Nguyên Tắc Sinh Hoạt trong Một Tổ Chức Hội Đoàn
Khải Chính Phạm Kim Thư
Ở đâu cũng vậy, tổ chức nào cũng có những điều không được như ý. Các người điều hành đều nhận thấy những khuyết điểm này nhưng thường lúng túng không biết cách để cải tiến sự việc cho tốt đẹp hơn. Muốn việc điều hành một tổ chức hội đoàn cho được chu đáo, những vị nắm chức vụ điều hành, nhất là vị chủ tịch hay hội trưởng, cần phải để ý đến những điểm sau:
I. Nguyên Tắc Chung:
Mỗi tổ chức hội đoàn phải có những nguyên tắc làm việc chung. Sau đây là những nguyên tắc chính dành cho các hội viên: Đặt quyền lợi và danh dự của Tổ Quốc Việt Nam Tự Do lên trên tất cả; trung tín với đường lối chung và trung tín với hội viên chân chính của tổ chức của mình; kiên trì, nhẫn nại, và quyết tâm để theo đuổi đường lối của tổ chức đã đề ra; giữ bí mật trong mọi công tác và sinh hoạt của tổ chức; phải đa mưu túc trí, sáng tạo, mẫn tiệp, và phản ứng mau lẹ để giúp cho tổ chức mình thành công; can đảm trong khi làm việc và khi thấy điều phải ta phải làm cho bằng được; can đảm tiến hành công tác và thẳng tay tố cáo những kẻ vô liêm sỉ phản bội lại tổ chức và đồng bào; hợp tác với ban điều hành để loại trừ những kẻ vô liêm sỉ phản bội tổ chức và đồng bào ra khỏi tổ chức để tránh hậu hoạn (cái nguy hiểm về sau) cho cộng đồng đất nước; và bằng đủ mọi cách phải hoàn thành trách nhiệm đã được giao phó một cách mỹ mãn.
II. Các Điều Phải Theo Để Hoàn Thành Công Tác:
Muốn làm việc thành công, ta phải thực hiện các điều sau:
* Phải hiểu biết tường tận về công việc mà tổ chức mình theo đuổi.
* Hết sức chuyên cần để hoàn tất công việc được giao phó; phải thận trọng về đủ mọi mặt để tiên đoán, phòng ngừa, và dự trù biện pháp đối phó với mọi bất trắc.
* Làm việc theo tinh thần khoa học như hoạch định chương trình cùng kế hoạch thực hiện từng giai đoạn cho thật chu đáo.
* Chân thành cộng tác với nhau trong lúc làm việc vì nếu không chân thành mà có manh tâm trong lúc cộng tác với tha nhân, ta chắc chắn sẽ bị lộ tẩy để đi đến chỗ thân bại danh liệt vì người xưa đã nói: “Giấu đầu hở (lòi) đuôi” hay “Chiếc kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra.”
* Làm việc theo tinh thần dân chủ khoa học và tương kính, mọi ý kiến phải được tôn trọng và ghi nhận để đưa ra thảo luận và lấy biểu quyết chung, và vị chủ tịch một tổ chức hay vị chủ tọa một phiên họp chỉ có thể dựa vào ý kiến chung để làm việc chứ không được phép tự mình quyết đoán một việc gì.
* Trong phạm vi nhỏ của một ban chấp hành gồm từ 5 vị trở xuống, nếu có thể, nên áp dụng phương pháp “đồng thuận” trong khi làm việc thay vì đa số thắng thiểu số, lý do đơn giản là vị chủ tịch hay hội trưởng một tổ chức khi ra ứng cử đã mời những người này để cùng nhau đồng tâm hiệp lực ra gánh vác công việc chung. Nếu đã cùng nhóm với nhau mà không đồng thuận được thì sao gọi là đồng tâm hiệp lực! Nếu vì lý do bất khả kháng không thể “đồng thuận” được thì ta đành phải chấp nhận việc đa số thắng thiểu số, nhưng đây chỉ là hạ sách (kế hoạch thấp kém). Bất cứ sự quyết đoán đơn phương nào của vị hội trưởng hay vị chủ tịch của một tổ chức mà không tham khảo ý kiến các thành viên ban chấp hành thì đều không thể chấp nhận được dù việc này có lợi đi chăng nữa vì làm như thế, ta sẽ phá hoại tình đoàn kết tập thể.
