chở đười ươi cũng lóc cóc chạy tới đầu cầu sắc đổ dốc.
- Tỉu nà! Không cho nó đuổi theo xe kia!
Mẫu Dạ Xoa hét the thé, tiện còn quấn sợi dây xích, lập tức vung lên quật vớt theo hai con ngựa. Nhưng đười ươi đã vung tay giật phăng sợi dây xích làm Mẫu Dạ Xoa bị kéo tuột xuống sàn cầu, nhưng vẫn chưa chịu buông.
Trại Hứa Chử nhảy theo, nắm dây kéo giúp vợ. Cỗ xe đổ dốc. Cặp trùm thổ phỉ chạy theo. Mấy con đười ươi nhất loạt nhảy chồm chồm, cười rũ rượi, coi đầy vẻ thích chí.
Lúc đó, cỗ xe Ba Đen đã thừa cơ chạy được đến bốn mươi thước, hành khách vẫn ghé mắt nhòm lại, chứng kiến cuộc đấu kỳ dị phía sau. Lão Thổ bỗng kêu nhỏ:
- Con đười ươi có sức mạnh phi phàm, mình đồng da sắt. Vợ chồng Dạ Xoa, Hứa Chử khét tiếng dữ khắp Quảng Tây vẫn không địch nổi con quái vật!
Sực nhớ ra, lão vùng gọi lớn:
- Hứa Chử! Sao không kiếm cách dùng “pháo”!
Tiếng quát lê thê, tung gió ngược, mạnh như sấm. Vợ chồng Trại Hứa Chử nghe rõ, sực nhớ món sở trường nhưng chưa kiếm thế giở ra, đã bị con đười ươi kéo rút lên cao. Mẫu Dạ Xoa nổi hung, hét thé:
- Tỉu nà! Mấy con quái này khoẻ như trâu nước! Phải điểm mới xong!
Lời vừa dứt, cả hai vợ chồng đã theo đà vút lên nóc xe như hai con cáo. Chân vừa chạm mui, cả hai đã vung tay, dùng ngón thật độc hiểm véo véo, chân đá lia lịa, búa chém vù vù.
Hai con đười ươi trúng cước ngã lộn xuống đường, nhưng con đười ươi chúa vẫn trơ trơ, nó rú lên xông luôn tới vồ. Chát! Một lưỡi búa chặt trúng tay, nó quơ một cái nắm được cổ tay Hứa Chử giật một cái. Hứa Chử chúi về phía đười ươi, Mẫu Dạ Xoa huơ búa chém một nhát trúng bả vai nó. Lưỡi búa vừa chạm mình nó, Trại Hứa Chử đã bị nó hất mạnh một cái bắn tung khỏi thành cầy, rớt dộng đầu xuống con suối sâu hút dưới kia, Mẫu Dạ Xoa kêu lên vừa thu búa đã bị nó vồ một cái trúng vai.
Chát! Dạ Xoa bị sức mạnh như núi đè, cố chịu đựng, dùng tận lực đá ngược lên một ngọn cước dữ trúng cằm đười ươi. Tưởng nó bắn lộn xuống đường, nào dè nó vẫn trơ trơ, túm ngay được bàn chân Mẫu Dạ Xoa rống lên:
- Con mụ mập! Xuống tắm với thằng chồng. Thịt mày hôi tao không ăn!
Vút! Nó ném tung thân hình hộ pháp của Mẫu Dạ Xoa bay qua thành cầu rớt ùm xuống suối như người ta ném một trái cầu lớn.
Trên xe, lão Thổ chứng kiến cảnh đười ươi chúa hạ vợ chồng Trại Hứa Chử, Mẫu Dạ Xoa như bỡn, lão có vẻ rúng động không khỏi kinh thầm tài nghệ con quái. Nhưng bản năng quật cường của con nhà võ nổi lên, lão trấn tĩnh tinh thần, hét lên một tiếng tung người vọt xuống, thân pháp nhanh như con chim cắt, chặn ngay trước mũi xe nó.
- Con quái không được ỷ mạnh làm càn, coi đây!
Vút! Vút! Vút! Liền mấy mũi dao lan phóng nhằm vào mặt đười ươi chúa. Nó vụt rống lên hung tợn quài tay bắt dính hết. Rắc! Rắc! Rắc! Trong bàn tay quái vật mấy lưỡi dao gãy vụn thành từng mảnh. Nó ném mạnh về phía lão Thổ. Giật mình, lão nhảy vội sang bên tránh, thuận tay thả vụt luôn hai mũi dao nữa nhắm ngay mắt đười ươi chúa. Chát! Chát! Hai mũi dao chạm vào trán nó bắn tung đi như chạm phải vách sắt, mũi dao cong queo nằm chỏng chơ trên mặt đường.
Con đười ươi chúa dậm chân, hú:
- Thổ đốm râu! Lâm vương ngự trị rừng già, mi tới số, Lâm vương hút óc... hút óc!
Tiếng hú lê thê trong giông tố. Hành khách co rò dòm ra, thấy lão Thổ cắp luôn cái ô vào nách, bấm mạnh vào cán một cái. “Bốp” tiếng như hoả pháo nổ, từ trong mũi ô bỗng bắng vọt ra một luồng khói trắng xoá như vôi toả bay vút sang xe sau, nhắm ngay mặt con đười ươi chúa.
Nếu kẻ nào tinh mắt, sẽ thấy giữa luồng khói kéo lê thê có một vật nhỏ bằng ngón chân cái, lúc đó cuồng phong lẫn mưa bay thổi tạt vào xe, nên có mùi khói bay thoảng theo, lão Thổ dùng miệng thổi phù hô “nín thở” ai nấy làm theo, vẫn bị choáng váng muốn ngất.
Nhưng đằng kia, luồng khói bay vút qua xế trước đầu xà ích “Hai chai bố” la lên một tiếng nhào luôn xuống lưng ngựa. Con đười ươi chúa há luôn mồm ngoác cá ngão đớp phăng luồng khói trắng. Nó làm thế nào mà quay luôn đầu ống kim khí, phun phì phì, còn bao nhiêu khói chứa trong lập tức bay vút lên xe trước, còn đám khói tản mát, nó dùng tay phẩy một cái, tan biến trong mưa gió.
Giật mình, lão Thổ vội nhoài người, ngồi án ngữ cửa hậu, hé miệng thổi khói trở lại, tay trái phất lia lịa, tay phải bấm luôn ba cái liền. “Bốp, bốp, bốp” ba tiếng nổ giòn như ống nứa đập vỡ phát ra. Trong ruột ô bắn ra ba luồng khói nữa, một luồng khói đen, một luồng khói đỏ như máu và một luồng vàng khè.
Thì ra trong ruột ô có một cái ống bắn khói đặc biệt, chế tạo rất tinh vi. Nếu có tay giang hồ tứ chiếng nào trong xe, sẽ phải kinh ngạc về mấy luồng khói màu kia, vì đó là thứ khói vô cùng độc hại, có thể làm mọi giống sinh vật, thực vật chết khô chết rũ, ngất xỉu trong nháy mắt.
Một loại khói màu được chế luyện bằng tính chất riêng, có tác dụng riêng. Khói trắng làm mê man ngất xỉu, khói đen làm tê liệt gân cốt, khói đỏ làm đứng tim, khói vàng làm ngạt thở đông máu, chết nhanh hơn bị tên độc nhựa “sui”. Hít phải, nhào sau mấy khắc. Nhưng kẻ nào nín thở, bị khói táp vào da thịt, vì chất độc theo lỗ chân lông vào người, cũng bị gục sau mười giây. Giới võ lâm tứ chiếng thường gọi là “đoạt hồn hương”, “khói tử thần”, ai cũng phải sơ, chỉ có tay võ công thượng thừa từng “hấp độc luyện công” hoặc giỏi thuật bế huyệt, đóng lỗ chân lông, mới chịu nổi!
Nhưng con đười ươi chúa vẫn cứ đứng lắc lư phun khói trắng, chợt thấy ba luồng đen, vàng, đỏ liên tiếp bắn tới, đảo vụt cái đầu thúng, há mồm cá ngão đớp nghiến phăng cả ba luồng khói chết người chỉ loáng mắt, đã thấy hàm răng trắng nhởn của con quái vật cắn dính mấy ống kim khí sơn theo màu khói.
Và trước những cặp mắt kinh dị, khói màu bỗng biến sạch, như tan vào không khí.
- Trời! Nó hớp cả “khói tử thần”! Con quái phi phàm!
Nữ lang bật kêu. Lão Thổ cũng giật mình trước cái tài của đười ươi. Nhưng chưa đáng sợ bằng chuyện khói biến sạch! Bỗng nghe tiếng con quái vang âm lơ lớ trong cuống họng:
- Thổ đốm! Mi là đứa nào lại có “khói tử thần”? Lâm vương trả mi!
Lời dứt, bỗng từ trong hai lỗ mũi nó chợt phun ra hai luồng khói đen trắng cuồn cuộn đặc sệt bay thẳng lên theo xe Ba Đen, phả vào mặt lão Thổ coi không khác người hút thuốc lào, thuốc lá phì khói đằng mũi.
Lão Thổ vội phất tay, thổi phù, xua khói đi, buột kêu:
- Ôi chao! Thế này thì đúng con quái kia có sức phi phàm... mới nuốt hết khói độc phun ra đằng mũi được!
Hết khói đen trắng, tới đỏ vàng, lão Thổ phải dùng tận lực xua dạt, cũng may hình như nó không muốn phun vào xe sợ phải nữ lang áo trắng nên nó chỉ nhắm phì vừa tới mặt lão Thổ. Khói tan, nó phun bốn cái ống kim khí lên. Lão Thổ không vừa, quơ tay bắt dính, khoảng cách chỉ còn mười thước.
Lão Thổ khẽ bảo:
- Còn hy vọng cuối cùng, xin trời đất giúp người lâm nạn!
Ngón tay bấm mạnh, Tặc, tặc, tặc, tặc! Đạn nổ liên thanh, quạt trúng ngực đười ươi chúa, ngay loạt đầu đã bốn năm viên, làm nó bật lại sau, ngã ngồi xuống, một con đứng sau nó nhào xuống đường. Thì ra cái ô là cây “súng cối xay” đặc biệt, chế nhỏ hơn súng cối xay đương thời, nhưng sức mạnh hơn súng “mút” kể như loại “cối xay trung liên”.
Thấy nó ngã ngồi, nhiều người reo lớn. Lão Thổ cắp súng, quay tay, loạt nữa trúng đầu con quái làm nó bật ngửa ra sau. Nhưng lạ thay bỗng nghe nó rú:
- Cối xay! Cối xay! Thổ đốm to gan! Không để nó sống!
Bỗng thấy hai con đười ươi nhảy vọt lên. Một khoảng đen sì loáng thoáng, tiếp liền đạn va loong coong chát chát. Lão Thổ trợn mắt dòm sang mới hay lũ quái vật lôi đâu ra hai cái nón sắt che trước mũi xe. Dưới ánh hoàng hôn, hình sơn vẽ trên nón lắc lư rõ hai cái mặt người dữ tợn hệt vợ chồng Mẫu Dạ Xoa hồi nãy.
Thì ra chính nón của cặp vợ chồng giặc khách Quảng Tây, loại nón loe bằng cái mâm đồng lớn vừa để đội, vừa dùng làm khiên mộc, vẫn thông dụng trong giới xạ phang ở biên giới Việt-Tàu!
Con đười ươi chúa hét như sấm:
- Thổ đốm to gan, Lâm vương xé xác mi!
Thấy bắn hai ba tràng không ăn thua, lão Thổ rúng động tâm thần, chĩa luôn ngọn ô súng định bắn hai con ngựa. Nữ lang áo trắng thất sắc nhoài mình, nắm vội chiếc ô hất lên cao, nhanh giọng:
- Đừng... Cụ! Nó chạy nhanh hơn xe ngựa, chớ bắn ngựa! Bắn nó cũng không được đâu! Tôi đã chống cự hết cách rồi. Tôi đành bạc phận, xin cụ mở lòng nhân cứu lấy trẻ thơ này, nếu để chậm, quái vật nhảy sang, thân tôi chẳng thoát, mà mọi người đều mang hoạ thảm!
Lời vừa dứt, bỗng nghe tiếng đười ươi gầm rú. Ai nấy dòm lại đã thấy cỗ xe quái chỉ còn cách quãng ngắn.
Nước mắt như mưa, nữ lang áo trắng ló mặt ra, quát lớn:
- Quái vật! Đợi ta sang! Không được hại người ta! Nếu chẳng nghe lời, ta liều một thác!
Đười ươi cười rú giơ tay vẫy:
- Đem cả con nít sang!
Nữ lang ôm con hôn lia lịa, nước mắt nhỏ cả vào mặt đứa nhỏ. Nó không khóc lớn, chỉ mở mắt thao láo, dòm mẹ, mếu. Nữ lang ghì con nghẹn ngào:
- Tình thế nguy lắm rồi, mẹ phải lìa con... lòng đau như cắt. Cầu trời Phật cho con thoát nạn, mai sau khôn lớn báo thù, mẹ có thác cũng ngậm cười nơi chín suối!
Nói chưa xong, nước mắt đã đầm đìa, nữ lang lau mặt cho đứa nhỏ, cắn răng bồng dúi vào tay lão Thổ.
Chẳng biết tính sao, ông già sơn cước phải đỡ lấy, lệ chảy ròng thương xót. Hành khách trong xe trông thấy cảnh đó, ai cũng động lòng sa lụy.
Lão Thổ bồng đứa nhỏ, nhìn kỹ thấy tai đeo khuyên mới hay là đứa bé gái hết sức xinh xắn, da ngà, tóc tơ, mắt như hai hạt nhãn, cứ mở to đen láy nhìn ông ta.
Lòng xúc động, ông già sơn cước thở dài bảo nữ lang:
- Lão đây giận mình tài hèn sức mọn không chém được đầu con quái vật, nay chỉ có việc nhỏ bà uỷ thác, lão đâu dám từ nan! Nhưng chỉ thương bà phải nộp mình cho quái vật, mẹ đứt ruột chia lìa con, lão đây không đành dạ!
Nữ lang nghẹn ngào, cười héo hắt:
- Xin cụ đừng lo! Tôi sẽ dùng hết cách, buộc nó rời đường cái, không được hại ai. Tôi không để quái vật... phạm tôi đâu! Đời người ai cũng một lần chết, tôi không sợ, chỉ thấy trẻ thơ được cụ cưu mang là tôi yên lòng!
Dứt lời, nàng thở phào một cái, lau nước mắt, nhìn con thơ, đưa tay bíu thành xe, dợm phóng ra, những lão Thổ vùng ngăn lại:
- Khoan! Xin bà cho biết qua lai lịch!
- Tôi đã để trong mình đứa nhỏ! Gái bạc phận này xin lạy cụ ba lạy, tạ ơn dưỡng dục cưu mang cho đứa con côi!
Dứt lời nàng chắp tay vái lão Thổ luôn ba cái. Lão Thổ lật đật né tránh, xua tay. Nữ lang đứng phắt dậy quát lớn:
- Đười ươi! Ta xuống đây!
Lời chưa dứt, nàng đã quăng vèo thân mình lên cao, hạ xuống đường, tiếng nàng ngân dài trong gió cuồng mưa bay lất phất, ai nấy đứng dậy, nhoài người vươn cổ, dòm kêu lên. Cái bóng trắng thon lẳn lăn đi mấy vòng, đã đứng sững bên đường vừa lúc cỗ xe chạy lên một cây cầu sắt.
Lão Thổ rút trong mình ra một trái tạc đạn khói mù, giật kíp quăng “bốp” xuống cầu. Một làn khói xám bùng lên, xoá nhoà khoảng lớn. Lão Thổ bồng đứa nhỏ, xách cây ô đen, nhảy vèo xuống bên đường, chỗ đầu cầu dốc có một đường tiều cỏ cao chạy vào rừng sâu.
Không dám chậm trễ, ông già sơn cước ôm đứa bé gái, chạy nhanh như gió. Bỗng nghe có tiếng người kêu rú lẫn tiếng đười ươi rống vang động như cười, như rú, chờn vờn đuổi theo quái gở.
Con đường tiều này chạy bên giòng suối, quanh co uốn khúc, cây cối rườm rà chỉ bước vài chục thước đã không thấy đường cái nữa.
Lúc này cuồng phong đã dịu, mây xám đã bớt dày, mưa bay van vát, “tung” từng hồi quất vào mặt vẫn ran rát như roi da quất.
Vừa chạy, lão Thổ vừa nghiêng tai nghe ngóng, vẳng trong mưa gió, có tiếng ngựa hý, người kêu. Đười ươi tru rú như hùm beo đói gào mồi, rượt theo, kẻ bạo gan cũng phát rởn ốc.
