Con chó nhứt của làng Xoài Đôi
Nguyễn Minh Sơn
Ông Bốn Kiềng, thợ săn nổi tiếng làng Xoài Đôi nhiều lần năn nỉ ba tôi đổi con chó Siêng lấy một con trâu đực. Ba dứt khoát không đổi. Thỉnh thoảng ba chỉ cho ông Bốn mượn để nhập đàn chó săn trong hội săn đầu năm vào ngày thọ tử. Dù nó không cùng đàn nhưng ông Bốn Kiềng xếp con chó Siêng là chó nhứt. Ở địa vị đó trong đàn, săn được mồi, nó nghiễm nhiên được chia một cái đùi sau.
Hội săn các làng quanh chân núi Cà Tang ngày xưa chuyên săn cọp, săn voi. Về sau chỉ còn săn heo rừng, mang, nai, bò tót... Hội mở vào ngày thọ tử trong thời gian từ mồng một tới mồng sáu tháng giêng, trước ngày khai hạ mồng bảy. Từ dưới làng, nghe tiếng chó sủa vòng quanh trên lưng chừng núi, tiếng xuỵt chó của thợ săn, mọi người biết chắc chắn sắp có thịt rừng. Tiếng ông Bốn Kiềng to, vang, ba làng còn nghe rõ:
- Ô... ô... ô... ô... Siêng! Đó hụi... đó hụi...
Năm mô cũng rứa, nghe cái giọng đó, tôi biết ngay hội săn đã gặp con mồi. Cái giọng sủa của con Siêng đầu đàn không lẫn với bất cứ con chó mô khác. Nhờ con Siêng, hằng năm ngày Tết, cả nhà đều được một đùi thịt rừng ăn lấy hên.
Tôi nhớ cái nghi thức cúng thịt và nghi lễ trả chó đã thành đạo của hội săn lâu đời của các làng. Thợ săn trói hai chân con mồi làm một, xỏ đòn vào giữa khiêng về sân thợ săn chính. Người ta cắt đầu con mồi, lấy mỗi bộ phận của bộ lòng mỗi thứ một chút, thêm một khúc đuôi và bốn móng chân, bỏ vô nồi to nấu cháo với huyết cùng đậu xanh.
Cháo chín, vớt đầu ra để lên mâm, cắm ngọn giáo bên cạnh rồi thắp hương cúng. Sau lễ cúng, cả đàn chó săn tập hợp thành vòng tròn. Con mô con nấy mình mẩy rách bươm, tứa máu, hai bên hông lép xẹp sau cuộc săn dài. Con Siêng đứng giữa đàn, chờ thợ chính múc một thau cháo có cái đầu con thú mới săn được để ra ở giữa. Nó lừng lững tiến tới, từ tốn ăn hết phần của nó. Một cái thau to hơn được bưng ra. Con Siêng đã no nê đứng vòng ngoài, tôn trọng sự công bằng cho từng con trong đàn.
Tôi nhớ con chó Kiếm háu ăn của ông Bốn Kiềng có lần hất mõm con Đớm. Ngay lập tức, con Siêng nhảy vào ngoạm gáy con Kiếm lôi ra khỏi "bữa tiệc". Mặt mày con Kiếm buồn thiu. Nó biết nó đã phạm luật, đành ngồi chồm hổm, hếch mõm lên chờ sự "xét lại” của con Siêng đầu đàn.
Con Siêng của tôi luôn là minh chủ. Nó đem lại miếng ăn, sự công bằng, trật tự, cũng như luôn đi đầu bảo vệ cả đàn khi bị kẻ thù tấn công. Phần thưởng dành cho nó theo nghi lễ của hội săn, suy cho cùng chẳng có chi quá đáng. Hồi mô cũng rứa, theo thứ tự, con chó nhứt ăn đầu tiên, sau đó mới tới cả đàn ăn sau theo thứ tự. Con người xếp ở cuối cùng.
