Một cánh hoa chìm
Nguyễn Văn Cơ
Năm 1915 tỉnh Bắc Ninh bị lụt to, nhiều nơi dân sự khổ sở đói khát, cái nạn thuỷ cũng chẳng kém gì cái tai vạ quân
giặc, đi đến đâu thì tàn phá để cái di tích tấn bi kịch đến đấy.
Một làng kia, xa tỉnh ba bốn kilômét có một nhà độc trọi hai chị em. Khi bấy giờ nước các sông đều to. Đê vỡ tứ tung,
mới ban chiều nước sông xấp mặt ruộng, đến tối đường cái đã phải lội; làng này thấp nên nhà nào nhà ấy nước mấp
mé bực cửa.
Nhiều người đã chạy đồ, đi ẩn mình còn hai chị em nhà này còn dùng dằng ở lại vì nước đã đứng, vả ngần ngại phận
gái đêm khuya biết trốn tránh vào đâu. Nàng bèn dự phòng bắc sàn mà ở.
Ai ngờ đến canh ba nước lại lên mạnh lắm, trống hộ thuỷ đánh dồn từng hồi, xa nghe văng vẳng mà sởn tóc.
Chốc chốc nàng mở cửa xem nước trông trời, mỗi lần đóng cửa lại thở dài, lo nghĩ bối rối trong lòng.
Dưới thì nước lênh láng lưng nhà, chèo leo lên mấy tấm ván mỏng với một ngọn đèn lù mù; xót thay cho phận má
đào, gặp khi nguy hiểm biết nào cho yên!
ở ngoài sáng trăng tờ mờ; gió thổi ào ào như bão; cửa ngõ lay chuyển ầm ầm. Nàng lại càng mê mẩn tâm thần, ngơ
ngác kinh hãi, lo quanh nghĩ quẩn... Bỗng có tiếng gọi to át tiếng gió:
* Chưa rõ tiểu sử
- Cô B... ơi! Còn ở nhà làm gì đấy? Chết chửa! Nước đến chân rồi bao giờ mới chạy, mau lên! Nguy đến nơi rồi! Lên
thuyền đây!
Nàng hoảng hốt sấp ngửa ẵm được đứa em ra.
- Trăm sự nhờ người cứu được chị em tôi, ơn này bao giờ dám quên.
Gió to, thuyền nan thì mỏng mảnh, đã chở ba người, đặt thêm đứa bé thì nước gần đến cạp thuyền. Ba người băn
khoăn, lưỡng lự không biết tính làm sao, ngơ ngác nhìn nhau. Nàng hiểu ngay ý, biết cơ hội nguy cấp, cái thần chết
đã hiển hiện lên trước mặt nàng.
Nhưng lòng son dạ sắt như nàng nào có run sợ, ngã chút lòng mà quên cái nghĩa vụ.
- Các ông cứ chở đi thôi! Thuyền đã nặng rồi, tôi xin ở lại một mình, tôi ví có thiệt thòi còn hơn luỵ đến bốn mạng
người, quý hồ em tôi nó sống là may, còn tôi...
Hiểm nghèo đến nơi, bất đắc dĩ ba người phải gạt nước mắt quay mũi.
Trong khoảng vắng đêm thâu, gió thổi lồng lộng, sáng trăng mập mờ, mông mênh một nước một trời, cái thuyền cỏn
con dập dềnh, lênh đênh như cánh bèo biết trôi dạt vào đâu là bờ là bến.
Vì sóng gió cho nên lúc thuyền đến được gò kia mà lại lộn trở lại thì trời đã tang tảng sáng. Khi đến chỗ nguy cấp cứu
nàng thì chỉ thấy chơ vơ mấy ngọn tre, nhà nàng đã đổ trôi băng đi đâu mất rồi...
Ôi! Ngờ đâu đáy nước đục bẩn kia là ngôi mộ của một tấm lòng vàng ngọc! Ngán thay! Một đoá trà mi đã chìm đắm
từ bao giờ?
Sáng hôm sau ông lái đò ngất nghểu ngồi xổm, vừa ghế nồi cơm, kể gốc tích nàng cho chúng tôi nghe rằng: "Chuyện
nàng sầu thảm có một: Nàng khổ sở vất vả từ thuở nhỏ. Mẹ nàng mất sớm, người ta ngờ là người dì ghẻ đánh thuốc
độc. Khi bấy giờ nàng hãy còn bé chưa biết gì. Cha nàng thì hiền lành nhút nhát. Người dì ghẻ tính cay nghiệt tàn ác,
lộng quyền hạch lạc cả chồng, hành hạ hết cấp. Thôi thì gánh nước thổi cơm, xay lúa giã gạo; ẵm em coi nhà, hầu dì
ghẻ, chiều dỗ em bé, hơi sơ ý thì phải đập phải đánh, trận đòn nào là chết đi sống lại. Thế mà nàng chịu nhẫn nhục ăn
ở được lòng cha, vừa ý dì ghẻ. Đến năm mười sáu nàng lại phải cái cầu phụng dưỡng cha ốm. Được ít lâu bệnh ho lao
làm người chật vật mãi mới chết, nàng phải xuất thân gánh thuê, vác mướn nuôi cả nhà. Người dì ghẻ chưa hết trở
chồng đã bán cả gia tài đi theo trai, còn trơ một cái nhà tranh và một đứa con bé bỏ lại cho nàng.
"Nàng nghĩ tình cha hiền thương con trẻ chơ vơ cho nên nàng chầm bập, nâng niu đứa con dì ghẻ cũng như em ruột.
"Lần hồi thức khuya dậy sớm, nàng cũng khéo tần tảo nuôi được hai miệng ăn... Chuyện như thế: tội nghiệp cho
nàng! Người nết na thảo hiền như vậy mà phải thác oan dường này!".
Người lái đò nói xong thì bắc nồi cơm ra, ai nấy lẳng lặng ăn. Còn tôi tính vốn dễ cảm xúc, cầm bát cơm lên lại dằn
xuống, cổ hình như nghẹn, bụng đói mà tưởng no đầy. Ngao ngán lòng trông thấy hơi cơm nghi ngút lại tưởng tượng
cái hồn nàng phảng phất là là ở đâu trên mặt nước như đám sương mù buổi sáng.
Tạp chí Nam Phong,
số 25, tháng 7 - 1919