* Phải minh bạch và cập nhật hóa bản báo cáo ngân sách chi thu trong mỗi phiên họp định kỳ. Mọi thành viên trong ban chấp hành và thành viên của hội đồng quản trị phải nhận được tờ báo cáo này để theo dõi. Trong trường hợp có cuộc gây quỹ để tổ chức việc gì, ta phải công bố chi tiết về danh sách những người đóng góp lên báo chí cộng đồng, bản tin nội bộ, và cuối cùng phải niêm yết một bản tại văn phòng của trụ sở hội đoàn. Thêm vào đó, chúng ta phải viết thư cám ơn và giấy biên nhận gửi cho tất cả những ai đã đóng góp tiền của và công sức cho việc tổ chức này. Nếu không làm được như vậy, lòng nghi ngờ lẫn nhau giữa hội viên với ban chấp hành và hội đồng quản trị sẽ càng ngày càng lớn và làm phương hại đến tình đoàn kết của tổ chức. Ngoài ra, có thể vì việc làm mờ ám này mà đồng bào sẽ không giúp chúng ta trong những lần quyên góp tiền và vật dụng sau này.
* Sau khi hoàn thành công tác, ta phải rút ưu khuyết điểm để lấy đó làm kinh nghiệm cho những việc sắp tới. Những ai có khuyết điểm hay là ban tổ chức có khuyết điểm thì phải vui vẻ và can đảm nhận khuyết điểm để tỏ ra người chân chính và để cải tiến thì mọi sinh hoạt sắp tới của hội đoàn mới thành công mỹ mãn.
III. Nuôi Dưỡng Tinh Thần Liên Đới (mỗi người đều chịu chung trách nhiệm) và Hòa Ái (yếu thương hòa thuận)với Cộng Sự Viên
Tinh thần liên đới và hòa ái trong khi làm việc cần phải phát triển và nuôi dưỡng. Sau đây là 4 phương pháp để ta phát triển và nuôi dưỡng tinh thần liên đới và hòa ái:
* Giúp đỡ nhau về tinh thần cũng như thể chất bằng khả năng khả dĩ của mình.
* Dùng lời nói thân thương để tạo sự chân thành hòa ái và hợp tình hợp lý trong mọi sinh hoạt tập thể.
* Thực hiện những hành động có lợi ích cho cộng sự viên và tha nhân.
* Nuôi tinh thần hợp tác thắm thiết với cộng sự viên để phục vụ ích lợi chung của tập thể.
IV. Nuôi Sự Hòa Thuận Trong Mọi Môi Trường Sinh Hoạt với Cộng Sự Viên:
Sự hòa thuận trong các sinh hoạt hội đoàn rất là cần thiết để đi đến thành công. Sau đây là 6 phương pháp để tạo sự hòa thuận trong mọi sinh hoạt hội đoàn:
* Thương yêu đùm bọc nhau để tạo sự hài hòa kính nhường trong tập thể.
* Luôn luôn dùng lời nói khiêm cung (nhún nhường, kính trọng) và hòa ái để tránh sự tranh cãi cùng chửi mắng nhau.
* Dùng tâm lý, ý tưởng, và ý chí hòa kính, tươi sáng, và vui tươi để an ủi và làm vừa lòng nhau hầu đả thông tư tưởng để làm cho nhau vui vẻ và thích thú.
* Cùng nhau trao đổi và tham khảo ý kiến hay phụ giúp nhau tiến bộ trong mọi công tác.
* Cùng nhau tôn trọng kỷ luật chung trong tinh thần hòa thuận và kính ái.
* Khi đạt được thành quả và vinh dự nào, hãy cùng nhau chia xẻ thành quả và vinh dự ấy một cách đồng đều để không những tránh được sự xích mích mà còn tạo được tình thương yêu cùng lòng kính trọng nhau. Phải đồng cam (sung sướng) cộng khổ (khổ sở) với nhau trong mọi trường hợp, nhấ là phải khuyến khích và tuyên dương công trạng của nhau. Đừng vì tự ái mà phủ nhận công lao của người. Ta chỉ hòa thuận với các bạn đồng sự và đồng bào, nhưng phải cương quyết vạch mặt chỉ tên những quân Việt gian phản phúc và phản quốc nằm vùng trong hàng ngũ chúng ta. Không thể hòa nhã thương yêu bọn này được vì chúng là bọn “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản” và làm hại dân hại nước. Chúng phải bị loại bỏ, ta không thể thương tiếc chúng được trừ khi chúng biết hối cải. Tuy nhiên, đối với kẻ thù của riêng ta, không phải là kẻ thù của tổ quốc và đồng bào, ta có thể đại lưọng và lấy đức báo oán để biến kẻ thù thành bạn vì họ đáng tội nghiệp và đáng thương hơn đáng ghét.