Tôi luôn nhớ cách ông Bốn Kiềng dắt con Siêng trả lại cho nhà tôi. Ông đi trước, đội cái mủng đựng thịt rừng đậy lá chuối lên trên. Tới nhà, ông trịnh trọng chào hỏi ba tôi rồi bày một chai rượu với đĩa trầu cau để thưa chuyện. Chuyện là như ri: Thưa anh, con Siêng bữa ni có công lớn, tui được hội săn cử ra mang kỉnh anh một ký thịt nọng và riêng phần con Siêng một đùi sau.
Để trả lễ, ba sai má xắt ký thịt nọng xào ngay, mở chai rượu mới mời ông Bốn Kiềng cùng uống hết.
Hội săn có đạo của mình, thợ săn mô cũng làm theo đạo bằng niềm tin tuyệt đối được truyền đời.
***
Con Siêng lớn hơn tôi hai tuổi. Lông nó màu trắng, mắt màu vàng, bốn khoeo chân sau, đuôi dài cụp xuống. Dưới cặp mắt bậc thầy về chó săn sành sỏi của ông Bốn Kiềng, ngay từ nhỏ nó đã có phẩm chất một con chó nhứt.
Năm nó lên bốn, tôi lên hai, cả nhà tản cư vô Sơn Phúc. Má bỏ tôi một đầu nó một đầu thêm cục đá, gánh đi. Dưới đất ca-nông từ Đức Dục câu lên, trên đầu máy bay bà già quạt xè xè. Má gánh bọn tôi chạy men theo bờ khe Dô tới được nơi an toàn.
Chỗ tản cư sát núi Hòn Tàu, người đông, lúa gạo không có. Ngày ngày ba đội đạn đội bom về làng cũ gặt lúa gánh vô cho cả nhà ăn. Những năm nớ, gian nan không kể hết. Con Siêng gầy đến trơ cả xương sườn. Những con chó khác ở khu tản cư vẫn mập ú ù. Ba phát hiện ra chuyện đàn chó đêm đêm vẫn lùng sục kiếm ăn quanh những con chó chết vì bom, kể cả thịt người. Riêng một mình con Siêng thì không.
Từ chuyện đó, ba phân chia ra hai loại chó và cầy: chó không bao giờ ăn thịt đồng loại. Hiển nhiên, chó phải thông minh và cao sang hơn hẳn bọn cầy.
Ba có một nguyên tắc, khi vô rừng làm gỗ không hồi mô dắt chó theo. Ba nói, con chó thính giác nhạy gấp mười ngàn lần con người. Vô rừng chó hay lùng sục. Chỉ cần nghe hơi cọp, nó liền chạy về quấn vô chân chủ. Vô tình, nó đưa mãnh thú tới sát hại chủ nhân.
Nhưng với riêng con Siêng thì không. Nó được hưởng ngoại lệ. Chuyến đi rừng mô ba cũng dẫn nó theo. Ba xuống hố đẽo cây, nó chạy loanh quanh vờn những con chuột rừng, cà ngãng, chồn hôi... Ba đi tìm cây, nó ngồi lại tại chỗ canh bộ rìu và mo cau cơm... Ba đi về, nó luôn đi trước sủa vang, đánh hơi xua đuổi ngô công, rắn độc...
Những năm đói, mo cơm đi rừng của ba luôn được chia đôi với nó.
Tôi dắt trâu đi cày ở Hóc Kè, con Siêng tới nằm bên bờ ruộng. Chưa hồi mô tôi thấy nó tự đi săn cheo, săn chồn hay gà rừng, gà nước. Ba nói chó hay không bao giờ bắt thú nhỏ. Đúng thiệt! Hằng năm, hội săn của làng lần mô nó cũng đem về cho nhà tôi toàn thịt thú lớn. Nó là chó nhà tôi nhưng ông Bốn Kiềng vẫn coi trọng nó nhứt bầy.