Nổi chìm trong mưa gió, hình như có cả tiếng người thiếu phụ hét lanh lảnh, lẫn tiếng quái vật hú vang động sơn lâm.
Chắc bầy quái vật đang đuổi người, nàng kêu cản chúng. Hoặc chúng định sục bắt cả đứa bé này, để buộc nàng phải vì con, không đành lòng quyên sinh!
Lão vừa chợt nghĩ đến đó, bỗng nhiên đứa bé gái khóc thét lên, tiếng to lạ thường. Giật mình, lão Thổ ôm ghì đứa bé, kéo mép chăng che mưa gió kêu nhỏ:
- Cháu gái! Cháu gái! Nhà cháu tan hoang, mẹ cháu sa vào tay quái vật, chỉ còn trông mong cháu sau này báo oán. Nay quái vật đang sục sạo tìm bắt, cháu hãy nằm yên chớ khóc!
Lạ thay, đứa bé nghe tiếng lão Thổ, nó như hiểu rõ nguy cơ đang đe doạ, lập tức nín ngay, nhưng mồm vẫn mếu coi rất dễ thương.
Lão Thổ cả mừng bồng đứa bé, cắm cổ chạy miết trong mưa gió ào ào, cây rừng trút lá.
Mấy phút sau, không còn nghe thấy tiếng người kêu, thú rú nữa, lão Thổ vừa chạy chậm lại, bỗng nghe tiếng thú rừng kêu rống phía trước, lão giật mình đứng vội, đảo lia mắt nhìn quanh.
Cà um... cà um! Hoăng hoăng! Hộc hộc! Từ sau khúc quanh, một đàn thú loạn rừng xồng xộc phóng ra, lố nhố hùm beo, hươu nai, cầy, hoẵng, gấu ngựa, gấu chó... lẫn lộn, nối đuôi nhau coi rất lạ, có bầy cách nhau chỉ một hai thước, con nào cũng chạy như giông.
Nhanh như cắt, lão Thổ bồng đứa nhỏ, xẹt luôn vào bụi rậm, nhảy vụt bíu cành cây, đu lên ngồi vắt vẻo.
Sống lâu tại thượng du, lão Thổ đã hiểu rõ “chuyện rừng thiêng khi yên khi loạn.”
Cũng chưa ai hiểu rõ tại sao tự nhiên loạn rừng, chỉ biết khi rừng lên cơn loạn, các giống thú kéo nhau chạy tứ tung ngũ hoành, thường lần về vùng có người ở gầm rống vang động, không phải cốt bắt người, nhưng nếu gặp ác thú cũng nổi hung vồ liền.
Đoàn thú kia có lẽ chạy ra nẻo đường cái, có mấy con hươu nai chạy trước mấy con cọp xám, cọp vằn, coi chúng có vẻ sợ hài hết sức, có lúc dúm cả vó, nhưng rất là không con nào chịu nhảy ngang vào bụi, hay vọt qua suối.
Bầy thú loạn rừng vọt qua chỗ lão Thổ nấp. Có mấy con ác thú hình như đánh hơi người, nên chúng nghiêng ngó dòm quanh, hếch mũi lên, thở phì phì. Tuy vậy, chúng không dừng lại, cứ tiếp tục theo dòng súc vật phóng về hướng đười ươi ngoài đường cái.
Mùi hùm beo tanh khẳm đến lộn mửa phả vào, làm lão Thổ suýt hắt hơi, nhưng đứa bé gái vẫn nằm im thít, mắt mở to.
Đợi bầy thú loạn rừng đi khỏi, lão Thổ mới nhảy xuống chạy vào rừng sâu.
Con đường tiều càng vào càng nhỏ, cỏ cao tới bụng chừng rất vắng người qua lại.
- Chẳng rõ lối tiều này có dài không? Nhưng có suối là có lối đi, cứ theo dòng, thế nào cũng gặp bản động?
Óc nghĩ, chân chạy gió ào ào, mưa lất phất, lá cây trút như bươm bướm. Chạy được quãng ngắn, chợt lối tiều vòng về bên trái, qua suối có một cây gỗ bắc qua làm cầu, ông già dừng lại, sực nhớ đến nữ lang, lòng bỗng dâng cuộn niềm thương xót mênh mông.
Muốn quay ra liều mạng cứu người đàn bà bất hạnh một phen nhưng vướng đứa bé cần bảo toàn, lão Thổ đang đứng bên dòng suối nghĩ ngợi, thình lình trong gió vụt nổi lên tiếng vó ngựa dồn dập.
Lão vội bồng đứa bé ẩn vào một lùm cây gần đó. Một bóng người mặc áo xanh đang cúi rạp trên mình ngựa mải miết ra roi, người ngựa xem chừng đều đã mệt lả. Chạy đến bên dòng suối ngựa dừng lại, một cô gái nhảy xuống nhớn nhác nhìn quanh vẻ kinh sợ, lo lắng rồi cúi xuống vốc nước rửa mặt vội vã. Từ trong chỗ ẩn lão Thổ lặng lẽ quan sát, khuôn mặt nữ lang này rất trẻ và rất giống người thiếu phụ áo trắng vừa bị đười ươi chúa bức bách nạp mình.
“À, không chừng cô gái này là em bà áo trắng khi nãy cũng nên! Bà ta bảo có cô em bị thất lại từ lúc bị con tinh đười ươi đuổi bắt! Đúng rồi, xem ra họ giống nhau đến bảy tám phần mười! Ta nên lộ diện cho cô ta biết!”
Nghĩ dứt, lão bước ra khẽ tằng hắng lên tiếng. Cô gái đang rửa mặt giật mình lùi lại định nhảy lên ngựa chạy, lão Thổ vội ôn tồn bảo:
- Cô ơi, đừng ngại! Phải cô đang chạy nạn đười ươi?
Chừng thấy đó là một ông già, cô gái có vẻ bình tĩnh hơn, thánh thót hỏi lại:
- Cụ là ai? Sao cũng biết tôi chạy nạn đười ươi?
Lão Thổ tiến lại, cô gái dòm sững đứa nhỏ lão bồng trên tay, lắp bắp kêu lên:
- Trời ơi, cháu tôi! Cụ... làm sao cụ...
Đứa bé cũng nhận ra dì nó, nó mừng rỡ đưa tay theo, miệng mếu máo gọi. Lão Thổ trao nó cho cô gái áo xanh đoạn kể vắn tắt chuyện gặp nữ lang áo trắng.
Thiếu nữ ôm cháu mừng mừng tủi tủi nghẹn ngào hỏi:
- Thưa cụ... vậy chị ấy giờ đã sa vào tay con tinh đười ươi?
Lão Thổ cố nén một tiếng thở dài khẽ gật, gương mặt phong trần vụt trở nên cương quyết. Lão chìm giọng bảo cô gái:
- Giờ hai cô cháu mau kiếm chỗ ẩn, lão quay lại tìm cách cứu lệnh tỷ!
Lão Thổ dắt ngựa đưa cô gái áo xanh cùng cháu bé vào chân núi tìm một cái hốc kín đáo trú ẩn. Xong lão lộn lại theo lối cũ tìm về chỗ thiếu phụ áo trắng sa vào tay con đười ươi chúa khi nãy. Chừng mười phút sau lão đã chạy tới khu cầu sắt, thận trọng nấp bụi quan sát. Bốn bề im vắng. Ngay bên kia cầu, hình dáng thiếu phụ áo trắng nổi bật trong ánh hoàng hôn tàn úa thê lương giữa cảnh núi rừng đang bắt đầu nhạt mờ sương khói lất phất mưa bay.
Con đười ươi chúa lắc lư bước lên đầu cầu. Nó giơ hai cánh tay lông lá về phía trước như chực vồ thiếu phụ áo trắng, nhưng xem chừng con quái tinh khôn sợ làm dữ, nàng liều tự sát, nên cứ chầm chậm tiến lại, cất tiếng ồm ồm lơ lớ dỗ dành:
- Người lấy thú xưa nay có nhiều, mỹ nhân biết mà! Tô Vũ nhà Hán bị vua Phiên đày ra sa mạc, lấy vợ đười ươi, ăn ở có con, đười ươi tử tế còn hơn người! Mỹ nhân đừng sợ!
Nữ lang áo trắng xua tay quát lớn:
- Tích Tô Vũ chăn dê từ đời cổ, có thật, nhưng chuyện lấy đười ươi không căn cứ, đó là chuyện hoang đường! Người không bao giờ lấy súc vật! Ta ghê tởm mi!
Đười ươi cười rú:
- Động phủ Lâm Vương nếu cần sẽ thiếu gì gái đẹp làm thê thiếp phi tần đêm ngày ca hát nhưng Lâm Vương chỉ thiếu ngôi chánh hậu, đợi mỹ nhân!
Thiếu phụ vừa thở vừa quát:
- Dầu có người, đó là mi bức hiếp, không ai lấy đười ươi! Mi là loài quái vật thành tinh, ỷ khoẻ bắt hiếp người ta, trời sẽ tru diệt mi, sơn thần Phi Mã sẽ vật chết mi!
Loài quái dã man!
Con đười ươi ngửa mặt cười thé:
- Trời đất là ai? Ai là trời đất? Trời mây đen kịt, đất rừng xanh um, Lâm Vương chúa tể, Lâm Vương là sơn thần Pi A Úac không ai chống nổi, súng bắn không chết. Lâm Vương sống bằng nhật nguyệt, đón nàng về làm nữ chúa rừng ngự trị khắp mấy miền sơn lâm Phi Mã sao lại bảo dã man? Mỹ nhân! Nàng nhớ tích Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Mỵ Nương đời Hùng Vương mười tám chứ! Ta là Sơn Tinh, nàng là Mỵ Nương, mau theo ta về núi hưởng ân ái thần tiên! Chớ tham sống nơi phố phường bon chen, uổng đời mỹ nhân tuyệt thế!
Vừa nói nó vừa nhè nhẹ bước lại, cổ nó vẫn đeo sợi thừng có móc, hai con mắt trố dòm hau háu, xem vẻ nó đã nén nhiều trước miếng mồi thơm.
Thiếu phụ áo trắng đang cơn hoảng, nghe lời con đười ươi chúa lòng càng kinh dị nhận thấy nó càng lúc càng tỏ ra linh mẫn khác thường, có lẽ nó còn hơn cả người ta. Nó biết dỗ dành, lại biết cả điển tích xưa nay.
Không có vẻ súc vật chút nào.
Nàng bất giác mở to mắt phượng nhìn nó, rùng mình liền mấy cái. Hình thù quái vật khác hẳn trí thông minh tinh ma của nó.
Đầu to sù, mắt trố, mõm loa, méo đỏ như mép con dái, lông lá xồm xoàm, tay chân lớn như mấy cái cột, với những vuốt cong nhọn như vuốt hùm, mưa đọng trên mình nó không khác gì tuyết bám quần áo măng-tô. Có lẽ chưa bao giờ trên vùng sơn lâm Đất Việt lại có giống đười ươi to lớn đến thế!
Đầu óc khoa học của người đàn bà Tây học bỗng sụp đổ trước con quái biết nói tiếng người, súng bắn không chết. Vốn đã theo học nhiều môn võ, nên hiểu nhiều xứ có kỳ môn gươm đáo đâm chém không thủng như môn Ninjitsu của Nhật cùng các môn gồng, ngải v.v... Nhưng chưa nghe thiên hạ có môn súng bắn không chết!
- Hay nó chỉ là quái nhân mặc bộ “giáp đười ươi”?
Nhưng nếu mặc giáp phải cứng đờ, đâu có nhuyễn mềm từng bộ phận mọc lông kia? Nhất là cái mặt nó kia đúng là mặt đười ươi!
Đang nghĩ lung tung, bỗng thiếu phụ giật nảy mình, thấy con đười ươi lắc mình một cái, bất thần xẹt lại đưa tay vồ. Thất kinh, nàng khoa tay đỡ gạt, lùi lại kêu thét:
- Quái vật! Mi bức ta, ta cắn lưỡi chết liền!
Quả nhiên, con đười ươi dừng ngay lại.
Xem chừng nó đã khó cầm lòng trước tấm thân đẹp như tượng thần Vệ Nữ đứng dưới mưa bay. Áo nàng đã rách tả tơi, mải kinh sợ, khuy áo trong xổ bung lúc nào không kịp cài, thành tấm thân bán khoả lồ lộ cả bờ vai thon, lồng ngực ngà mịn. Ống quần nàng cũng bị gai móc rách soạt hai ba đường dài, không may trời lại mưa gió dán chặt quần áo vào người, lại là quần áo trắng, nên làm nổi bật từng đường nét cong uốn. Cả những khoảng còn xiêm y cũng chẳng hơn gì, vì lờ mờ hiện sắc da hồn coi càng “lôi cuốn” như mỡ để miệng mèo!
Thở hộc, con đười ươi chúa liếm mép, phát tiếng khàn rè:
- Mỹ nhân theo ta về động! Mặt trời sắp lặn, đêm tối sắp trùm sơn lâm! Mỹ nhân đừng để Lâm Vương làm mạnh tay! Lâm Vương yêu nàng! Không lấy nàng, ta ăn thịt hết dân Phi mã cũng không ngon!
Mấy tiếng “mặt trời sắp lặn” làm thiếu phụ bỗng quát lớn:
- Quái vật! Thái dương lặn còn chờ gi không ăn thịt ta đi!
Cười rú, con quái dang tay:
- Không ăn thịt mỹ nhân! Chớ sợ! Ta đưa nàng về làm vợ!
Dứt lời, bất thần nó dựt phăng sợi dây móc quăng “vút” lên xoắn nghiến thân hình thiếu phụ, kéo thốc lại.
Nàng sợ quá kêu ré lên một tiếng đã bị nó lôi phăng vào vòng tay rộng ôm ghì lấy. Nàng vùng vẫy chống cự, thở hổn hển, khắp mình mọc ốc vì cả tấm thân thon lẳn mềm như liễu bị dán vào bộ lông của con đười ươi quái.
Thiếu phụ vùng mạnh được một, hai cái đã thấy mình chạm lưng vào thành cầu.
Quá kinh hoàng, thiếu phụ áo trắng chỉ hét được một tiếng, đã thấy hai bàn tay lông lá nắm chặt lấy bờ vai, cứng như sắt.
Vì vùng vẫy, áo nàng đã tơi tả, càng xộc xệch tả tơi thêm, khuy bấm áo ngoai, áo trong xổ tung hết để lộ khuôn ngực.
Con đười ươi chúa dòm nàng hau háu, cất tiếng ồm ồm lơ lớ:
- Mỹ nhân! Chớ sợ! Chớ sợ! Lâm vương không ăn thịt!
Lâm vương đem nàng về động phủ làm bà chúa rừng! Động vàng động bạc, có đủ gái hầu, đàn hát, của ngon vật lạ!
Thiếu phụ quát run giọng:
- Không! Không! Mi giết ta đi... ăn thịt ta đi, người không lấy thú vật! Ta ghê tởm mi!
Hình như con quái vật hiểu rõ tiếng kêu bộc lộc cả sự ghê tởm khinh bỉ của người đàn bà đẹp.
Đương dỗ dành, nó vùng nổi giận, trở nên hung hãn lạ thường. Nó lay mạnh vai, cúi sát cái mõm loe mép vào mặt nàng, rống lên:
- Mỹ nhân! Nàng ghê tởm Lâm Vương, nàng không chịu làm vợ ta? Nói mau! Phải nàng nhất định không chịu làm vợ ta?
Tiếng nó hét vang động hoàng hôn rừng rú như búa gõ màng tai làm thiếu phụ áo trắng muốn điếc tai, lại thêm mùi dã thú xông vào mũi phát lợm giọng, làm nàng vội mở mắt ra. Thấy cái mặt đười ươi đã kề sát mặt mình, thiếu phụ càng kinh tởm kêu rú lên, cố vùng mạnh, nhưng không thoát.
Bỗng nàng loé tia sáng trong đầu.
- Khỏi phải hỏi! Ta đã cho mi biết từ lúc gặp mi bên hồ Ba Bể! Mi là giống thú vật dã man, ai cũng ghê tởm mi, Quỷ dạ xoa cũng chẳng thèm nhìn mặt mi, huống hồ ta! Chớ nhiều lời! Loại đười ươi chỉ bắt người ta ăn thịt.
Bẹt! Nàng nhổ ngay một bãi nước bọt vào mặt con quái. Nó rú lên, nhai khan hai hàm răng ken két.
- Mỹ nhân không chịu? Mỹ nhân không sợ chết?
Thiếu phụ lấy can đảm, cười thét như điên:
- Ta chỉ ghê tởm mi, ăn thịt ta đi, ta đâu có sợ! Kinh tởm quá! Ta nguyền rủ cả nòi giống mi đời đời kiếp kiếp vẫn là giống đười ươi giữ ống không bao giờ được làm kiếp người! Bẹt!