V. Phân Công Phân Nhiệm
Phân công phân nhiệm là điều tiên quyết để giúp các sinh hoạt của tổ chức hội đoàn thành công, nhất là việc phân công phân nhiệm trong thành phần của các ban chấp hành. Chúng ta đã chứng kiến những sự khủng hoảng và xáo trộn trong việc điều hành các tổ chức hội đoàn người Việt hải ngoại từ trước tới nay. Những việc khủng hoảng này đã dẫn tới sự tan rã của nhiều hội đoàn. Lý do chính là các tổ chức này không có một bản phân công rõ rệt về nhiệm vụ của các thành viên trong Ban Chấp Hành hay Hội Đồng Quản Trị. Ngoài ra, một số người lại lợi dụng khe hở của Bản Điều Lệ và Nội Quy để thao túng các hội đoàn theo tư lợi, biển thủ công quỹ, và làm tay sai cho bọn Việt Cộng. Chúng tôi đã chứng kiến có vài người đã làm tổng thư ký hay chủ tịch của các hội đoàn trên 20 năm nay mà không có người nào trong hội dám thay thế. Hậu quả là các hội đoàn này càng ngày càng suy yếu đi, bị cô lập, và đang trên đà tan rã. Chính vì những lý do này, chúng ta cần phải ấn định các sinh hoạt của ban chấp hành cho rõ ràng. Đề mục thứ VI sau dây là bản đề nghị về nhiệm vụ của các thành viên trong ban chấp hành của những tổ chức hội đoàn.
VI. Các Nguyên Tắc Áp Dụng Trong Các Sinh Hoạt Của Ban Chấp Hành
* Mọi sinh hoạt của Ban Chấp Hành đều phải được tham khảo với các thành viên của ban chấp hành và hội đồng quản trị (nếu có) dựa trên nguyên tăùc đồng thuận hay đa số.
* Trước khi gửi văn thư đi, vị chủ tịch hay các thành viên ban chấp hành được “uỷ nhiệm” phải “email” hay “fax” văn thư này cho các thành viên ban chấp hành để duyệt lại lần cuối hầu tránh các sai lầm đáng tiếc.
* Chỉ vị chủ tịch mới có quyền ký các văn thư của hội về việc đối nội cũng như đối ngoại. Lý do là vị chủ tịch Ban Chấp Hành của một hội đoàn là người đứng đầu và có toàn quyền để chịu trách nhiệm và thi hành những việc đã được đại hội đồng và đa số các hội viện ấn định. Trong trường hợp được “uỷ quyền” của chủ tịch, các thành viên ban chấp hành được quyền ký và gửi văn thư với điều kiện phải viết các chữ “thừa uỷ nhiệm chủ tịch” trước khi ký. Sau đó, các văn thư này cũng phải “email” và “fax” cho các thành viên ban chấp hành xem lại lần chót trước khi gửi đi để trách các sai lầm đáng tiếc.
* Tất cả các thành viên ban chấp hành phải làm việc theo tinh thần dân chủ, khoa học, tương kính, và đặt quyền lợi của hội đoàn lên trên hết.
* Ý kiến của ban chấp hành phải thống nhất dựa trên nguyên tắc đồng thuận hay thiểu số phục tùng đa số. Không thể có việc mà vị chủ tịch hay một thành viên trong ban chấp hành đã thừa uỷ nhiệm viết văn thư thông báo những điều đã được đa số quyết định rồi mà một thành viên khác lại phổ biến văn thư để phản đối, trừ trường hợp nội dung văn thư không đúng theo những gì mà ban chấp hành đã quyết định hay trái với chủ trương và đường lối của hội.
* Không một thành viên ban chấp hành nào kể cả vị chủ tịch được quyền đơn phương quyết định hay ký kết một thỏa ước với các cá nhân hay một tổ chức ở ngoài hội.
