Hà Nội - Hải Phòng: một trăm lẻ năm ki lô mét. Từ đó có thể đi ô tô qua phà Bính, rồi một quãng đường nữa dẫn đến Bạch Đằng mênh mông bát ngát, cảnh vật bao la tương xứng với những chiến công lừng lẫy của cha ông (Ngô Quyền 938, Lê Đại Hành 981, Trần Hưng Đạo 1288). Đến thị xã Quảng Yên, đi thêm vài cây số, có thể đến bãi cọc nằm bên bờ sông Chanh, xưa kia đánh chìm thủy quân phương Bắc.
Đến đây ta có thể với nhà thơ Trương Hán Siêu nhà Trần ngâm câu:
Đến nay nước sông vẫn chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!
Và nhớ đến sứ thần Giang Văn Minh, đứng giữa triều đình Bắc Kinh ngang nhiên nhắc lại:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng
(Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ).
Xe chạy quanh co giữa một vùng đồi núi, dần dần xích gần bờ biển, thấy xa xa trên mặt nước nhấp nhô những vùng núi đá lớn nhỏ, thế là ta đã bước vào vùng vịnh Hạ Long. Hoặc từ bến cảng Hải Phòng, lấy ca nô qua Bạch Đằng, sau đó trên một mặt biển phẳng lặng như trên một dòng sông, lướt qua giữa trăm nghìn hòn đảo, đến Hòn Gai, cách Hải Phòng sáu mươi ki lô mét. Từ Hòn Gai hay Bãi Cháy, lấy thuyền hay ca nô đi nửa ngày cũng được mà dạo hàng tuần hàng tháng cũng chưa khám phá hết cái đẹp cái lạ của Hạ Long.
Đây là mảnh đất giao duyên giữa đất liền và biển cả, giữa lục địa và đại dương: đến đây bất giác ta mơ màng nhìn theo một cánh buồm lướt trôi thấp thoáng qua rặng thông già, không biết thuyền trôi, không biết sóng vỗ chân núi đá rì rào hay núi rửa chân khuấy động biển sâu.
Quả là một khu triển lãm khổng lồ, thiên nhiên ở đây đã trổ hết tài tạo hình điêu khắc. Vua Lê Thành Tông năm 1468 đã ghi lên đá cảm tưởng, nay núi mang tên là núi Bài thơ đứng sừng sững trước thị xã Hòn Gai, nhìn ra biển.
Hải thượng vạn phong quần ngọc lập,
Tinh la kỳ bố thấy tranh vanh
(Muôn ngọn núi nổi trên biển như ngọc:
La liệt như những sao sa, những quân cờ, chênh vênh màu xanh biếc).
Hết đảo này đến đảo khác, hàng nghìn hòn lớn bé, trải dài trên một bờ biển trên hai trăm ki-lô-mét từ cửa Bạch Đằng đến mũi Trà Cổ, từ bờ đến ngoài khơi trên một trăm ki-lô-mét, đảo mẹ đảo con dắt tay nhau kéo dài trùng trùng lớp lớp, thiên hình vạn trạng. Nôm na, dân chài gọi hòn Quả Chuối, kia là Hòn Oản, chỗ này đảo Bò Lội, kia là Trâu Đầm, đây là đảo Cái Đinh, kia đảo Cá Bé hay Đảo Rùa, có Voi Phục, có Hổ Chầu, có Đôi Gà Chọi đấu nhau nghìn vạn năm chưa rõ hơn thua. Du khách có thể tuỳ hứng đặt tên cho từng hòn đảo, ai có óc chiến lược cũng có thể đồng ý với sách Đại Nam Nhất Thống Chí ở đây “lấy núi làm thành chiếm chỗ cao, giữ nơi thấp, núi che sau lưng, biển bọc quanh mình, thế đất hẻo lánh và ổn định, trong vững ngoài kín" và nhớ đến trận Vân Đồn diệt đường tiếp tế của quân Nguyên xâm lược.
Nhưng đến Hạ Long trước hết là để hướng thức vẻ đẹp muôn màu muôn sắc, kỳ ảo, có một không hai. Để cùng Nguyễn Trái ngắm:
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan
Nhất bàn lam bích trùng minh kính
Vạn hộc nha thanh đóa thấy hoàn
Hữu trụ đốn thanh bần hải nhạc
Phong ba đất động thấy tâm can (...)
(Kỳ quan đất đựng giữa trời cao
Một vùng biếc sẫm gương lòng bóng
Muôn hộc xanh um tóc mượt màu
Non biên gạn trong tay vũ trụ
Tím gan chông núng sức ba đào (...)