Lại một bãi nước bọt nữa, lần này nhổ toẹt trúng giữa mặt đười ươi.
Con đười ươi không nhịn đười ươi nữa, nó rống lên một tiếng cụt lủn, cúi luôn mõm xuống nhồm nhoàm gặm luôn lồng ngực nạn nhân, phát âm ú ớ:
- Ta thịt! Ta thịt!
Thiếu phụ nhắm mắt, cắn răng, rướn cong người, cảm rõ những chiếc răng nhọn như rằng hồng cẩu quầy chạm da thịt tưởng sắp lìa đời vào bụng đười ươi, nàng lắp bắp trong họng:
- Con tôi... xin thần linh phù hộ cho con tôi thoát nạn!
Trong lúc bàng hoàng, nàng thấy nhói một cái như bị kìm kẹp nhẹ xế dưới họng, nhưng bỗng có cảm tưởng bị một cái “chổi giấy ráp” quét lia lịa trên da thịg, chỉ hơi rát làm nàng phải cho mình lại ngạc nhiên mở choàng mắt ta, thấy cái đầu đười ươi to như trái bóng rổ ngay dưới cằm. Hai cánh tay vẫn bị nắm chặt, nàng cố vùng mạnh người nhưng càng vùng, càng bị quét lia, khi chổi chạm nét kỷ hà cao nhất nàng thất kinh hét lên, sực nhớ hai chân vẫn tự do, lập tức thu hết sức lực thừa dùng một thế võ hất tung đầu gối lên. Con đười ươi lúc đó đứng lom khom bị đầu gối thúc trúng bụng.
Bịch! Tưởng nó vỡ bụng, nào dè vừa chạm bụng nó, đầu gối thiếu phụ bỗng đau nhói như thúc vào thành đồng vách sách, khiến nàng rũ luôn gối.
Nhưng con quái vật cũng lừ đừ ngóc đầu lên.
Hai con mắt trố, đỏ như tiết, chợt nó hít luôn cái đưa bàn tay lên lau nước bọt lên mũi ngửi, hít lấy hít để nhe răng trắng nhởn cười rú:
- Thơm! Thịt đàn bà thơm, nước bọt cũng thơm, tóc tai mình mẩy thơm quá. Ăn thịt được một lần, chúa đười ươi không ăn, để ngửi cả đời! Hí hí! Mỹ nhân khôn ngoan, đánh lừa ta, chửi cho ta ăn thịt, ta không ăn đàn bà đẹp! Hí hí! Thơm! Ta không mắc lừa!
Chưa dứt câu, nó đã chúi xuống, quét lia dãi rỏ long tong, cái lưỡi thè lè như lưỡi chó sói, coi gớm ghiếc.
Cựa không nổi, thiếu phụ thở hổn hển, trong cơn nguy khốn, bản năng tự vệ của đàn bà bỗng dậy lên, nàng vụt nghĩ:
“Con thú them mồi, nếu bị chống cự, cơn thèm càng tăng. Nó đòi lấy ta tất nó tinh quái thừa hiểu chuyện làm vợ chồng. Ta phải kiếm cách vuốt dịu thú tính nó, còn lựa thế quyên sinh mới kịp! Nếu để chậm nó điểm huyệt làm càn, còn gì danh tiết?”
Bèn thu hết can đảm, nàng hét lớn:
- Đười ươi nghe ta nói đây, nếu muốn, đưa ta về động!
Hét liền mấy câu, nó vẫn như không nghe thấy, may sao vừa khi nó buông vai ra nắm xuống bên sườn thiếu phụ chợt nhớ ra lập tức luồn một tay ra sau lưng lén rút được một con dao lá lan sắc như nước.
Nàng định đâm vào bụng mình, nhưng lại thấy con quái không hề lưu ý, bèn nhẹ tựa chiều, nâng ngược chếch mũi dao lên, bất thần hét lên một tiếng đâm thốc vào sườn con đười ươi, chỗ mạng mỡ không có xương.
Sức đâm mạnh hết sức, dao nhọn sắc như nước nếu đâm lợn lòi cũng phải xuyên qua làn da dày! Cục! Một tiếng khô sệt như đâm vào gỗ mun bọc sắt tiếp liền tiếng “cạch” sâu, tay nàng bị một sức vô hình cản lại, tê điếng cảm giá như đâm vào lốp xe hơi bọc thép.
Nghiến răng, nàng giật ra đâm nhát thứ hai, nhưng ngạc nhiên lại thấy cườm tay chạm mớ lông xồm.
Quái vật buông luôn nàng ra, quơ nắm lấy cổ tay, dơ lên cười rú.
- Mỹ nhân đâm Lâm Vương! Mỹ nhân có võ!
Thiếu phụ vội cúi dòm, thất kinh, tuyệt vọng, thấy lưỡi dao lan đã cong veo như chiết liềm, mũi dao gãy mất một khúc gần ngón tay!
Vùng mạnh nàng hét lớn:
- Buông tao ra! Con quái! Mày không phải loài vật thường, mày là quái thành tinh!
Đười ươi giật lưỡi dao cong, dòm, ném “bõm” xuống suối, cười ré:
- Lâm Vương là sơn thần Phi Mã, như Sơn Tinh xưa lấy Mỵ Nương!
Thiếu phụ thu hết can đảm, nhìn thẳng vào mặt con đười ươi quái. Thấy lông lá nó ướt đầm, nàng mới chợt để ý nãy giờ trời vẫn còn lộng gió từng cơn, và vẫn có mưa bay lất phất. Tự nhiên nàng thấy lạnh vô cùng, rùng mình liền mấy cái vị gió mưa ngấm vào da thịt, và kinh hoàng phát rét lên.
Trong thoáng giây, người đàn bà quý phái cảm rõ tất cả nỗi uất ức, xót xa tủi nhục của trang quốc sắc đang sống trong nơi lầu son gác tía bỗng một phút sa cơ mắc tay quái vật bạo hành cưỡng hiếp. Nước mắt ứa ròng ròng, nàng nghẹn ngào, run giọng:
- Mi dẫu thành tinh, vẫn là loài súc vật, hiểu sao được lễ giáo loài người! Xưa Sơn Tinh, Thuỷ Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương, Sơn Tinh đem bao nhiêu đồ sính lễ tới trước, mới lấy được Mỵ Nương, hôn lễ vô cùng long trọng. Nay mi ỷ mạnh bức ta giừa đường, dùng sức yêu quái cưỡng bức, không sính lễ, không cần ta thuận hay không, sao dám ví với Sơn Tinh? Làm như mi, dẫu có bắt cóc được ta về, chiếm đoạt thể xác ta, mi đừng hòng ta chung sống với mi theo đạo vợ chồng!
Con đười ươi dòm nàng hau háu, cái lưỡi thè lè mồm loa chóp chép xem chừng nó đã them thuồng xác thịt thơm tho cực độ, chỉ chực ăn sống nuốt tươi người đàn bà tuyệt sắc. Nhưng tự nhiên thấy nàng khóc, nó lại không dám làm dữ ngay, cứ lắc lư nghiêng ngó mãi hai ba lần tính chụp lấy lại thôi.
Nước mắt đàn bà quả là khí giới vô cùng sắc bén, làm mềm lòng cả quái vật. Nó có vẻ thích chí dòm nàng khóc, không chửi rủa.
Nó giơ bàn tay lông lá sờ má nàng, phát tiếng ồm ồm:
- Mỹ nhân muốn gì?
Thiếu phụ nhẹ nhàng lùi ngay, đáp:
- Nếu thật mi muốn lấy ta, phải có đồ sính lễ, đón về như Sơn Tinh đón Mỵ Nương!
Vừa nghe dứt, bỗng con đười ươi cười rú lên sằng sặc:
- Mỹ nhân! Nàng đánh lừa ta. Nàng dùng kế hoãn binh! Nàng bảo không lấy ta mà lại đòi làm lễ cưới, nàng coi ta là đứa con nít! Đám cưới đười ươi! Ha ha! Nếu nàng thích, cứ về động, sẽ có!
Thiếu phụ không khỏi chột dạ, thấy nó nói đúng ý nghĩ “dục hoãn cầu mưu” của mình, nhưng nàng cứ đòi, kéo dài tình thế. Tuy vậy chỉ được mấy câu, con đười ươi lại nổi thú tính, lắc lư giơ tay vồ lấy ngang sườn nàng.
- Mỹ nhân! Lâm Vương lấy nàng! Đừng mong đứa nào tới cứu nổi! Ta ăn thịt hết!
Lời chưa dứt, nàng đã bị nó nắm lấy kéo vào lòng. Quá khủng khiếp, nàng vùng kêu lớn:
- Buông ra! Mi không thấy có người tới kia sao? Buông đã!
Tưởng quát liều, nào dè vừa quát xong, bỗng người đàn bà giật mình thấy từ sau bụi rậm đầu cầu, vừa có một bóng người lò dò tiến ra. Nghe kêu bóng kia đứng khựng lại, cách chừng bảy tám thước tây.
Con đười ươi cũng ngoái cổ dòm lại, thấy bóng người, lập tức hét lên như sấm, bóng kia thấy lộ, tiện tay cầm khẩu “pạc hoọc” vẫy liền. Đoàng! Đạn trúng trán con đười ươi, nhưng cũng như hồi nãy, nó chỉ bật ngửa đầu về phía sau một chút, vùng một cái xoay hẳn mình, giương mắt trố dòm hét:
- À, thằng Thổ phỉ! Mày còn sống!
Bóng kia chĩa súng quát:
- Tỉu nà quái vật! Tao kiếm mày đòi nợ!
Thì ra bóng kia không ai khác viên tướng phỉ Tcheng Ngan Fou Quảng Tây, Trại Hứa Chử Thần Pháo Tiên sinh! Y trợn mắt quát:
- Mày mình đồng da sắt, tao bắn nổ con ngươi mày xem có vỡ sọ không? Hầy à! Cô nương áo trắng còn đợi gì?
Nghe y nhắc, thiếu phụ bị nạn giật mạnh tay, nhưng con đười ươi vẫn nắm khư khư.
Thình lình một cơn gió tạt qua cầu. Một viên đá vụn ném trúng lưng thiếu phụ. Giật mình, nàng vội ngoái dòm lại mừng rỡ pha lẫn kinh ngạc chợt thấy dưới gầm cầu kia, lão Thổ hồi nãy chống chiếc ô đen, đương lom khom, giơ tay làm hiệu cho nàng ngồi thụp xuống và trỏ vào gáy.
Vốn thông minh, thiếu phụ hiểu ngay lão định bắn vào chỗ phạm của quái vật.
Vì mới đây, trên Lào Kay, phía giáp Phong Thổ biên giới Tàu, có một bọn “săn tài tử” toàn Tây và đầm mò vào rừng săn thú, buổi trưa, cắm trại bên một con suối, bỗng thấy một quái vật lừ lừ tiến lại, cao tới hai thước tư, giống hệt hình người. Chó săn chồm tới cắn, bị nó tat một cái, nát nhừ xác. Bọn đàn ông chụp súng săn bắn, nhưng cứ bị đạn, nó lại lè lưỡi liếm một cái liền luôn, cuối cùng, nhờ có một viên võ quan Tây có mang tiểu liên, bắn một tràng, trúng chỗ phạm, nó liếm không kịp, ngã một cái chết. Xác nó nặng đến ba tạ, nguyên cái đùi, phải mấy người khiêng.
Các nhà động vật học cho đó là giống người rừng đời cổ còn sót lại.
Không chậm trễ, thiếu phụ khom mình cúi rạp xuống. Bỗng con đười ươi khoa bàn tay lông lá chụp “véo véo” trước sau. Trại Hứa Chử nhảy vọt vào bụi rậm, tay quái vật vồ trúng thân cây bằng cổ chân, giật “rắc” gãy phăng. Còn phía sau, lão Thổ cũng xẹt vào gầm cầu, cây giáng trúng rung chuyển cả cây cầu sắt.
Thiếu phụ không thấy quái vật quay đầu lại vồ lão Thổ, nàng lộ vẻ kinh dị, nén lòng kêu lớn:
- Đười ươi! Mi cứ nắm ta để làm bia đỡ đạn sao?
Lập tức nó buông nàng ra. Nhưng toàn thân nàng đã cứng đờ từ chân lên cổ, chỉ có đầu cử động được, và không á khẩu.
- Ôi chao! Rõ ràng nó có ngón điểm huyệt lợi hại của tay thượng thừa võ lâm, không lẽ thú vật cũng biết luyện võ công?
Đang nghĩ, bỗng nghe liền hai phát nổ. Đười ươi nổi giận rống lên, vung tay chụp lia lịa bứt từng mớ cành lá như bứt lông gà. Trại Hứa Chử bỗng nhảy vọt ra giữa đường, vừa hét.
- Con quái! Tao bắn lòi mắt mày!
Con đười ươi rống lên giận dữ khác thường nhưng nó chỉ lắc lư bước tới đầu cầu, trỏ mặt viên tướng phỉ Quảng Tây, hét:
- Thằng thổ phỉ! Lâm Vương ăn thịt mày!
Trại Hứa Chử bắn một phát, nhưng nó lắc mạnh một cái, đạn trúng đầu vẫn không hề chi. Hứa Chử mắng:
- Quái vật! Mày gặp tao là mày tận số! Tỉu nà! Có giỏi xuống đây đấu với tao!
Con đười ươi chụp với một cái, đã nắm được một nắm đá vụn đầu cầu, quăng vãi vào Trại Hứa Chử.
Viên tướng thổ phỉ xẹt tránh, vẫn bị trúng hai hòn đến “chát" mạnh như đạn bắn, làm y bật lùi hai bước, đau điếng ngực. May mà y có mặc giáp, nếu không sẽ thủng ngực!
- Tỉu nà con quái!
Lẹ như chớp, đười ươi bước thêm hai bước dài, thò bàn tay lông lá chụp “véo” một cái, cách một thước, vuốt kình vồ trúng ngực áo Trại Hứa Chử. Giật mình, y nhảy lùi một bước dài. Soạt! Vuốt kình móc thủng một mảng áo ngực chạm lần giáp trong đến “chát” đau như trời giáng.
Thất kinh, Trại Hứa Chử lùi vội ra xa, chửi inh ỏi.
Con đười ươi vồ hụt, nổi giận lại bước thêm nữa. Chỉ đợi có thế, Trại Hứa Chử giơ tay trốc đầu múa đảo một cái. Từ sau bụi ven đường, bỗng bay vụt ra một “ống sắt đen sì”. Hứa Chử bắt dính, khom luôn mình xuống, đặt ống sắt xuống đường, lôi trong áo ra một cái “bắp chuối”, thả “cạch” vào miệng “ống sắt”.
Từ lúc bắt ống, kẹp đầu gối, moi “Bắp chuối” thả, tất cả chỉ vừa độ ba bốn giây đồng hồ, nhanh như máy, không cần ngắm.
Vừa nhác thấy, con đười ươi vùng trợn mắt, nhảy lùi lại. Nào dè, bắp chuối vẫn nằm trong tay Hứa Chử, lần này y mới thả thật, nghe “bùng” một tiếng, nổ ngay chân cầu, ngay cạnh đười ươi!
Có tiếng kêu “coi chừng người trên cầu” nhưng một làn khói toả um trùm lên quái vật. Thì ra đó là đạn khói độc theo chiều gió tạt ngang, không bay lại chỗ thiếu phụ đứng.
Trại Hứa Chử lôi ra một viên đạn thứ hai nhưng chưa thả. Bỗng nghe trong làn khói độc mù, có tiếng đười ươi hú lên một tràng ngắn. Từ phía gầm cầu bên kia chợt có tiếng cối xay nổ “tặc tặc”, đạn vãi vào làn khói. Và theo luồng đạn quét, từ dưới nhảy vọt lên một bóng áo chàm đứng lom khom trên thành cầu, ngay sau lưng thiếu phụ, không ai khác lão Thổ râu muối tiêu! Lẹ như chớp, lão vươn tay chụp lấy vai áo cách độ nửa với tay.
Nhưng từ trong làn khói, bỗng có một dị vật phát ra, đánh trúng ngực lão Thổ đến “bùng” một cái, bắn tung xuống bờ suối bên gầm cầu. Con đười ươi từ trong đám khói bước ra, dáng vẫn khật khưỡng chậm chạp, vồ luôn thiếu phụ, cắp ngang ngực.
Sự việc diễn ra bất thần, làm Trại Hứa Chử dậm chân hét:
- Hây à! Trời hại ngộ rồi! Có “pháo” không làm được!
Vừa quát xong, y vọt lùi quãng dài, bỗng trong gió cuồng, vụt hiện ra một cỗ xe song mã phóng như bay lại phía cầu sắt.
Có tiếng quát thé:
- Bầy quái tới sau lưng!