* Mỗi thành viên ban chấp hành chỉ có thể tái ứng cử hai nhiệm kỳ, tức là chỉ được giữ chức vụ trong ban chấp hành tối đa là 3 nhiệm kỳ mà thôi.
* Trong trường hợp ba (3) trong năm thành viên của ban chấp hành từ chức hay mất liên lạc trong vòng 3 tháng, những thành viên còn lại của ban chấp hành phải có nhiệm vụ triệu tập đại hội bất thường để bầu ban chấp hành mới trong thời gian tối đa là 3 tháng. Việc bầu cử có thể được thực hiện theo lối đề cử, ứng cử, và bầu cử bằng thư trong trường hợp không thể triệu tập đaị hội bất thường được.
* Trong trường hợp chỉ còn 3 vị trong ban chấp hành, các vị này phải thu xếp để đảm nhiệm chức vụ: Chủ Tịch, Tổng Thư Ký, và Thủ Quỹ cho đến hết nhiệm kỳ, không cần phải bổ xung cho 2 Phó Chủ Tịch.
* Bản tin hay báo của hội phải được đa số các thành viên ban chấp hành duyệt lại lần chót trước khi phát hành để đảm bảo việc phù hợp với chủ trương và mục đích của hội.
VII. Nhiệm Vụ của Các Thành Viên trong Ban Chấp Hành
* Nhiệm Vu của Vị Chủ Tịch: Vị Chủ Tịch thay mặt hội về mặt hành chánh và pháp lý trong mọi sinh hoạt của hội; điều hành và phối hợp mọi hoạt động của ban chấp hành; thi hành các quyết định của đại hội đồng; thành lập và bổ nhiệm các tiểu ban chuyên môn sau khi tham khảo với các thành viên ban chấp hành và quý vị trong hội đồng quản trị (nếu có); cứu xét và quyết định việc ghi danh gia nhập hội của các hội viên mới sau khi đã tham khảo với các thành viên của ban chấp hành và được đa số các thành viên ban chấp hành đồng ý; đề nghị tuyên dương hay biện pháp kỷ luật đối với các hội viên để ban chấp hành hay hội đồng quản trị (nếu có) thảo luận và quyết định; triệu tập và chủ toạ các phiên họp của ban chấp hành, của đại hội đồng thường niên hay bất thường của hội sau khi tham khảo với các thành viên ban chấp hành và quý vị trong hội đồng quản trị (nếu có); giữ mối liên lạc chặt chẽ với các hội viên qua hình thức bản tin định kỳ; chịu trách nhiệm trước đại hội đồng hay hội đồng quản trị (nếu có).
* Nhiệm Vụ của Vị Đệ Nhất Phó Chủ Tịch (Phó Chủ Tịch Nội Vụ): Vị Đệ Nhất Phó Chủ Tịch giúp đỡ (phụ tá) cho vị Chủ Tịch trong việc điều hành hội và các hoạt động đối nội liên quan đến các hội viên, thay thế Chủ Tịch khi vị này vắng mặt hoặc từ chức, hỗ trợ Tổng Thư Ký để giúp đỡ và đôn đốc những sinh hoạt của các tiểu ban chuyên môn, chịu trách nhiệm với Chủ Tịch, theo dõi và đôn đốc vấn đề quản trị nhân viên văn phòng điều hành của hội.
* Nhiệm Vụ của Vị Đệ Nhị Phó Chủ Tịch (Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ): Vị Đệ Nhị Phó Chủ Tịch giúp đờ (phụ tá) Chủ Tịch trong các hoạt động đối ngoại liên quan đến cá nhân và các tổ chức của cộng đồng người Việt hải ngoại và chịu trách nhiệm với Chủ Tịch, thay thế Đệ Nhất Phó Chủ Tịch (Phó Chủ Tịch Nội Vụ) khi vị này vắng mặt hay từ chức, và thay thế Chủ Tịch trong trường hợp cả Chủ Tịch và Đệ Nhất Phó Chủ Tịch vắng mặt hoặc từ chức.