Mùa cày Hóc Kè năm nớ đi qua. Ba đem cái bừa giấu trong bụi cây kè, phủ thêm lùm hà thủ ô rậm rịt. Buổi tối, tự dưng con Siêng bỏ ăn. Sáng hôm sau, miệng nó sưng to híp cả mắt. Ba hoảng hồn ôm cái đầu nó vạch miệng ra coi. Nó kêu rin rít rồi rên rỉ. Ba chắc lưỡi, nguy to, nó bị rắn hổ mang thổi nọc độc rồi, không cách chi chạy chữa.
Ba nghe hết người ni tới người kia chỉ, lấy lá bướm trắng giã nhỏ vắt nước đổ cho nó uống rồi đắp xác lên miệng. Không hết. Càng ngày mõm nó càng sưng to hơn. Nó bỏ ăn mười một ngày, nước vàng chảy ra hôi không chịu nổi.
Tôi nhớ miết cái đêm tháng mười năm nớ. Cả nhà đang ăn cơm, con Siêng chui dưới gầm bàn. Mùi hôi khủng khiếp bốc lên mâm cơm. Ba cúi xuống nạt nó một câu:
- Siêng! Đi ra ngoài đi! Mi có chết thì chết cho rồi...
Sáng hôm sau, cả nhà không còn thấy con Siêng nữa.
Sáng hôm sau, con chó Siêng khôn ngoan không chịu chết vì đạn bom hay thú dữ đã mãi mãi không còn hình bóng.
Nó đã ra đi biền biệt!
Suốt cả tháng trời, ba lội suốt ngày đi từ gò nọ sang gò kia cố tìm con Siêng.
Ba đi từ hố ruộng xa nhứt tới hố ruộng gần nhứt tìm con Siêng.
Ba đi từ làng Cà Tang Hạ lên làng Xoài Đôi tìm con Siêng...
Ông Bốn Kiềng biết chuyện cứ thở dài thườn thượt.
Đêm đêm, ba uống rượu say mèm rồi cứ lẩm bẩm một mình: Không biết mi sống chết ở đâu hả Siêng? Tau chỉ chửi có một câu, làm chi mi giận tau rồi bỏ đi hả?
Lời sám hối của ba cũng không làm cho đôi tai thính gấp mười ngàn lần con người của con Siêng nghe được.
Ba có uống hết mười một nồi rượu, say hai trăm mười bảy đêm, tự hỏi một ngàn hai trăm hăm mốt câu sám hối thì nó cũng không trở về.
Cuối cùng, tuyệt vọng, ba chỉ còn ước tìm được bộ xương của con Siêng đem về, để chôn cất đàng hoàng như chôn một con người!
***
Đúng tháng mười năm sau, tôi lại dắt trâu vô Hóc Kè cày ruộng. Ba lên chỗ lùm hà thủ ô dưới gốc kè lấy bừa. Trước mắt ba, bộ xương trắng hếu của con Siêng nằm phơi ngay ở chính giữa hai thanh bừa.
Ba bần thần vỗ đầu vỗ trán.
Ba bứt tóc bứt tai tự mắng nhiếc mình.
Ba đứng tần ngần như rứa hết cả buổi chiều. Lệ ba chảy dài trên đôi gò má cháy nắng...
***
Tôi nhớ miết con chó Siêng. Ngày đi tản cư, nó ở một đầu tôi một đầu. Lông nó màu trắng, mắt nó màu vàng, hai chân sau có bốn khoeo...
Nó dẫn đầu đàn chó săn băng lên giồng Hóc Khuấy bắt con heo độc hơn một tạ. Nó chạy như bay thót lên lưng con mồi ngoạm cổ...
Nó chỉ ăn cơm và thịt thú rừng săn được. Không hồi mô nó ăn thịt đồng loại.
Nó là con chó Siêng hạng nhứt của làng tôi.
Yên Thy viên, những ngày nhớ những câu chuyện cũ của ba