Trại Hứa Chử ngoảnh cổ lại, thì cỗ xe đã từ sau khúc quanh, lao tới chỉ còn cách độ bốn mươi thước.
Lẹ như chớp, Trại Hứa Chử xoay phắt ống kích pháo thả “cạch” viên đạn trên tay. Bùng! Đạn rớt trúng cỗ xe, lập tức cỗ xe vờ tung ra từng mảnh, ngựa đổ sụm, đười ươi bắn văng tứ phía, nhưng chỉ chết mấy con, còn mấy con nhảy trước khi đạn nổ, lăn tròn sang bên đường.
Trại Hứa Chử dòm theo, hét mấy tiếng lóng giang hồ, lôi viên thứ ba, toan thả nữa. Nhưng trên cầu, con đười ươi chúa đã lao xuống như gió, cách năm bảy thước, vung tay chụp “véo”.
Có tiếng đàn bà kêu “quái vật sau lưng”. Trại Hứa Chử vừa ngoái nhìn lại đã bị giựt phăng khẩu pháo, ném vút vào rừng như ném một que khăng!
Giẩt nảy mình, tướng phỉ Quảng Tây nhảy sang bên đường. Con đười ươi chúa chụp véo, rách toạc mảng áo ngoài.
Bỗng từ trong bụi nhảy vọt ra một bóng đàn bà to lớn, cầm cây búa lớn, hét như sấm.
Mẫu Dạ Xoa! Mụ giặc khách Quảng Tây thân hình to lớn, nhưng di động nhanh hết sức, chỉ thấy ánh thép loáng lên trong mưa gió, dứt tiếng hét lưỡi búa đã bổ trúng ngực con đười ươi.
Chát! Lưỡi búa bật dội lại như bổ vào lốp xe hơi bọc sắt. Con đười ươi đưa bàn tay lông lá gạt một cái, trúng ngang Mẫu Dạ Xoa làm mụ ngã huỵch xuống đường. Vẫn dáng lừ lừ, con quái tiến lại, phát tiếng ồm ồm khó nghe:
- Hai vợ chồng thằng thổ phỉ này dám bắn vỡ xe, Lâm Vương bẻ họng xé xác!
Véo véo! Nó chụp liền hai cái, nhưng hai vợ chồng Mẫu Dạ Xoa đã kịp thời nhảy vọt ra đường cái đứng hai ngả, Mẫu Dạ Xoa tay phải cầm búa, tay trái rút khẩu Pạc họoc nhăn mặt bắn con quái liền hai phát. Nhưng nó lắc đầu, đạn chỉ trúng trán, nó nổi hung, cắp thiếu phụ hét lên, quơ tay một cái nhặt được mấy viên đá bằng quả trứng gà, ném “véo véo” trúng ngực hai vợ chồng Mẫu Dạ Xoa, mạnh như trời giáng làm cả hai cùng ngã bật về phía sau, ngồi phệt xuống đường.
Cũng may cả hai đều có mặc giáp dày, nếu không đã nát ngực, cả hai đều bị om xương, hộc ra hai búng máu. Mẫu Dạ Xoa trợn ngược mắt, vừa chồm dậy, vừa kêu the thé:
- Đười ươi ma quỷ! Ném đá hộc máu mồm vợ chồng Pạc họoc phu nhân!
- Ôi chao! Tức chết mất thôi! Phu nhân liều chết với mày!
Mụ bắn liền hai phát nữa thì bị hai ba con đười ươi khác xông lại vồ. Nổi giận, mụ chém vung mấy búa, con đười ươi chúa bước tới, vồ một cái giật được khẩu “pạc họoc” quăng tít vào rừng. Nó vồ cái nữa trúng vai mụ rách soạc mảnh áo lớn. Mụ rống lên chực xông vào, nhưng Trại Hứa Chử đã chạy lại, nắm tay kéo ra xa.
Con đười ươi xông lại, may sao vừa khi đó, bỗng liền mấy phát “cối xay” nổ “tặc tặc” trúng lưng con đười ươi chúa.
Sức đạn mạnh như chày vồ làm con quái chúi về đằng trước nhưng nó vẫn không hề gì, lập tức xoay mình lại.
Lão Thổ đứng ngay đầu cầu, cắp chiếc ô chĩa bắn.
Con quái nổi hung, hét như sấm:
- À thằng Thổ đốm còn sống! Lâm Vương vặn cổ mày!
Nó lao như bay lên cầu, lần này nó mới chạy, nhanh hơn ngựa phi. Lão Thổ vẫn đứng cắp súng ô bắn thêm được mấy phát, trúng cả vào con quái, nhưng nó vẫn không hề gì, chỉ bị sức đạn đẩy bật lại chút. Lúc đó thiếu phụ bị con quái cắp ngang nách, chỉ bị cứng người, nhưng từ cổ lên vẫn như thường. Nàng vùng kêu lớn.
- Nó có sức phi phàm, chạy cả đi, nán lại chết hết!
Những người lâm chiến cũng như chiếc xe đổ dốc, lúc nào còn đường vắng, còn hy vọng hạ địch, nên lão Thổ vẫn còn điểm hy vọng bắn trúng mắt con đười ươi. Từ xưa nay, đến kẻ có gồng ngải chịu được gươm đao, nhưng nếu bị đâm trúng mắt cũng chết.
Con quỷ có thể mình đồng da sắt, nhưng mắt vẫn là chỗ yếu nhất. Lão Thổ hoành súng trên cầu, quát lớn:
- Quái vật! Mi không buông người ta ra, ta thề sống thác với mi!
Lời vừa dứt, con quái đã phóng lên cầu. Cách mấy thước, nó vung tay lông lá, vồ trúng chiếc ô, giật mạnh. Lão Thổ chúi về phía trước, nổi giận, theo đà lao tới, rút ra một con dao găm, đâm mạnh.
Tay nắm thiếu phụ, tay nắm ô, con quái vung mạnh một cái, vừa gạt trúng tay lão Thổ vừa theo đà hất đảo vòng, nhanh kỳ lạ. Chỉ loáng thấy ánh tay lông lá vung lên toàn thân lão Thổ đã bắn tung như trái cầu vọt qua thành sắt rớt vù xuống suối.
Vừa khi đó, Mẫu Dạ Xoa, Hứa Chử cũng vừa đánh xong đười ươi, vọt theo quái vật quyết dùng “đòn gió” cuối cùng. Mẫu Dạ Xoa vọt trước, Hứa Chử theo sau, tay mỗi người cầm một mớ độc châm, độc sa hét lớn.
Một vầng cát đỏ như chu sa bay ra thu gọn bằng cái hoa loa kèn nhưng quái vật đưa tay quơ trước mặt, cát đỏ đầy tay mặt. Mẫu Dạ Xoa cười ré lên:
- Châm, cát độc dính đầy, mày sống được ư?
Chỉ thấy nó hét lên, vùng mạnh hai cái cả hai vợ chồng đã bắng tung qua thành cầu theo lão Thổ rớt xuống suối.
Nó rùng mình mấy cái, bao nhiêu độc châm độc sa dính ở trên mặt trên tay rớt hết! Xong, nó cúi sát mặt thiếu phụ, nhe răng cười âm u:
- Hà! Mỹ nhân... ngoan làm vợ Lâm Vương!
Bộ mặt dã thú quái gở quét lia trên mặt nàng.
Thiếu phụ áo trắng bị con đười ươi cắp ngang nách, chỉ kêu lên được mấy tiếng, trời đất, núi rừng, mây nước đảo lộn trong mấy khắc. Con quái vật chợt dừng lại đặt nàng đứng tựa thành cầu, cười ru rú.
Thiếu phụ dáo dác trông quanh mới hay lão Thổ cùng hai vợ chồng Mẫu Dạ Xoa đã bị nó quăng hết xuống suối.
Tuyệt vọng, nàng cố ngoái cổ dòm xuống suối, nhưng chỉ thấy dòng lũ chảy cuồn cuộn chẳng hiểu mấy người đó sống chết ra sao, cũng vùng kêu lớn:
- Chạy đi! Nán lại mang họa – Có thương gái bạc phận này, xin cứu vớt đứa con côi.
Kêu chưa dứt, đã thấy con đười ươi lắc lư cúi dòm xuống dòng nước, bất thần rống lên một tiếng, thò luôn bàn tay lông lá vồ xuống suối.
Ùm tiếng mạnh, thiếu phụ ngoái nhìn theo, bỗng giật mình kinh hãi, thấy một khối nước bắn tung lên như bị một cái gầu lớn múc mạnh, lại có một vật gì bắn vọt theo như con cá.
Tuy bóng người còn phủ đầy nước thiếu phụ cũng nhận ngay được dáng lão Thổ, nàng bật kêu sợ hãi, đã thấy con đười ươi vồ luôn cái nữa, cười rú! Dưới mưa bay, nước suối trút hết, tay con quái đã túm được ngực áo lão Thổ lôi bổng qua thành cầu, nhẹ như người ta lôi một con ngáo.
Lão Thổ vẫn còn sống, hai mắt trợn ngược, vùng vẫy, vừa thở hộc, vừa hét, ướt như chuột lột. Thì ra lão đã bị nó quăng xuống suối, nhưng lại mắc nửa mình vào bụi dây leo bên dòng, nên chỉ bị om xương. Sợ con quái xé xác ông ta, thiếu phụ kinh hoàng la:
- Đừng giết người ta! Mi giết, ta cắn lưỡi chết! Tha cho người ta...
Con đười ươi đã lôi lão Thổ lên bên thành cầu, nghe nàng kêu nó cười ru rú, phát tiếng ồm ồm lơ lớ:
- Thả Thổ đốm, mỹ nhân ngoan... lấy Lâm Vương?
Sợ nó nổi tính rừng quật chết lão, thiếu phụ gật liều. Con quái lộ vẻ thích chí, cười rống lên, buông luôn tay.
Lão Thổ rới “ùm” xuống cầu chìm ngỉm, dòng lũ cuốn luôn vào gầm cầu.
Thiếu phụ thở phào, vừa mừng lão Thổ thoát nạn, đã sợ hết hồn, vì con đười ươi đã sà lại, thò bàn tay lông lá vuốt má nàng, nhe răng cười nhởn:
- Mỹ nhân ngoan Lâm Vương thích! Xem mỹ nhân cười! Mấy con thịt trôi suối rồi, mỹ nhân cười đi... làm vợ chồng.
Một bàn tay, rồi hai bàn tay trôi miết xuống bờ vai, bất thần, con đười ươi cúi đầu hít hà liền mấy cái, vẻ hí hửng.
Toàn thân cứng đờ, thiếu phụ hoảng hồn ré lên, vì “chổi chà” quét lia lịa.
Hình như nãy giờ con thú đói mồi đã cố nén hết sức, giờ nó không nhịn nổi, vì mùi lan xạ phảng phất, mùi nước hoa quý phái phả vào mũi khơi dậy cơn thèm thịt tơ thơm tho, nó bỗng phát kêu hí hí, quơ tay cuống quít.
Bỗng “sọat” một tiếng, thiếu phụ giật thót người nhìn xuống, sợ rụng rời, thấy vuốt nhọn con quái vật vừa xé rách bươm cả hai lần áo ngoài, để lộ quá nửa khuôn ngực hoa thổn thức.
Trong cơn khiếp hãi, bản năng tự vệ vùng dậy, thiếu phụ nghĩ thầm: “Nếu ta kêu la cũng làm nó lên cơn thèm thịt! Giờ thân cứng đờ nó làm càn, sẽ nguy! Tại sao không lấy “những trị cương” dắt nó đi được khắc nào, hay khắc đó!”
Nàng bèn thỏ thẻ bảo:
- Đười ươi! Mi làm gì thế? Sao không giải huyệt cho ta? Mi muốn lấy khúc gỗ?
Quả nhiên lời êm ái của thiếu phụ có tác dụng lạ thường, lập tức con đười ươi đứng phắt dậy lại ngẩn dòm nàng.
- Mỹ nhân ngoan, Lâm Vương giải huyệt cho nàng để làm vợ chồng!
Bàn tay nó vuốt nhanh trên mình thiếu phụ mấy cái, lập tức nàng cử động bình thường như trước. Cố mỉm cười với nó, nàng hơi nghiêng người, vịn thành cầu nói:
-Đười ươi! Nếu ngươi muốn thực làm vợ chồng với ta, hãy đợi về... động đã!
Con đười ươi chúa dường như bị ánh mắt, nụ cười mỹ nhân thôi miên, nó hơi gật gật cái đầy có vẻ bằng lòng. Nhưng bản năng dã thú nổi lên cuồn cuộn, nó rít lên nghe muốn nổi gai óc:
- Không! Làm vợ chồng xong Lâm Vương sẽ đưa nàng về động phủ!
Nó kéo ghì nàng lại, dáng thân thanh tú đẹp như đóa phù dung trong mưa gió từ từ bị xiết chặt trong vòng tay dã thú.
Thình lình một tràng sói tru từ đâu bốc lên vọng tới, âm thanh đang cất vút cao bỗng sà vụt xuống con đường xuyên lâm nhánh quốc lộ số ba không khác một bàn tay khổng lồ phi phàm hốt lấy tiếng tru đổ ụp xuống cầu.
Lập tức, phía bên này cầu mấy con đười ươi nhất loạt kêu rú lên. Con quái đang mải vờn “mồi thơm” không thấu để tai, ngay lúc đó, chợt tiếng tru lại nổi dậy, lần này hàng trăm tiếng cùng tru, nghe vang động góc rừng, át cả tiếng gió cuồng.
Con đười ươi chúa lúc đó mới hơi ngóc đầu lên, lừ lừ ngoái dòm xuống chân cầu.
Mấy con đười ươi đàn ào ào chạy lên.
Đang chập chờn nửa tỉnh nửa mê, thiếu phụ nghe văng vẳng có tiếng tru lê thê, tự nhiên tỉnh dần, mở mắt trông ra, thấy phía bên kia cầu, hướng Nam, trong gió cuồng, mưa bay, vụt chồm ra một đàn sơn cẩu, sói, vừa tru vừa chạy nhanh về phía cầu sắt.
Ba bốn chục con rồi năm, bảy, một trăm con đếm không xuể, đàn sói rừng cứ phóng từng bầy một, cuồn cuộn như những đợt sóng dữ.
Và trước bầy sói rừng hung tợn, mắt con nào cũng đo đỏ như mắt cá chày, có một con hết sức to đi hai chân, lông lá xồm xoàm đen thui như chó mực, nhe nanh múa vuốt, hếch mõm nhọn hoắc đớp gió mưa, hai con mắt xếch dài, đỏ khé như lúc ăn đèn săn, coi cực kỳ hung tợn, kẻ đi rừng nhác thấy, phải chết khiếp.
Chừng thấy đàn chó rừng, quá đông, mấy con đười ươi kia chạy thục mạng lên cầu, tới chỗ con chúa, mới dừng lại, giơ tay múa chân, hú từng tràng.
Lập tức, con đười ươi chúa vùng rống lên mấy tiếng động hoàng hôn, đẩy thiếu phụ về phía đười ươi và lắc lư tiến ra đứng lù lù ngay đầu cầu.
Đàn chó sói phi đến chân cầu, cuối dốc, cách chừng vài chục thước bỗng con sói chúa giơ một chân trước lên trời, cả đàn dừng nhất loạt, nhe nanh múa vuốt, chỉ chực xông lên cầu!
Qua cơn xúc động, nghĩ tới loài sói mắt đỏ kia chính là loài sói ăn thịt người hung hãn, nhanh như chớp, thiếu phụ lại thấy mừng thầm như gặp cứu tinh. Tuy vậy, nàng cũng rùng mình luôn mấy cái dòm những hàm răng lởm chởm của chúng.
Vì giống này, dân sơn cước thường gọi “hồng cẩu quẩy” có nghĩ là “quỷ chó đỏ”, “quỷ đỏ mắt” răng sắc như răng cưa, bao giờ cũng đi từng đàn, kép tới đâu làm thịt tới đó, bất biết món chi. Một bầy hươu nai, ngựa, lợn, trâu bò, hoặc một phường săn, một đoàn buôn lậu chúng tràn tới, chỉ loáng mắt đã chi nhau “làm bữa” hết sạch không còn một cái lông, khúc xương. Chúng nhai cả giày dép, dây lưng da.
Càng lại gần, trong đàn sói càng hung tợn, nhất là con sói chúa, thật xưa nay chưa có con nào to đến thế.
Bất thần, nó tru lên một tiếng, cả đàn cẩu quẩy ào ào chồm lên cầu.
Chỉ nhìn đàn cẩu quẩy múa vuốt nhe nanh nhọn sắc như răng cưa, cũng đủ rùng mình rồi.
Nhưng con đười ươi không chút nao núng. Nó vùng rống lên một tiếng vang động hoàng hôn rừng, vung cả hai tay lông lá, gạt hai cái, “bịch bịch” liền ba bốn con cẩu quẩy bắn tung lên cao, rớt xuống suối, không khác mấy con ngoé.