* Nhiệm Vụ của Vị Tổng Thư Ký: Vị Tổng Thư Ký phụ trách các vấn đề hành chánh và lưu trữ các hồ sơ lập quy (giấy phép của chính quyền, điều lệ, nội qui) và các văn thư của hội, khi có công văn đến và gửi công văn đi thì phải có bản lưu giữ riêng rẽ và đánh số công văn cho rõ ràng để tiện việc tham khảo. Nếu hội có văn phòng điều hành, Tổng Thư Ký phải hợp tác chặt chẽ với vị Giám Đốc Điều Hành để lo vấn đề hành chánh và nhân viên của hội, và chịu trách nhiệm với vị Chủ Tịch.
Tổng Thư Ký Phụ trách việc lập và lưu giữ biên bản trong các buổi họp của Đại Hội Đồng thường niên và bất thường cùng các buổi họp của Ban Chấp Hành. Các biên bản này cũng phải được đánh số rõ ràng để tiện việc tham khảo khi cần.
Tổng Thư Ký phụ trách việc soạn thảo những văn kiện thể hiện các quyết định có ghi trong các biên bản của Đại Hội Đồng, của Hội Đồng Quản Trị (nếu có), và của Ban Chấp Hành để đăng lên các bản tin và báo của hội đoàn. Tổng Thư Ký giữ và cập nhật hóa các danh sách hội viên (tên, địa chỉ, số phôn, số điện thư/ fax, và địa chỉ vi thư/ email).
Tổng Thư Ký phụ trách việc tổ chức các buổi họp và các sinh hoạt của Ban Chấp Hành khi đã được đa số thành viên Ban Chấp Hành đồng ý và qui định. Tổng Thư Ký phụ trách việc hoạch định các kế hoạch sinh hoạt rồi đem đề nghị với Ban Chấp Hành để lấy quyết định phát triển hội.
Tổng Thư Ký hỗ trợ “Tiểu Ban Thông Tin và Liên Lạc” để phát hành bản tin định kỳ của hội và liên lạc chặt chẽ với các hội viên qua bản tin định kỳ của hội cùng việc phổ biến các văn thư hay báo của hội tới các hội viên.
Tổng Thư Ký chịu trách nhiệm phát triển hội viên, tức là tìm cách mời những người có uy tín để tham gia làm hội viên cho hội nhà.
Tổng Thư Ký có quyền thay thế Chủ Tịch, Đệ Nhất Phó Chủ Tịch, Đệ Nhị Phó Chủ Tịch với chức vụ là Xử Lý Thường Vụ trong trường hợp cả ba vị này vắng mặt hoặc từ chức cho tới khi tổ chức xong đại hội bất thường để bầu tân Ban Chấp Hành. Tổng Thư Ký Kiêm Nhiệm Đệ Nhị Phó Chủ Tịch và Thủ Quỹ khi một trong hai vị này vắng mặt hay từ chức. Tổng Thư Ký lập phúc trình về các sinh hoạt của hội và tình hình hội viên của hội để tường trình trước Đại Hội Đồng thường niên và bất thường cũng như tại các buổi họp của Ban Chấp Hành. Sau khi soạn xong bản phúc trình sinh hoạt của hội và tình hình hội viên, vị Tổng Thư Ký phải đưa bản này cho vị Chủ Tịch xem và ký tên trước khi thuyết trình.
* Nhiệm Vụ của Vị Thủ Quĩ: Vị Thủ Quĩ chịu trách nhiệm điều hành ngân sách của hội theo chỉ thị của Ban Chấp Hành, nhắc nhở các hội viên hay hội thành viên đóng niên liễm đúng kỳ hạn do Ban Chấp Hành ấn định, giữ các sổ sách chi thu và chịu trách nhiệm về kết toán tài chánh và trương mục của hội tại ngân hàng và các định chế tài chánh khác, quản thủ tài sản của hội theo quyết định của Ban Chấp Hành, và lập phúc trình tài chánh và bản kiểm kê tài sản hằng năm của hội để tường trình trước Đại Hội Đồng thường niên hay bất thường tại các buổi họp định kỳ của Ban Chấp Hành và khi được yêu cầu. Vị Thủ Quĩ có quyền thay thế Tổng Thư Ký khi vị này vắng mặt hay từ chức và chịu trách nhiệm với Chủ Tịch.