Cuộc tử chiến giữa con đười ươi và đàn sói diễn ra cực kỳ ác liệt. Chỉ trong nháy mắt, đười ươi đã ném ngót chục con xuống suối.
Nhưng cầu rộng, hai xe tránh nhau vừa, đười ươi dẫu khoẻ, chặn bên tả, vẫn trống bên hữu, sói lại cực kỳ hung tợn, chỉ ít khắc đã tràn ngập đầu cầu, làm con đười ươi chúa phải lùi lại ngăn chặn. Mấy con kia cũng nhảy vào vòng chiến. Lúc đó, con sói chúa vẫn xẹt ngang dọc, cách năm bảy thước, chừng nó rình cơ hội bắt thiếu phụ áo trắng. Thấy sói đàn đã lên cầu được gần nửa, con sói chúa bỗng tru lên mấy tiếng lạ tai. Lập tức mấy chục con sói khác chia làm mấy bầy nhất loạt phóng xuống chân cầu suối, ào ào nhảy qua.
Chừng đã đóan được bầy sói đánh tập hậu, con đười ươi chúa rống lên, vung tay vỗ mạnh xuống bờ suối. Nhưng sức dẫu mạnh khác thường, nó chỉ hất tung được mấy con, chúng ào ạt vượt qua suối lũ, kéo sang phía cầu bên kia, tấn công sau lưng đười ươi.
Đang cơn hỗn loạn, bỗng con sói chúa lại tru lên một tiếng ngắn. Sói đàn ào ạt nhảy chồm lên cầu, có con vọt qua đầu đười ươi, bị vồ một mớ lông bụng. Như tên bắn, con sói chúa nhảy vọt khỏi đầu đười ươi, vừa chụp vuốt xuống, vừa quơ tay vồ thiếu phụ.
Con đười ươi chúa nhanh như chớp, nó hét lên, vung tay một cái theo đường bán nguyệt chếch cao, vừa đánh trúng bầy sói, vừa gạt vuốt con sói chúa, vừa lùi lại, nắm tay thiếu phụ, lôi lại sát thành cầu.
Vừa khi đó, bầy sói nhảy suối cũng ào lên đánh bọc hậu, nhưng mấy con đười ươi lúc này đã tựa thành cầu không phải đề phòng mặt sau, đã rảnh tay lo mặt trước. Chỉ loáng mắt, thêm năm bảy con sói bị ném tung đi, nát xác. Con sói chúa lập tức đổi lối tấn công. Nó xẹt nhảy sang đứng sát thành cầu bên kia, hú lên mấy tiếng, đàn sói ào ào lùi lại cả đứng bao quanh cầu, cách đười ươi hai ba bộ.
Đười ươi chúa cắp ngang người thiếu phụ áo trắng, xông xáo giữa vòng vây chó sói. Nó hú vang lồng lộng trong gió chiều:
- Hà! Lũ cẩu quẩy đã phá Lâm Vương trên vùng hồ Ba Bể, giờ lại kéo về đây quấy nhiễu muốn giành mỹ nhân. Hà hú! Lâm Vương đã có mỹ nhân, không còn thì giờ để tiêu diệt lũ mi! Rút!
Nó đánh dạt tung mấy con sói lộn xuống suối, vọt mình chạy như gió cuốn về phía ru8`người. Không chậm trễ, con sói chúa cũng tru hộ lên dẫn đàn hồng cẩu quẩy đuổi theo như cơn lốc. Đàn chó rừng hung tợn phóng theo ào ào đuổi sát sau lưng lũ đười ươi, cảnh tượng vô cùng quái gở!
Tình cờ chúng lại chạy vào con được mòn lão Thổ chạy hồi nãy. Đười ươi chỉ chạy trước chó sói vài chục bộ. Cả lũ quái vật phóng như bay, được hơn dặm, tới cây cầu chênh vênh, vì mấy con đười ươi đàn chạy chầm hơn, con chúa cũng phải chạy chậm lại, chặn hậu, nên khi đười ươi nhảy qua suối, chó sói cũng vừa kéo tới, ào ào vọt qua, bổ vây.
Bỗng con đười ươi chúa hú một tràng, nhảy vọt lên tàn cây, bầy đười ươi đàn cũng ào ào chạy tứ tán, nhảy lên mất dạng.
Khi đàn sói tới nơi, thì đười ươi đã chuyền ngọn cây đu vèo đi như khỉ vượn.
Vắt vẻo trên cây cao, con đười ươi hét vọng xuống:
- Cẩu quẩy! Đừng mơ tưởng mỹ nhân, Lâm Vương tạm đem nàng về động phủ.
Con sói chúa nổi giận vùng rống một tràng, lập tức cùng năm bảy con nữa, cũng nhảy vọt lên cành cây, đu chuyền đuổi theo. Sói đàn tru hộc, cuốn theo dưới đất.
Trong lúc đười ươi, chó sói ác chiến giành thiếu phụ đẹp trên cầu, lão Thổ bị con đười ươi chúa ném xuống giừa dòng, vì bị vết thương, nên bị ngất đi mươi khắc, theo dòng trôi đi khỏi gầm cầu, thì tỉnh lại, uống mất mấy ngụm nước.
Dòng lũ đưa lão dạt vào một bụi lau rậm cách cầu khoảng ba mươi thước. Vừa tỉnh lão đã lấy sức nhoài lên bờ, nằm điều hoà kinh mạch.
Cũng may nội lực khá thâm hậu, lại có mặc giáp giấu trong mình, nên lão chỉ bị trảo kình con quái vật vồ vào rách áo, thủng giáp, om xương như bị chày vồ giáng, không bị nội thương.
Lão điều hoà kinh mạch xong, thấy đã hồi sức, nghĩ thương thiếu phụ vô cùng, nhưng lúc này đã lượng được sức mạnh ghê gớm của đười ươi quái, nên đành nằm im, nghĩ đến đứa con côi nàng uỷ thác cưu mang. Kịp khi đàn sói hiện ra hai đợt tấn công lão đã mừng.
Lúc đười ươi thình lình cắp thiếu phụ bỏ đi, lại chạy về nẻo cô gái em thiếu phụ bồng đúa cháu ẩn đợi, lão cả kinh lật đật leo lên chạy theo quái vật.
Khi lão Thổ chạy tới cây cầu gỗ, nấp bụi nhìn sang sông, thấy lũ đười ươi nhảy lên tàn cây, con sói chúa cùng mấy con nữa cũng nhảy lên, lão không khỏi kinh ngạc, nghĩ thầm:
- Xưa nay trong rừng, các giống đười ươi, khỉ vượng, gấu leo cây là thường, giống báo cũng lên được những cây dễ leo, cũng như chó sói, nhưng không thể chuyền cành như khỉ vượn! Nay mấy con sói đầu đàn kia lại chuyền như khỉ là thế nào?
Nguy rồi! Cô gái em thiếu phụ hiện ẩn quanh đây đợi ta, chó sói đánh hơi rất thính, không hiểu cô ta có biết cách làm cho hơi người khỏi xông ra không?
Đưa mắt quan sát địa thổ, thấy khúc suối quanh co chảy giữa một thung lũng hẹp, cuối thác là rặng núi đá vắt chếch, bóng núi mờ mờ sau mưa gió, lão Thổ bèn men theo bờ suối chạy miết vào rừng sâu.
Trong gió mưa, vẫn có tiếng sói tru từng tràng ngắn.
Khi lão Thổ chạy được chừng ngót trăm bộ, trời thình lình tạnh mưa, rồi gió cuồng bỗng ngớt hẳn, chỉ còn hiu hiu. Trên trời mây tan nhanh, trong khoảnh khắc thoảng như ảo mộng, cảnh hoàng hôn phong vũ biến sạch.
Cả một miền sơn lâm Pi A Uác sáng hẳn lên. Về phương Tây, vầng thái dương sắp lặn chói loà trên rặng núi xa xa, chiếu xuống sơn lâm những tia nắng quái chiều hôm như rớm máu.
Trước mặt lão Thổ hiện ra một cảnh hoang tàn thê lương, cành cây gẫy, nhiều cây bị trốc gốc đổ nghiêng lá cây trút đầy, xác thú phơi rải rác bờ bụi xác xơ.
Lão Thổ nhìn về hướng sói tru lòng thêm lo sợ, nghĩ thầm:
“Trời hoàng hôn có gió mưa đã tối mờ, hơi người lại bị đánh bạt đi, sói khó đánh hơi, giờ bỗng trời quang gió lặn, hơi người ngựa chó sói càng nặng bầy sói đánh hơi đã dễ, ngựa ngửi mùi sói có thể hoảng hý lên, càng dễ lộ! Nếu ta không liền kiếm cách báo ngay, cô ta sẽ lâm nguy như không.”
Lão bèn hò lớn:
- Bùn đất trát lên người
Chó sói khỏi thấy hơi
Ai ơi! Hãy nhớ lấy lời
Đất bùn trát kỹ, hơi người không xông...
Tiếng hò vừa vang lên, bỗng nghe tiếng sói tru hộc phía đầu núi, có tiếng ngựa hý vang lừng. Lão Thổ thất kinh dậm chân than:
- Ôi chao! Chị em người đàn bà này sao số mạng lại cay nghiệt thế này? Chị đã bị bắt, giờ em gái, con thơ bại lộ tung tích, khổ thay! Nàng nhờ ta bảo toàn cho, nếu đứa nhỏ sa mõm sói, ta còn mặt mũi nàng sống trên đời! Chậm mất rồi!
Như mũi tên lao, lão Thổ cắm cổ chạy vội về hướng có tiếng ngựa hý sói tru, súng nổ.
Khi tới ngang chỗ có tiếng động, thì cả khu rừng vụt rơi vào im lặng thẳm sâu.
Không để ý tới chuyện nguy hiểm chết người, lão Thổ nhảy vọt qua suối phóng vào chân núi.
Được năm, bảy chục thước, lão vụt đứng khựng lại trước cảnh tượng gớm ghiếc hiện ra.
Ngay chân núi, cả mặt cỏ bị dẫm nát, máu me loang lổ đỏ lòm nội cỏ. Một cái yên ngựa nằm chỏng trơ, vài đoạn dây cương, vài mảnh thổ cẩm lót yên vương vãi, một vài mảnh da ngựa bê bết máu nằm bên nhau, di tích của tai hoạ ghê gớm vừa xảy ra.
Lòng đầy kinh dị, lão Thổ chạy quanh dáo dác. Một vùng đất khá rộng cỏ nát nhàu, lỗ chỗ đầy vết chân chó sói. Cỏ lá còn ướt sũng nước mưa pha máu bê bết coi dễ sợ.
Theo vết chân thú, đi dọc chân núi, bỗng thấy cây súng trường nằm văng ngay cửa một cái hốc lớn, lão Thổ vớ lấy, lên qui-lát, xem băng đạn còn ba viên...
Đúng nàng bị nó vồ đàng kia tha tới đây thì rớt súng! Ôi! Thiếu phụ đem thân nộp cho quái vật, trao đứa nhỏ cho ta, mà ta không bảo toàn được, còn mặt nào sống trên đời này nữa!
Dậm chân, đau đớn xót thương lão Thổ xách cây súng trường chạy theo vết chân chó sói. Ông ta đoán chắc cô gái cùng đứa cháu bé đã bị chó sói bắt đi, khi chúng đuổi theo đười ươi tới chân núi.
Vừa chạy đi tìm, lão vừa kinh dị về sức thần tốc của ác thú vồ người tha đi trong nháy mắt, chừng một trăm thước, bỗng thấy một chiếc dép trắng, cao gót nằm dưới gốc cây, lão Thổ cúi nhặt lên coi, lòng thêm đau xót, lẩm bẩm:
- Đúng nó tha hai cô cháu tới đây rớt giày! Tội nghiệp! Chỉ chậm ít khắc mà ra cơ sự này!
Nhét chiếc dép đàn bà vào túi, lão Thổ lại cắm cổ chạy. Nhờ trời mưa đất ướt, dấu chân ác thú in rõ trên cỏ nhàu nát, lão theo dấu quái vật không khó.
Chạy được thêm quãng nữa, vẫn nghe bốn bề im lặng mênh mông, lão Thổ càng thất vọng:
- Sao im lìm thế này? Lúc ta đứng đầu cầu, còn nghe thú tru inh ỏi, mấy con sói đầy đàn vọt lên cây đuổi theo đười ươi, sao chúng lại biến nhanh đến thế? Chỉ sợ con sói chúa đuổi đười ươi trên cao, bầy sói đàn đánh hơi người ngựa, ào vào chân núi, xúm lại ăn thịt hai cô cháu rồi! Con ngựa đã bị yên cương rớt vãi đầu núi! Có thể chúng vừa tha đi vừa táp?
Càng nghĩ càng lo, lão Thổ cứ chiếu vết cỏ nhàu nát, chạy mau, lòng xót xa như chính ông ta bị nạn.
Lúc đó, mặt trời đã lặn gần hết sau rặng núi Tây, chỉ còn một khoảng mỏng như lưỡi liềm nhô lên, vài tia nắng quái le lói chiếu chếch xiên trong rừng, cảnh sơn lâm không qua một cơn gió, cây cối đứng im như trong ác mộng hồng hoang.
Vượt hết rặng núi dọc, lão Thổ bỗng gặp một thung lũng ngang trước mặt, có một con đường mòn xuyên qua uốn quanh về hướng Tây Bắc. Dấu chân chó sói bắt vào lối mòn. Lão Thổ chạy theo được một quãng, đường mòn vắt dọc thân một rặng núi khá cao, bỗng một mùi hôi hám tạt thốc vào mũi lão Thổ. Cả mừng, lão chạy mau thêm.
Thình lình nghe có tiếng hùm beo gầm rống đằng trước, lẫn nhiều tiếng sói tru vãi lên trời, vẳng như có tiếng người hét lê thê líu lô không phải tiếng Kinh.
Không chậm trễ, lão Thổ vọt lên phía trước, cách độ bảy tám mươi thước, dãy núi này bị cắt ngang bởi một cái hẻm thắt cổ chày, có con suối chảy qua lối mòn uốn khúc về phía tả.
Và đầu hẻm kia hiện ra một cảnh ác chiến dữ dội.
Một đàn hùm, beo, lợn lòi, gấu ngựa tới hai mươi con, từng bầy một, nối đuôi nhau từ trong rừng sâu chạy ra vừa tới đầu hẻm, thì gặp đàn chó sói. Chừng đây chỉ là khúc đuôi, nhưng cũng hàng năm bảy chục con.
Lập tức đàn thú loạn rừng xông vào táp và cấu xé lẫn nhau cực kỳ khốc liệt.
Lão Thổ vội leo lên một ghềnh đá cao, nấp nhìn, vì không thể vượt qua ngay được. Giữa tiếng thú gầm rống, vẳng có tiếng người hét lê thê, lại nghe có tiếng sói tru nẻo trước.
Chuyện gì xảy ra ở phía trước?
Lão chợt thấy ruột nóng như lửa đốt, tin chắc đây chính là đàn chó sói ban nãy.
Trong khi lão Thổ đuổi theo dấu ác thúc, tình cảnh cô gái áo thanh thiên cùng đứa bé con người đàn bà bị nạn ra sao?
Ngay khi tạm chia tay lão Thổ, cô gái bồng đứa cháu lập tức dắt ngựa lần vào rừng, tìm nơi ẩn nấp. Nàng bỏ đường mòn, len lỏi đi sâu mãi tới chân núi.
Đến nơi, thấy đá dựng chập chồng, nàng vội kiếm một cái hốc, bồng cháu, dắt ngựa vào, trú mưa gió, đợi chờ, vì lúc đó còn mưa.
Hốc sâu hơn thước, trốc đầu có cái ghềnh đá vươn ra như mái hiên, nàng vội buộc ngựa, lách vào, ngồi ôm cháu ủ cho ấm. Đứa bé này thật lạ, tuy trong cảnh khủng khiếp, nó chỉ mếu máo chút, lại thôi, tuy đã lạnh vì mưa gió.
Lòng xót xa thương chị gặp nạn dữ, nhưng gặp lại cháu, cô gái cũng đỡ khổ, cứ ngồi nựng đứa bé cho đỡ sợ. Mấy lần, nàng toan liều bế cháu lần ra đường cái nghe ngóng tin chị nhưng sợ gây vạ cho đứa bé, lại thôi.
Lát sau, bỗng nghe tiếng chó tru vang lừng, lẫn tiếng đười ươi rú, cô gái thất kinh, kéo vội con ngựa nằm rạp xuống, sát tỏ vào mũi, ngồi dòm ra.
Phút sau chợt nghe động rào rào trên cây, nàng ngước dòm lên, giật nảy mình, thấy một con đười ươi to lớn lông lá xồm xoàm cắp một người đàn bà áo trắng, chuyền cành như con vượn!
- Trời! Chị ta! Đúng chị ta kìa!
Chỉ suýt nữa, cô gái áo thanh thiên bật kêu lên thống thiết. Nàng vội cắn chặt răng lại.
Con đười ươi chúa cắp thiếu phụ, đu chuyền cành như khỉ vượn. Nó dừng mấy khắc ngay xế trốc đầu. Thiếu phụ hình như cũng trông thấy cô em dưới hốc, vì nàng bỗng trợn tròn cặp mắt, cố ngoái cổ nhìn xuống. Véo rào! Con quái vật đu vút vào núi mất.
Cô gái ú ớ vừa thò đầu ra chực dòm theo, bỗng nghe tiếng chó sói sơn cẩu tru hộc gần kề, vội rụt đầu vào.
Rào! Một con cẩu quẩy to lớn từ đâu đu chuyền cành, đứng lù lù trên cành cây con đười ươi vừa đứng, xế ngay trốc đầu.
- Trời! Sao hôm nay loạn rừng lắm quái vật thế này? Nguy rồi, chó sói đâu nhiều như rươi...?
Con sói trên cây chính là con sói chúa. Vừa chuyền tới, nó vùng đảo đầu, hểnh mõm, vừa tru vừa hít, một hơi dài, tìm mùi đười ươi, nào dè lại “đánh” thấy hơi người ngựa ở phía dưới xông lên. Nó dòm ngay xuống, thấy cô gái và con ngựa, nó vùng tru lên mấy tiếng.
Từ tàn cây khác, đu véo sang mấy con sơn cẩu lớn. Lẹ như chớo, cả mấy con nhảy tót xuống chân núi, con sói chúa thò tay chực vồ cô gái, con ngựa kinh hoảng chồm dậy hý loạn, mấy con sói đàn nhảy sổ vào vồ con ngựa, lôi ra ngoài.
Đúng lúc đó đàn sói dưới đất từ ngoài tràn vào, xúm lại, táp ngựa con sói chúa xông luôn vào hốc, cô gái thất kinh chĩa súng.
Nó tru lên nhảy chồm vào, túm được cây súng giật ném tung ra ngoài và ôm chầm lấy cô gái áo thanh thiên. Cô gái vung tay đánh, bỗng bủn rủn tứ chi, để rớt luôn đứa bé xuống đất. Con sói chúa bồng luôn cô gái nhảy ra ngoài.
Nàng khủng khiếp kêu hoảng thống thiết:
- Cháu ơi cháu ơi!
Chó sói chúa quét lia nhỡn tuyến, nhận ra khối động đậy dưới đất, vừa khi đó đứa bé khóc lên mấy tiếng, con sói tru một tràng ngắn, một con đầu đàn đi hai chân nhảy vào vồ lấy đứa bé, chạy ra.
Vừa lo cho thân mình, vừa lo cho trẻ thơ, cô gái kêu thảm:
- Trời ơi! Cháu tôi... Đừng ăn thịt...
Nó trao nàng cho một con sói đầu đàn to lớn, và nó nhảy xổ lên núi, đuổi đười ươi cùng hai ba con nữa.
Hai con sói lớn bồng hai cô cháu, tru lên chạy về phía cuối núi, bầy sói đi bốn chân vừa tru hộc, vừa táp tha con ngựa, cuốn theo, y như đàn kiến thợ khiêng một con mồi to vừa bắt được.
Sức người có hạn, qua nhiều giờ loạn rừng khủng khiếp, cô gái áo xanh chỉ kêu lên được mấy tiếng rồi ngất đi.
Mãi đến khi bầy sói kéo tới vùng thung lũng suối, gặp bầy thú loạn rừng chạy ra, nàng mới sực tỉnh vẫn thấy mình bị con sói vác lên vai. Lúc đó, bầy sói chạy phía sau đang ác chiến với hùm beo.
Từ trên đỉnh núi, con sói chúa lạc dấu đười ươi đang phóng xuống.
Bỗng nghe tiếng tru gầm phía sau, bầy sói cùng dừng lại.
Ngay khi đó, từ nẻo trước, chợt hiện ra một bóng nhân mã dị hình. Bóng nhân mã này ohi như gió từ phía hồ Ba Bể tới. Ngựa khoang giống Nước Hai, bờm loà xoà như bờm sư tử cái. Người cỡi là một bà Mán Tiền, mắt sáng quắc, đầu đội cái nón vành như mũ xạ phang, mình khoác một mảnh vải sơn đen rộng, trùm cả mình ngựa. Người ngựa còn ướt, chừng đi từ xa tới.
Tới đầu thung lũng, bỗng bà lão Mán Tiền gò vụt ngựa, ngửa mặt, đón gió hít một hơi dài.
- À, đàng trước có đàn chó sói loạn rừng!
Bà Mán Tiền vọt ngựa lên ngọn gò cạnh đường mòn, đứng sau một cành xoà nhìn xuống.
Chỉ ít khắc bỗng nghe tiếng sói tru vang động, rồi từ trong đường hẻm phóng vụt ra một đàn sơn cẩu, sói to nhỏ hàng trăm con chưa hết.
Khi đàn cẩu quẩy ra khỏi cửa hẻm chừng năm bảy chục thước, bỗng chúng dừng lại, nhất loạt hướng về phía rặng núi đá chạy chếch bên kia hẻm, đối diện xế gò đất.
Bà Mán Tiền dòm xuống bỗng thấy trong đàn sói có năm bảy con đầu đàn đi hai chân sau như người, lại có một con vác một nữ lang trên vai như tên đồ tể vác con heo mới làm lông.
- Ôi chao! Sói ma sói quái dị hai chân, bắt đàn bà con gái! Hừ! Bữa nay loạn rừng súc vật bắt chước như người!
Dưới kia, lũ sói đầu đàn quay ngang quay dọc, tình cờ mặt nữ lang hướng sang phía gò. Nữ lang không ai khác cô gái em thiếu phụ bị nạn chừng xúc động quá, ngất đi, mới tỉnh, nàng vùng vẫy... kêu la, tiếng nghe bi thiết đến não lòng người.
Đứng ngựa bên này gò, bà lão Mán Tiền cổ quái nhìn thấy bóng nữ lang vùng vẫy kêu la, bỗng bà ta nhíu cặp mày liễu dao, mắt thoáng lộ vẻ bất nhẫn, lẩm bẩm:
- Hừ! Cô gái kia còn sống! Coi quần áo chắc du khách người Kinh đi xem cảnh hồ Ba Bể gặp đàn thú loạn rừng “cõng” đi đây! Lạ dữ à! Lũ “quỷ mắt đỏ” kia cứ gặp mồi là táp chửng liền, sao nó lại vác nghễu nghện thế kia?
Đang nhìn, bỗng bà lại nghe bên kia hẻm, trên rặng núi đá, có tiếng tru lê thê...
Lưng chừng núi đá, có mấy bóng cẩu quẩy chạy đu chuyền như loài khỉ vượn, bà ta bất giác trợn mắt kêu nhỏ vỗ đốp đầu ngựa, con vật phóng thốc xuống như mũi tên lao. Vèo cái, đã tới gần đường mòn, ngựa chồm mạnh, đến nỗi chỉ còn cách mấy thước, đàn sói mới có một số trông thấy, tru lên, hơn chục con phóng lại.
Nhưng ngựa phi thần tốc đã ập tới chỗ con sói đầu đàn vác nữ lang. Nghe động, nó quay vụt mình lại, đúng lúc bóng người ngựa nhảy vọt qua đầu lũ sói đầu đàng, vừa lướt đến gần.
Bùng, bùng, liền hai đòn quật ra đánh lũ sói lố nhố quanh đấy, bà lão Mán Tiền phất “véo” tay cái nữa, một luồng thép sáng quắc cong lưỡi liềm xẹt ra nhanh như chớp lia trúng đầu con sói đầu đàn.
Đường thép đi sát qua vai nữ lang mau đến nỗi con sói lớn vừa ngoảnh lại đã bị lia trúng mõm.
Liềm sắc như nước, chỉ nghe nó ré lên một tiếng cụt lủn, cả cái mõm, chỏm đầu đã bị chém toác ngoác sau tiếng “Chát” như chạm sắt đồng.
Con sói lảo đảo buông nữ lang. Bà Mán Tiền theo đà ngựa phi xẹt qua đường mòn, vươn tay chụp ngay lấy lưng áo nạn nhân lôi phăng sang lưng ngựa lẹ như chớp. Con sói to đổ nhào.
Đàn sói nhất loạt tru hộc cả lên, ào ào phóng lại, có năm sáu con đứng đầu, đã xông tới vồ chân con ngựa.
Nhưng bà lão đã hét lớn “chó đú chết” tay bà chém “soạt, soạt” hai đường xả dọc bên ngựa.
Luồng thép nháng cầu vồng, chân, mõm sói bay theo vó ngựa, bà lão Mán Tiền cứ thế chồm vọt đi như gió cuống vào rừng.
Bầy sói ào ạt đuổi theo.
Bà lão ôm nữ lang trong lòng, vung tay ném vãi ra năm sáu trái hoả mù. Bốp, bốp! Đạn nổ, khói tỏa mịt mùng bóng người ngựa lao vào “sa mù nhân tạo” mất dạng.
Đúng khi đó, về phía cuối hẻm, lũ sói đi đoạn hậu gặp bầy thú loạn rừng xông ra, cấu xé nhau dữ dội tiếng tru rống vang động hoàng hôn rừng rú.
Nương khói mù, bà lão Mán Tiền luồn rừng lao vòng về phía cuối đường mòn, bầy sói lại sục phía trước.
Nghe tiếng sói chìm xa hút, bà ta dừng ngựa dưới một tàn cây bên núi. Đặt nữ lang ngồi ngay ngắn, bà ta vỗ đốp vai hỏi:
- Đỡ sợ chưa? Cô em?
Cô gái lúc này trống ngựa vẫn đập thình thịch như trống làng. Nhìn quanh không thấy con sói nào, nàng mới đỡ hoảng ngoái dòm lại, thấy kẻ cứu mình là một bà Mán cổ quái, da mặt nhăn nheo, mắt sáng như tia lửa điện. Nàng vừa mừng vừa sợ, khẽ đáp:
- Thưa cụ cháu đã đỡ!
Lúc đó bà Mán Tiền mới nhìn rõ nét mặt hoa nhường nguyệt thẹn, bất giác đưa tay vuốt nắn khắp mình mẩy cô gái, cười thé:
- Đẹp như tiên! Thịt lẳn, vú đanh, mặt như hoa nở, mụ là đàn bà cũng phải mê mệt! Ôi chao đẹp thế này suýt phải làm vợ chó sói!
Cô gái hơi đỏ mặt, nhìn bà ta không dám nói chi, vẻ sờ sợ hiện rõ khiến bà ta phải ôm chầm lấy bảo:
- Gái đẹp chớ sợ! Chó đú mò phương khác. Mụ thương cô em, nhưng làm sao lại bị chó đú bắt thế?
Cô gái nghe hỏi, run giọng đáp:
- Thưa cụ, chị em cháu đi chơi hồ Ba Bể, bỗng loạn rừng, đười ươi chó sói kéo ra vồ, tuỳ tùng chết hết, chị em mỗi người một ngả. Chị cháu bị đười ươi quái bắt đem di. Cháu may gặp đứa cháu bé đang ẩn nấp trong hốc, thì bị chó sói bắt đem đi, ăn thịt cả ngựa! Còn đứa cháu cũng bị nó tha đi, chẳng hiểu còn sống không, hay đã vào bụng sói?
Nói chưa xong nước mắt đã chảy ròng ròng.
Bà lão Mán Tiền nhìn về nẻo rừng xa, chợt hỏi:
- Đười ươi bắt chị cô em đi hướng nào? Còn đứa bé, ta có thấy sói tha đi đâu?
Cô gái buồn rầu, nghẹn ngào:
- Con đười ươi quái cắp chị cháu, nhảy chuyền cành, vượt qua rặng núi đằng kia!
Con sói chúa đuổi theo tranh đoạt, gặp cháu đang nấp trong hốc đá, nó cho sói đầu đàn vồ cõng đi, đứa nhỏ chắc nó thai đi sau đàn.
Bà lão Mán Tiền nhìn cô gái đăm đăm, nét mặt bà ta vẫn lạnh lùng, nhưng ánh mắt thoáng hiện vẻ thương xót. Bà đưa bàn tay nhăn nheo vuốt tóc nàng, bảo:
- Gái biết võ gì chưa nói đã khóc! Nín đi chứ!
Cô gái gạt lên, thổn thức:
- Cụ ơi! Cảnh ngộ của cháu đến gỗ đá cũng phải khóc! Cả nhà đang đoàn tụ, bỗng phải chia lìa, chị cháu cùng đứa nhỏ đều sa nanh vuốt quái vật, cháu cầm lòng sao được! Xin cụ tha tôi cho!
Bà lão Mán Tiền vụt bảo:
- Để ta đi cứu đứa nhỏ ngay. Chắc lũ chó đó còn đang quanh quẩn đằng kia! Ta phải kiếm chỗ tốt cho cô em đứng đợi, mới được!
Dứt lời, bà ta để nàng ngồi trước mặt phóng ngựa xuống đường mòn, phi ngược về hướng hồ Ba Bể.
Được một quãng, bỗng tới một thung lũng thắt cổ chày, bên kia suối có một cái hẻm, hai bên đá dựng đứng khá rộng. Bên kia hẻm, vẳng có tiếng chó sói tru lê thê, bà lão Mán Tiền dừng lại, cắp cô gái nhảy vọt lên ghềnh đá, chuyền lên cao, đặt nàng ngồi trong một hốc khuất, dặn:
- Cứ nấp nguyên đây, chớ đi đâu, đợi ta về! Đây! Bôi thuốc này vào người, chó sói khỏi đánh hơi!
Bà ta dúi vào trong tay cô gái một lọ thuốc xanh như lá cây, đoạn phóng xuống đường, phi ngựa vào hẻm núi.
Được quãng ngắn, vừa vọt qua con suối, thấy xác beo, cọp, gấu, sói ngổn ngang, bà lão lẩm bẩm:
- Hừ! Thú loạn rừng vừa đánh nhau! Hôm nay chắc chúng no nê rồi nên còn để xác nằm đây! Không khéo nó ăn thịt đứa nhỏ rồi!
Bà ta lao vào hẻm. Sang tới cửa bên kia, đã nghe tiếng sói tru từng tràng, ngựa vượt lên quãng nữa, đã thấy thấp thoáng ẩn hiện xa xa, giữa thung lũng, có nhiều bóng sói lố nhố, bà lão Mán Tiền bèn vọt ngựa xuyên thung vòng lên, ẩn sau bụi rậm quan sát.
Giữa thung, chó sói, sơn cẩu đầy đàn, chạy sục sạo từng bầy, gặp bụi nào cũng đánh hơi, chắc đi tìm bà ta cùng cô gái.
Bà Mán Tiền gò ngựa, đứng ngoài bìa rừng, quét lia nhỡn tuyến dòm vào, điểm từng bầy, chẳng thấy con nào tha đứa nhỏ.
Đang thất vọng, bỗng nghe có tiếng con nít khóc ré lên, bà Mán cả mừng vội dòm về hướng phát âm. Đến mươi khắc mới chợt thấy sau một bụi cây thưa có mấy con sói lớn đứng thấp thoáng, và có một con cẩu quẩy đi hai chân sau, bồng một khối trắng, chắc đứa nhỏ?
Hình như lũ quái vật đang dòm đứa nhỏ, vì chúng châu đầu vào nhau.
Bỗng nghe tiếng hú, lũ thú này lững thững đi về phía bà Mán đứng.
Cả mừng, bà ta cứ đứng im đợi. Thình lình nghe thấy sói tru hộc sau lưng, bà ta ngoái dòm lại, thấy một bầy chừng hai mươi con sói dữ từ rừng bên phóng tới, cách chỉ còn chừng năm mươi thước.
Biết lộ hình tích, bà Mán Tiền vỗ ngựa, phi vụt vào thung lũng.
Ngựa phóng nước đại như tên bắn, sói trông thấy nhất loạt tru inh ỏi, đổ xô lại. Nhưng ngựa đã phóng thẳng đến chỗ có con sói đang bồng đứa con nít.
Chừng hiểu ngay bà ta định cướp lại đứa bé, con quái vật vùng tru rống lên, bỏ chạy về hướng đông đồng loại bốn chân.
Lúc đó, ba bề bốn bên, chó sói lố nhố đang đổ lại như rươi, nhưng con ngựa khoang của bà Mán không chút sợ hãi, cứ sải vó như máy. Bà ta hét:
- Quái vật! Đưa đứa nhỏ đây! Còn chạy đâu?