VIII. Kết Luận
Đã hợp tác với nhau để phục vụ công ích thì ta phải cố gắng làm việc trên tinh thần dân chủ, khoa học, và tương kính. Muốn chắc chắn làm xong việc, ta phải nuôi lòng “nhân” để thương yêu người và xử sự cho đúng cách, nuôi chữ “tín” để tạo lòng tin cậy thì ta mới giữ được việc, nuôi chữ “trung” để có thành tâm thì ta mới làm nên việc, và nuôi chữ “mẫn” để được siêng năng gắng sức thì ta mới hoàn tất được công việc. Đã có nhân, tín, trung, và mẫn thì ta sẽ hoàn thành công việc một cách mỹ mãn. Muốn cảm được lòng người và muốn mọi người hết lòng giúp đỡ ta thì ta phải biết tự trọng, thành kính đối với mọi người, và tạo ơn huệ cho mọi người. Muốn có chính nghĩa thì ta phải làm việc theo công lý và lẽ phải.
Đã biết tự trọng, biết thành kính, tạo ơn huệ với mọi người, và có chính nghĩa thì ta chắc chắn thu phục được lòng người để yểm trợ công việc chung.
Khi làm việc, giao thiệp, và đối đãi với mọi người mọi việc thì ta phải có lễ, nghĩa, liêm, và sỉ. Có lễ (lễ phép) nghĩa là dùng phép tắc và lễ nghĩa để ngăn chặn tội ác lúc nó chưa xảy ra. Khi làm việc ta phải có nghĩa, tức là làm việc gì ta cũng phải theo con đường công chính, giúp ích tha nhân, và tận tâm với trách vụ để theo đuổi việc nghĩa cho đến thành công. Có liêm, tức là ta phải cố tránh lòng tham và không ăn hối lộ để giữ cho mình được thanh liêm, liêm chính, và liêm khiết vì nếu không thì con người dễ bị lòng tham lôi cuốn để đi đến chỗ thân bại danh liệt. Có sỉ, tức là biết xấu hổ và biết tự thẹn khi làm việc sai quấy. Con người mà “vô sỉ” thì có thể làm bất cứ điều đê tiện nào.
Đã có “lễ,” “nghĩa,” “liêm,” và “sỉ” thì chúng ta sẽ làm cho tổ chức càng ngày càng phát triển, xã hội hanh thông, đất nước phú cường, và nhân loại tiến bộ. Nếu có gì xích mích với các bạn đồng sự, ta nên tự xét và tự trách mình trước thì mọi việc mới tốt đẹp được. Ngoài ra, khi cần chọn lựa giữa tình riêng và nghĩa công, ta nên hy sinh tình riêng cho nghĩa công vì nước có yên vui thái hòa thì tình riêng mới có cơ hội nảy nở. Vì một con én không thể làm nổi mùa xuân nên mọi người phải cùng nhau cộng tác thì công việc mới thành công tốt đẹp. Tuy nhiên, vai trò của vị chủ tịch hay hội trưởng rất là quan trọng trong việc thịnh suy của hội. Vì thế, vị hội trưởng phải là người hiểu rõ các nguyên tắc điều hành một tổ chức cho thật chu đáo.
Đã làm việc cộng đồng và công ích là ta phải chuẩn bị chấp nhận mọi khó khăn và thực tế phũ phàng và không nên tức giận khi có những kẻ phá hoại công việc làm của ta và chê bai cùng chửi bới ta vì “giận lên là phát cơn điên,/ Người khôn hòa dại, người hiền hóa ngu.” Đừng có sợ những kẻ dèm pha hay xuyên tạc công việc làm của ta vì “cây ngay không sợ chết đứng và hữu xạ tự nhiên hương.” Thấy việc phải và chánh nghĩa, ta phải làm cho bằng được và khuyến khích mọi người cùng làm. Thấy việc sai trái và phi nghĩa, ta phải tránh, khuyên mọi người cùng tránh, và tìm cách phơi bày cho mọi người biết để tránh.
Ta nên nhớ rằng, nếu làm việc với nhiệt tâm và thiện chí để phục vụ công ích, với tinh thần dân chủ và vô tư cùng với tinh thần khoa học và tương kính thì thế nào ta cũng thành công trong việc phục vụ cộng đồng và đất nước dù là có gặp khó khăn lúc ban đầu. Có như thế chúng ta mới hy vọng góp công giải thể chế độ Cộng Sản nơi quê nhà hầu đem lại tự do, dân chủ, và nhân quyền cho toàn dân Việt mà họ đang chờ ta từng giây từng phút.