Rập! Ngựa xẹt chặn đầu con cẩu quẩy bồng đứa nhỏ, cách ba thước bà Mán phất “soạt” tay áo, chém vụt ra một luồng thép con lia ngang cần cổ con sơn cẩu.
Con này nhanh hết sức chụp luôn tránh thoát, nhưng lưỡi liềm vút qua hơn ngang tay, lập tức đảo xẹt lại phát lia một nhát lẹ như chớp, trúng cần cổ, gập ngay xuống như “chém treo ngành”. Cả hình thù đổ xuống “chân” nó buông rời bọc trắng, bà Mán xẹt lại cách độ thước rưỡi, đã vươn tay hất nhẹ một cái.
Kình lực nân vọt khối trắng lên, ngựa xốc tới, bà ta đỡ luôn lấy dính như ngựa.
Thì ra đúng đứa con nít bọc chăn. Nó khóc ré lên. Bà Mán ôm nó vào lòng, vọt ngựa đi như giông.
Nhưng được mười lăm thước, chó sói đã bu tới như rươi chặn lối. Không nao núng, bà Mán Tiền chém “véo” lưỡi liềm theo hình cánh cung bổ xuống khiến bảy tám con ác thú đứt đầu, xẻ tai, lòi ruột ré lên đổ nhào.
Ngựa xốc tới, hý tiếng dữ, nhảy vọt qua đầu chó sói, vừa nhảy vừa đá tung như chày vồ nện, trúng con nào, con đó lăn quay như trái cầu. Chỉ có một con đầu đàn đi hai chân nhảy dạt tránh, thò chân trước tát mặt ngựa, nhưng lại bị lưỡi liềm chém bay bàn chân, ngã lăn lộn, kêu rống như bị chọc tiết.
Bà Mán Tiền ra khỏi vùng ác thú. Chó sói từ các ngã ào ào đuổi theo xồng xộc. Bà Mán cứu được đứa bé, không phí một giây, rạp mình phi về phía cửa hẻm. Nào dè mới được nửa thung, bỗng thấy chó sói kéo tới chặn bít luôn cửa hẻm núi, đông ngót một trăm con, lố nhố nhiều hàng. Bà lão Mán Tiền vừa định phóng về hướng đó, bỗng thấy chó sói, sơn cẩu đầy đàn bít mất cửa hẻm, bà ta đành ngoắt ngựa chạy vòng hướng khác, chực xuyên lâm, tới chỗ cô gái áo xanh đang đợi.
Bỗng nghe trên núi có tiếng cẩu quẩy tru lê thên, nhọn hoắc như dùi chọc lỗ tai.
Bà Mán Tiền này bịt khăn đỏ trên đầu, đội nón lên trên, người sơn cước vẫn gọi sắc Mán Hồng Thầu – Mán Đầu Đỏ, nay nghe cẩu quẩy tru rú, dòm lên núi, thấy một bóng cẩu quẩy đang chạy hai chân xuống như bay, bà ta vùng cười thét:
- Sống lâu biết lắm chuyện lạ đời chó rừng đi hai chân lùng bắt gái đẹp! Chó đú! Kiếm món khác! Tao cứu hai cô cháu nhà này!
Chó sói từng bầy lao hộc tới, bà ta quất ngựa nhảy vọt qua đầu sói. Tuy vậy mới chỉ có một số xồ lại gần, còn những con khác đang toả ra bao vây, nhưng con ngựa khoang hết sức mạnh bạo, cứ vừa chồm vọt vừa đá tiền đá hậu, đem chủ ra khỏi “thung lũng sói” trong nháy mắt, cứ thế phi về hướng Tây. Con sói chúa cũng vừa phóng xuống chân núi, tru vang động hét sói đàn đuổi theo.
Ngựa chạy hay, nhưng vùng này lại nhiều cây cối, chó sói luồn rừng mau hơn, giây phút chỉ còn bảy tám chục thước. Muốn vòng về chỗ cô gái đợi, không tiện lối quanh bà Mán Tiền nghĩ thầm:
“Cố thoát phương khác, nhân tiện nhử cho lù chó đú rời xa khu núi đó, sau sẽ kiếm thế vòng lại, là thượng sách!”
Bà bèn xuyên lâm, vòng ra đường mòn, nhử cho sói dữ đuổi theo, lát sau mới lừa chúng, bắt đi hướng khác.
Chừng nghe tiếng sói tru văng vẳng tít xa, chìm hẳn vào cảnh hoàng hôn rừng, bà Mán Hồng Thầu mới quay ngựa, lần về vùng núi cô gái Kinh đợi. Vượt hết quãng hẻm khá dài sang tới cửa bên kia, thì mặt trời đã chui hẳn xuống rặng núi Tây, cảnh sơn lâm úa đỏ như bồi máu loãng.
Xác thú loạn rừng cấu xét nhau vẫn còn nằm ngổn ngang, nhiều con lõi cổ, xổ ruột gục bên suối nước.
Vọt ngựa qua, phi mau tới khu núi đá bên đường. Bà Mán Hồng Thầu gò cương gọi lớn:
- Cô em người Kinh đâu? Mụ cứu được con nít rồi đây! Hú... ú... ú?
Tiếng bà ta hắt vào vách đá, vọng hồi, dội lại, như ma quái.
Không có tiếng đáp. Lạ lùng, bà ta gọi to hơn, lần này bằng tiếng Kinh khá sõi.
- Gái “kẻ chợ” đâu? Làm gì trên đó, không lên tiếng? Cứu được con nít rồi đây!
Vẫn chỉ có tiếng vọng âm ngân chuyển đáp lại.
Hơi chột lòng, bà Mán Hồng Thầu nhảy xuống ngưa, bồng đứa bé gái, chuyền ghềnh đá, vọt lên hốc đá ngọn phiến dựng thành gọi giật:
- Cô em còn đấy không?
Im lìm! Bỗng bà ta hơi giật mình, thấy hai cái xác sơn cẩu khá lớn nằm gục ngay chân phiến đá, bụng thủng banh xổ cả ruột gan, máu me tím xỉn từng vũng!
Đoán có chuyện chẳng lành mới xảy ra, bà Mán Hồng Thầu nhảy vọt lên ngọn phiến đá dòm vào hốc.
Vừa ngó, bà ta hơi giật mình, rút soạt lưỡi liềm ra. Vì trong hốc còn một con đười ươi to lớn, cao độ thước bốn đứng sừng sững, tựa vách, trợn trừng mắt trố dòm ra.
Vung liềm, bà Mán Hồng Thầu quát lớn:
- Quái vật! Mày vừa ăn thịt con gái Kinh?
Nó cứ đứng như cái xác nhồi trấu. Bà Mán thả liềm “phập” cổ họng đười ươi. Hình thù nó lắc lư chực đổ. Không một tia máu đỏ phọt ra.
Mãi lúc đó, bà ta mới chợt nhận ra nó chỉ là cái xác không hồn!
Tự nhiên đứa bé khóc ré lên. Bà Mán Hồng Thầu ôm nó vừa ru, vừa dỗ:
- Nín đi! Nín đi! Con nít gan, sao lại khóc thét? Con nít sợ đười ươi?
Đứa nhỏ nói bập bẹ, khó nghe. Bà Mán dòm mắt nó, ngầm hiểu quả nó thấy hình con quái bắt mẹ nó, nên xúc động. Và theo tia mắt nó nhìn, bà lão thấy một mảnh áo xanh nằm dưới chân đười ươi như con bướm đậu!
- Ôi chao! Con nít này minh mẫn lạ thường, mảnh áo kia đúng bị quái vật móc rách! Chắc chó sói đười ươi tranh nhau, nhưng giống gì bắt cô gái đem đi?
Bà Mán Hồng Thầu lật đật buộc đứa nhỏ gái trước bụng làm “địu”, và rời hốc đá, phóng quanh núi, tìm cô gái. Nhưng sục kiếm khắp vùng chẳng thấy đâu, chỉ nghe gà rừng eo óc gáy buồn tênh.
Hình như đứa con nít linh cảm thấy cảnh bơ vơ côi cút giữa rừng già không thân thích, chợt oà lên khóc.
Bà lão cho ngựa đi bước một, xoa đầu đứa nhỏ, dỗ dành, lòng thương xót bảo:
- Con nít! Con nít! Đừng khóc nữa, tao nghe đứt ruột! Quái vật nó bắt mất mẹ con, dì con, tàn sát hết gia nhân, nhà con mấy người chịu khổ, con nín đi, không sợ, từ nay ở với tao, tao nuôi nấng, truyền cho võ nghệ kỳ môn dị pháp lớn lên giết loài quái vật, cứu mẹ cứu dì! Chịu không? Coi mặt tao dữ tợn, sợ không? Con nít!
Lạ thay! Đứa nhỏ bơ vơ như nghe hiểu lời bà Mán Hồng Thầu, lập tức nó nín ngay, lại cười ngây thơ, nhưng hai con mắt đen láy vẫn đầy nước mắt.
Bà Mán dòm nó, lòng bùi ngùi cảm động, kéo mép chăn lau mắt cho nó, và tự nhiên hai con mắt long sòng sọc của bà lão cổ quái cũng đỏ hoe, tuy miệng vẫn cười thét:
- Con nít ngoan! Không sợ tao! Tao thương con nít! Tao truyền hết võ nghệ! Không sợ, má tao đây!
Bà bồng nó lên, chìa má. Hai bàn tay vụng dại ôm lấy đầu bà ta, áp miệng vào, cái miệng còn thơm mùi sữa mẹ. Bà ta thích chí hôn lia lịa.
Bỗng “soạt”! Bà già sơn cước vạch luôn ngực kề miệng nó, cười ré:
- Vú da! Bú tạm vú da, về nhà, kiếm vú sữa. Há há!
Tiếng cười vãi theo vó ngựa, nghe rung như nghẹn nức tang thương. Từng bước lắc lư, bóng ngựa khoang đi trong ánh nắng hoàng hôn đỏ khé, mang trên lưng một già một con nít, đi về nẻo cuối rừng nhoà dần tận miền sơn thuỷ xa xôi nào.
Còn người thiếu nữ bất hạnh kia, ngay sau lúc bà Mán Hồng Thầu vọt ngựa đi cứu đứa nhỏ, nàng vội mở lọ thuốc ra, bôi khắp người.
Thuốc có mùi hệt rêu mốc, đất ẩm.
Bôi xong, nàng đứng trong hốc, hồi hộp nhìn xuống chân núi, có đường mòn chạy qua hẻm, đầu hẻm vẫn vẳng tiếng ác thú tru rống lê thê nghe ghê rợn muốn nổi da gà.
Trong khi đó, cách cô gái chỉ độ sáu bảy chục thước, ngay gần hẻm núi, lão Thổ râu đốm vẫn nấp sau ghềnh đá khuất, theo dõi cuộc ác chiến giữa đàn thú loạn rừng.
Hùm beo vốn khoẻ hơn sói, nhưng sói đầu đàn lại có sức mạnh hung tợn, không giống nào địch thổi!
Chỉ trong giây phút, hùm beo, gấu ngựa, lợn lòi đã hạ khá nhiều chó sói, nhưng sói đàn càng lúc càng bu lại quá đông, hùm beo phải vừa đánh vừa bỏ chạy.
Giống sói lại có thứ võ khí vô cùng lợi hại, là nước đái, có khi một con sói hạ nổi hai ba con lợn lòi bằng cách nhảy lên cao, đái tia vào mắt lơn, xót muốn nổ con ngươi, và cứ thế sói nhảy xuống lưng lợn, cắn đít, rút ruột vọt lên cây. Người sơn cước vẫn gọi chó sói như có khẩu “súng bắn nước độc”, người và vật đều phải sợ!
Đã có mấy con mãnh thú bị sói đái trúng mắt, gầm rống, lồng lộn như điên.
Thật trớ trêu mãnh thú chạy tứ tán, nhiều con vọt lên sườn núi, nhất là mấy con beo, vô tình lại chạy lên chỗ lão Thổ nấp; làm lão phải rời chỗ, rút dần về phía sau.
Đàn sói, sơn cẩu thừa thắng ào ào đuổi theo, cứ thế cuộc chiến diễn ra theo bước chân mình thú, rải rác khắp dưới thung, trên sườn núi.
Lão Thổ cứ phải men ghềnh khuất lùi dạt mãi, tới gần chỗ cô gái áo xanh nấp lúc nào, không hay.
Nhưng tới khu này, thì mãnh thú có ít con đã kịp vọt chạy mất, chó sói sơn cẩu lũ lượt quay lại khu cửa hẻm để đi theo đàn. Tuy vậy, vẫn có hai con đầu đàn hung tợn rượt theo hai con beo, lao vụt qua chỗ lão Thổ nấp.
Không may hai con beo lại nhảy lên nóc hốc đá cô gái ẩn. Hai con sói tạt theo. Beo lại nhảy xuống chân phiến đá, sói nhảy theo. Cô gái thấy bóng ác thú, tưởng nó tới vồ mình buột kêu lên một tiếng.
Tiếng kêu không to, nhưng đủ để hai con sói đầu đàn nghe rõ và lão Thổ nấp gần đấy bỗng giật mình đưa mắt dòm quanh lẩm bẩm:
- Quái! Rõ tiếng đàn bà kêu hay chó sói mới tha nàng đến đây?
Lập tức, lão rời chỗ nấp, rón rén lần từng bước tìm kiếm. Ngay khi đó cách quãng ngắn, hai con sói đầu đàng đứng dưới hốc, vùng hếch mõm đánh hơi. Nhưng hơi người cô gái đã được thuốc Mán Hồng Thầu át đi, hai con sói cùng tru hộc, nhảy vọt lên ngọn đá, tình cờ, đúng ngay cửa hốc.
Hai con ác thú dòm vào, thấy cô gái tơ, cả hai cùng tru lên, nhảy xổ vào.
Nào ngờ ngay khi đó, bỗng rào rào cành lá, một cái đầu to tướng thò ra ngay nóc hốc, lại đúng lúc cô gái Kinh kêu ré lên. Rào tiếng mạnh, cả hình thù vọt nhảy xuống, đứng xế ngay cửa hốc, thò ta vồ hai con sói. Thì ra là con đười ươi!
Sói hung tợn, đười ươi còn hung hơn, vừa nhảy xuống, đã vồ được một con, móc lòi luôn cổ họng. Con kia chồm tới, bị đười ươi quật cả con sói trước vào ngã lộn xuống chân phiến đá.
Con đười ươi này hung hăng lạ thường. Nó nhảy chồm theo, vồ lấy con sói, hai con vật lộn, chỉ mười giây, con sói đã bị móc lòi bụng xổ cả ruột gan ra một đống.
Trên hốc, cô gái thấy mấy con quái nhảy xuống, lập tức rón rén lần ra, chực kiếm kế thoát, không ngờ con đười ươi hạ hai con sói nhanh như chớp, và vọt lên, nhe răng cười, làm nàng thất kinh, túng thế, phải lùi vào hốc. Vớ được hòn đá bằng viên gạch cô gái quật mạnh vào ngực đười ươi! Không ngờ con quái khoẻ như voi, đá nện trúng ngực nó vẫn nhe răng cười, xông luôn vào vồ.
Cô gái cũng biết võ, nhưng xem chừng sức đã quá suy kiệt sau nhiều giờ vất vả kinh tâm, mới đấm trúng một quyền, đã bị nó nắm lấy tay, kéo vào lòng.
Hoảng hốt, nàng ré lên:
- Con quái! Buông tao ra!
Tiếng ai kêu vọng đến tai lão Thổ lúc đó vừa lò mò tới sau hốc đang lấp ló ẩn sau mỏm đá. Nghe tiếng kêu, lão vùng hỏi lớn:
- Ai kêu đó?
- Tôi... cứu tôi! Con đười ươi!
Nghe hai tiếng “đười ươi”, lão Thổ giật mình, nghĩ ngay đến con đười ươi chúa hồi nãy, nhưng cũng nhảy vọt ra trước hốc. Nhìn vào, thấy cô gái Kinh, hồi nãy đang bị con đười ươi to lớn nắm khư khư, lão vừa mừng, vừa lo, rút soạt ra một lưỡi dao găm sắc như nước, nhảy vụt luôn vào đâm con đười ươi.
Con quái này thính tai lạ thường lập tức ngoái cổ lại, thấy người, kéo phăng cô gái xẹt tránh sang bên.
Chưa kịp đâm, lão Thổ dừng phắt lại, thủ thế, dòm con quái, lòng đỡ ngại, khi nhận ra không phải con đười ươi chúa.
Đã vồ được gái tơ, bị phá, con quái nổi hung, gầm gừ xông tới vồ.
Nhưng như cắt, lão Thổ xoay nghiêng người vung tay trái gạt tay quái, tay dao đâm thốc một nhát tận lực bình sinh trúng ngực trái con quái. Phập một tiếng giòn sệt như chạm cả xương, mũi dao đâm trúng tim con đười ươi, ngập lút cán.
Con quái giật bắn mình, kêu rống lên, bủn rủn tứ chi, còn hăng máu, quơ tay chực vồ. Nhưng lão Thổ đã lẹ như chớp co chân trái đạp tung ra một ngọn cước trúng hạ bộ con đười ươi, tay rút phăng dao. Con quái bắn luôn lại giáng “huỵch” lưng vào vách đá, mắt trợn ngược, máu phun phì phì như vòi rồng.
Nó lắc lư giơ tay lên, thở hồng hộc chực phóng ra, lão Thổ nhảy sang bên tránh vòi máu, chực xẹt vào đâm nữa.
Nhưng con đười ươi đã thở phì ú ớ, tắt thở, hai mắt vẫn trợn trừng, chết nhăn răng, đứng sừng sững.
Lão Thổ bước lại lau dao găm vào lông con đười ươi, bảo cô gái:
- Quái vật chết rồi! Đàn sói còn quanh quẩn đầu hẻm, ta nên kịp rời khỏi chỗ này!
Cô gái ngó đười ươi chết, lòng mừng rỡ thở phào, nhưng lại mở to mắt dòm lão Thổ, lộ vẻ ngơ ngác, e dè hỏi:
- Cám ơn ông đã giết quái vật cứu mạng gái khốn đốn này! Xin ông làm ơn cho biết quý danh? Ông mới qua vùng này?
Nghe giọng, nhìn nét mặt đầy bỡ ngỡ, lão Thổ không khỏi sửng sốt kêu:
- Kìa cô không nhận ra lão sao? Lão trao đứa nhỏ cho cô hồi nãy, cô đã quên ư?
Cùng lộ vẻ ngạc nhiên, cô gái lắc đầu:
- Không! Tôi đâu có quên? Nhưng... ông cụ Thổ có râu đốm, đâu phải ông?
Cười lớn, lão Thổ đáp:
- Thì lão Thổ đốm râu, xách “ô súng” đây, còn ai nữa? Nhưng súng ô mất rồi...
Cô gái nhíu mày liễu dao nhìn đăm đăm, kinh ngạc kêu:
- Ông là cụ Thổ hồi nãy? Sao có chuyện quái gở thế? Cụ Thổ tuổi ngót lục tuần có râu, còn ông...ông còn trẻ, làm gì có râu? Ông là ai?
Giật mình, lão Thổ sờ lên cằm.
Mãi lúc đó mới hay vì bị đười ươi chúa ném xuống suối, cả bộ râu đã trôi theo dòng lũ xiết, còn đâu!
- Ồ!
Mặt thoáng đỏ, lão Thổ bỗng lộ vẻ lúng túng, nhìn cô gái, lắp bắp:
- Tôi... tôi mất bộ râu... trông không giống hồi nãy sao?
Thoáng mấy giây ngạc nhiên, cô gái sực hiểu, quên cả cảnh nguy đe doạ, buột miệng phì cười, thỏ thẻ:
- Trời! Tôi hiểu rồi! Thì ra ông hoá trang giả làm cụ Thổ, râu ông bị nước cuốn đi!
Nàng lần trong túi, lấy ra một cái gương tròn chỉ lớn hơn đồng bạc “xòe” chút, đưa cho “ông lão”. Ông ta cầm soi mặt, bỗng thêm đỏ mặt, khi nhận ra bộ mặt lão Thổ đã biến dạng, râu ria, các chất hoá trang đã bị nước suối lũ, nước mưa quét sạch, giờ đã lộ ra một bộ mặt trai trẻ, chưa tới ba mươi, mi thanh mục tú, khôi ngô lạ thường. Và không phải mặt người Thổ, mà là mặt trai Kinh, cằm nhẵn thín.
- Ôi chao! Thế này mà tôi không hay, vẫn tưởng còn mặt lão Thổ! Xin lỗi cô, tôi thật vô ý!
Cô gái vui vẻ:
- Có hề chi đâu! Ta cùng người Kinh, càng dễ thân nhau chứ sao! Nhưng trông ông ngơ ngác coi buồn cười quá!
Hai người ngó nhau, cùng cười. Chàng tuổi trẻ chợt hỏi:
- À, con cháu nhỏ đâu?
Nghe hỏi, nàng mới chợt nhớ lại tình cảnh xót xa, mặt hoa tối hẳn, rơm rớm nước mắt đáp:
- Tôi cùng cháu bé bị chó sói tha đi, may gặp bà cụ Mán cứu tôi thoát vuốt sói, còn cháu vẫn bị nó đem về nẻo cuối rừng... Bà cụ đi tìm cháu, bảo tôi đứng đây!
Mừng rỡ, chàng trai hỏi:
- Cứu người giữa đàn sói dữ, chắc bản lĩnh bà Mán phải cao lắm?
Cô gái gật đầu:
- Vâng! Bà cụ giỏi võ lạ thường, con ngựa phi nhanh như gió. Tôi bị con sói đầu đàn vác vai, nghe tiếng sói tru, ngựa chạy, vừa ngoảnh nhìn ra, đã thấy con sói bay nửa đầu, bà nắm tôi kéo sang lưng ngựa, phóng như tên bắn! Bà cụ bịt khăn đỏ, đội nón xòe, mắt sáng coi rất dữ!
Chàng trai gật gù, bảo:
- Nếu vậy ta cứ đứng đây đợi bà! Chắc bà thuộc sắt Mán Hồng Thầu, kỳ nhân dị khách chi đó! Nếu bà cứu được cháu nhỏ, trong sẽ cầu bà cứu bà chị cô!
Cô gái nghe nói, bỗng thấy hy vọng, mặt hoa đỡ vẻ thê lương, bèn kéo vạt áo lau nước mắt.
Chàng trai cũng đưa tay xoa sạch các vết hoá trang, đoạn bước ra cửa hốc, thò đầu, dòm xuống thung lũng.
Bất thần “rào” cành lá, xế phía dưới có hai bàn tay lông lá thò ra, đè “rắc” cành cây, rồi từ trong bụi bước ra một con đười ươi to lớn, xoay mình, giương mắt ốc nhồi thao láo dòm tứ phía.
“Rào” cái nữa, lại một con đười ươi thứ hai nhảy ra. Bỗng hai con quái cùng hú lên mấy tiếng vang động sơn lâm, nổi hung bẻ nghiến cành cây, một con ôm cả một tảng đá lớn quăng rầm xuống núi.
Cô gái nghe hú thất kinh, vội bước ra, nấp sau lưng chàng trai, dòm xuống run giọng:
- Chắc nó đi tìm con trong hốc này?
- Suỵt! Nó đứng cuối gió, có thể đánh thấy hơi người.
Cô gái sực nhớ ra, thì thào:
- Bà Mán Hồng Thầu có cho tôi lọ thuốc trừ hơi người, đây còn gần nửa!
- À hay lắm! Nếu vậy ta cũng đỡ ngại.
Chàng trai lấy thuốc bôi khắp người.
Thình lình, phía cửa hẻm vụt nổi lên tiếng sói tru vãi lên không. Rồi một đàn sơn cẩu to lớn từ phía hẻm phóng ào ào ra, lao thẳng về hướng hai con đười ươi đang nổi hung đập phá.
Nhìn con sói chồm chếch lên núi, có lẽ chúng đã nghe tiếng hai con đầu đàn vừa rồi tru hộc trước khi bị giết.
Chàng trai giật mình, quay bảo cô gái:
- Đứng đây nguy lắm, ta phải tránh cho xa! Đười ươi bí thế, thế nào cũng chạy ngược lên núi.
Cô gái bối rối, lắp bắp:
- Nhưng còn bà cụ Mán...?
- Ta cứ tránh đi, lát quay lại.
Dứt lời, chàng dắt cô gái chạy vụt ra, nhảy xuống chân phiến đá dựng, cứ thế len lỏi, chạy chếch xuống thung lũng.
May sườn núi này ghềnh đá nhấp nhô, tuy cheo leo nhưng kẹt đá có nhiều cây cỏ lau sậy, vừa chạy vừa ẩn tránh rất tiện.
Đằng kia, hai con đười ươi thấy chó sói ra đầy đàn, xông lên, cũng nổi hung, phóng thốc xuống ôm tảng đá đập nát đầu luôn mấy con sói. Nhưng sói quá đông, xúm lại như rươi, đười ươi bị cắn, cào lòi thịt phải bỏ chạy.
Không may cho hai người, lúc đó lại có một bờ đá chồm lên cao, đánh xuống nên hai con đười ươi phải chạy chếch xuống thung. Đàn sói ào ào đuổi theo, nhanh như gió, cô gái lúc này lại quá đuối sức, chạy không kịp, chàng trai phải cầm tay dắt chạy.
Ngoái dòm lại, thấy lũ quái vật đuổi nhau về hướng mình, chàng trai không khỏi kinh tâm, bảo:
- Nguy cấp lắm rồi! Phải thoát mau khỏi vùng này mới được! Cô không gắng thêm được sao?
Cô gái thở hộc:
- Tôi mệt lắm... Muốn đứt ruột mất thôi! Ông cứ chạy đi, tôi đành tìm chỗ nấp!
Chàng trai lắc đầu.
- Cô đừng nghĩ quẩn! Tình thế gấp lắm, hay để tôi cõng tạm cô chạy cho mau! Tôi còn sức.
Cô gái thoáng đỏ mặt, thẹn thùng lúng túng. Nào ngờ vì mãi nói với nhau, hai người đã vọt ra chỗ trống gần chân núi, đằng kia có mấy con chó sói trên cao chợt nhác thấy bóng người, vùng tru hộc lên, đàn sói ào ào phóng tới.
Hai con đười ươi thấy bóng đàn bà, cũng tru lên, chạy đuổi theo.
- Lộ rồi! Lũ quái đã thấy ta! Cô mau bám chặt cổ, tôi mang khỏi vùng này!
Túng thế, cô gái cuống quýt chẳng biết làm sao ngượng nghịu bá lấy cổ chàng trai lạ.
Không còn đủ thì giờ để ý tới khối thân thon lẳn nằm trên lưng, nét nhũ kỷ hà đang dán chặt theo nhịp chạy, chàng trai lập tức dùng thuật khinh công lướt trên các mỏm đá, lao chếch xuống thung lũng!
Đười ươi, chó sói đuổi theo tru hú vang động sơn lâm.
Lúc đó mặt trời đã lặn, rừng già nhuộm ánh hoàng hôn, đỏ khé như máu loãng, giờ đã ngả sang màu tím sẫm. Gió bỗng như im hặn cây rừng dáng núi rũ bóng coi như các hình quái tượng hoàng hôn.
Chàng trai chạy hết cánh rừng nọ qua cánh rừng kia, lũ quái vật không chịu bỏ.
Khoảng mười phút sau, vẫn nghe tiếng sói tru, đười ươi hú phía sau, cô gái nghĩ tới lời dặn của bà Mán vội ghé tai chàng trai bảo:
- Ông à! Làm cách nào lộn lại hốc đá hồi nãy được?
Chàng trai gật đầu, nhưng lối mònh quanh co hai bên toàn bờ bụi, không tiện thể vòng lại.
Sương chiều dâng một lúc thêm dày, may sao ngay khi đó, bỗng phía sau, lại có một đàn thú dữ trong rừng đâm xổ ra, cản mất lối gây nên một trận ác chiến.
Thừa cơ, chàng trai liền cõng cô gái nhảy vọt vào bên đường, cách mười lăm thước bíu luôn dây leo, đu vọt người lên, chuyền tít lên ngọn, ngồi trên một tàn lá rậm.
Ẩn vừa xong, thì hai con đười ươi chạy tới. Chúng chạy chậm lại mấy giây, rồi lại cắm cổ phóng thẳng.
Ít giây sau, lại đến đàn sói, lắm con còn tha cả nửa mình con lợn lòi, máu me bê bết.
Hai người nín thở, vạch lá dòm xuống. May sao, đàn sói cũng phóng thẳng.
Tiếng tru hú vang chuyền xa hút, rồi tắt hẳn.
Rừng già rơi vào quạnh quẽ thăm thẳm.
Mười phút sau, vẫn không thấy ác thú trở lại. Cô gái ngồi sau lưng chàng trai, thì thào:
- Nó đi thẳng! Không biết có quay về lối này không?
Hơi thở nàng phả vào má chàng, thơm thơm. Mãi khắc đó, chàng trai mới để ý thấy mùi lan xạ vẫn phảng phất bên mình. Không quay lại, chàng trai đáp:
- Giống sói, đười ươi xuyên rừng, lướt bãi rất tài! May ra chúng vòng ngả khác.
Núi rừng chuyển từ màu sẫm sang màu xám, dạ thần đang bôi lọ sơn lâm, nhưng trên trời trăng thượng tuần treo lơ lửng trên đỉnh núi như chiếc lưỡi hái tử thần.
Bỗng cô gái hốt hoảng:
- Trời sắp tối rồi! Ông cho em trở lại hốc đá, xem bà Mán đã về chưa.
Chàng trai ngoảnh mặt lại. Vô tình lại mặt kề nhau, bốn mắt nhìn nhau sâu thăm thẳm, chàng trai giục.
- Giờ xuống được rồi! Ta quay lại chỗ đó! Cô để tôi cõng, đi cho mau!
Hai cánh tay ngà choàng cổ, chàng trai xốc nàng lên lưng, chuyền cành nhảy xuống, và cắm cổ chạy về nẻo cũ.
Tới nơi, trời đã tối hẳn, trăng liềm vàng úa, bốn bề im lìm.
Trong hốc vẫn chỉ thấy xác con đười ươi chết đứng lù lù, nhe răng trắng nhởn.
Cô gái vùng cất tiếng gọi, chỉ có tiếng nàng vọng đáp lại như ma nhái.
Cô gái ôm mặt khóc nức nở. Tiếng nàng khóc dưới trăng liềm, nghe ai oán, thê lương.
- Bà Mán không trở lại... Cháu tôi vào bụng sói, chị tôi bị đười ươi bắt đem đi, gia nhân chết hết, tôi nay thân gái bơ vơ giữa rừng, cũng sống làm chi!
Chàng trai dịu dàng bảo:
- Có thể bà cụ Mán đã cứu được đứa bé, trở lại lúc ta chạy lũ quái vật đuổi sau, cô nên gắng... can đảm, chịu đựng, sau này còn tìm kiếm, báo thù!
Nàng nghẹn ngào nức nở:
- Mới hồi chiều còn đủ mặt người thân giờ hai mẹ con chị ấy bị nạn, tôi còn ai đâu.
Dứt lời, như điên cuồng, nàng vùng mạnh, lao đầu xuống núi. Nhưng chàng trai nắm được cổ tay giữ lại, bảo:
- Người thân bị nạn, còn sống, sao cô đã vội huỷ mình! Cô không bơ vơ giữa rừng, còn có tôi...! Tôi xin dốc lòng giúp cô thoát cảnh khốn đốn này!
Nàng ngó chàng, rồi như quá sợ bơ vơ cô độc, bỗng nàng ôm chầm lấy chàng trai gục vào ngựa, khóc nức nở “ông ơi”.
Chàng trai vỗ nhẹ lưng nàng như dỗ đứa trẻ thơ:
- Cô đừng quá bi luỵ! Trời tối, rừng hoang, ác thú loạn rừng sâu, kiếm nơi nghỉ, rồi mới tính chuyện khác được! Giờ cô muốn về đâu, tôi đưa đi?
Cô gái ngửa mặt lên, rung giọng:
- Cao Bằng xa lắm! Giờ nếu có thể về được chợ Rã thì hay... Nhưng đêm tối, sao đi được?
- Không sao! Nếu ta gặp bản ta tạm trú qua đêm! Thôi! Giờ phải rời khỏi vùng rừng núi ghê gớm này! Để tôi dìu cô!
- Ông... vất vả vì em quá! Ơn này biết lấy gì đền đáp?
Hai người đem nhau xuống thung lũng. Cảnh loạn rừng quái gở đã qua như cơn ác mộng.
Giờ thì miền sơn lâm Pi A Uác im lìm như trong quan tài. Trăng liềm, núi in bóng sừng sững lên vòm trời, cây in bóng vào trăng úa sương đêm lê thê, chỉ có tiếng côn trùng rên rỉ triền miên, đơn điệu mang mang. Và thỉnh thoảng có tiếng hoẵng kêu “hoăng hoăng” ngơ ngác lạc loài...
Một trai giang hồ, một gái đài trang bị nạn, đi bên nhau như hai bóng oan hồn từ đời khuyết sử hiện về, đi giữa cánh rừng hồng hoang.
Dáng liễu thất thểu xiêu xiêu đổ vào dáng tùng quân xơ xác sau trận loạn rừng khủng khiếp đi dưới trăng liềm về phương Bắc mờ sương...