Hạ Long là một cô gái đẹp, biết trang điểm cho mình tùy lúc nắng mưa, tùy buổi sớm chiều, tùy xuân sang hè đến.
Em vừa khoác nhiễu Lam Sơn
Đã vân tím nhạt chuyển sang lụa đào
Buồm bay hay cánh hải âu
Nắng vàng thu hay nắng đầu xuân tươi
(Lưu Trọng Lư)
Đảo xanh, đảo tím, đảo nâu
Mênh mang con sóng trắng phau bạt ngàn
(Trần Đăng Khoa)
Trong ánh nắng ban mai hay trong bóng chiều man mác và nhất là trong sương mù của thu đông, các hòn đảo với bóng chập chờn trong mặt nước, khi ẩn khi hiện, đây là chú Gấu Già, kia là cô Gà ấp, khi là một đàn Voi rủ nhau tắm biển, khi là Đầu Hổ hớp nước dưới ánh trăng và như trong giấc mơ, những cánh buồm trắng, buồm nâu lặng lẽ đi về, hư hư thực thực.
Một cô gái nhịp nhàng chèo thuyền, một bác ngư dân kéo lưới giữa khung cảnh biển núi quyện lấy nhau, trời nước mênh mang cùng một màu sắc, “Sơn liêu tiêu thủy, thủy man thiên” (Trịnh Cương), đều có phong điệu của người thoát tục. Bất giác chúng ta sống lại giấc mơ lạc lối Đào Nguyên, thưởng ngoạn màu sắc hình dáng của cảnh bồng lai kho trời chung, trời xanh nước biếc gió hiu hiu trên mặt biển, trăng chênh chếch đầu non, mà vô tận của riêng mình. Nếu có dịp dạo thuyền đêm, khi ánh trăng lung linh chiếu xuống mặt nước, chốc chốc một đàn cá chạy ré kéo theo một dải lân tinh sáng lóe như sao băng, rồi lúc trăng lên, trăng tà, cảnh vật càng thấy mờ ảo huyền bí.
Có ai đã đến đây mà không bâng khuâng tự hỏi: Ai đã vung ra giữa biển cả mấy nghìn hòn đảo nhấp nhô như vậy? Phải chăng Rồng nhà trời đã nhả ra hàng ngàn viên ngọc, che chở cho bà con ngư dân án ngự dông bão, hay tạo cho đất nước này một thành lũy trấn giữ biển đông, một kỳ quan cho người năm châu đến thưởng ngoạn.
Biển gặp núi, núi gặp biển, lục địa và đại đương hò hẹn nơi dây, triệu triệu năm một hội tao phùng, những núi con thoạt thấy sông nước mênh mang nhảy ùa xuống không chịu về với đất liền nữa. Nhiều nơi khác biển với đất giành nhau từng ly từng tấc tang thương biến đổi tàn nhẫn dữ đội; ở đây biển và núi kết tình chung thủy, núi tiến ra ôm lấy biển, biển ăn vào đất liền. Những cửa sông Bạch Đằng, cửa Lục, Tiên Yên như những bàn tay xòe ra đón chào sóng biển. Thuyền men theo chân núi, có khi như đã cùng đường, bị những dãy đảo sừng sững chặn bước, nhưng rồi đảo lại ném mình, uốn thành lối ngoặt cho thuyền lách qua giữa những vách đá đựng đứng. Hoặc đảo lại mở ngay dưới chân mình cửa hang cho thuyền luồn vào, để du khách hồi hộp chui qua, phát hiện những hồ nước yên lặng nằm lọt giữa vòng tay núi đá.
Không biết đã ai nắm hết ngõ ngách, đường ra lối vào của trận đồ Mê cung này chưa. Hẳn rằng ở đấy những nhà thám hiểm nay mai con khám phá ra nhiều cái kỳ điệu. Mà đâu chỉ có mấy nghìn hòn đảo nổi trên mặt nước với cây cỏ xanh tươi. Trà Bản có chè ngon, Minh Châu có ngọc trai ngọc điệp, Thanh Lân có cam, Vân Hải có cát mịn một màu trắng xóa, Cẩm Phả có đảo khỉ nuôi chế biến vac-xin. Còn cả một thế giới chìm trong hang động, chìm dưới đáy nước.
Nước chảy đá mòn: những hạt mưa thấm dần vào đá vôi tạo ra những rạn nứt, đào sâu hang thành động. Cũng từ trong những hạt nước tí tách nhỏ giọt trong hang động, đá vôi bị hòa tan rồi kết tinh thành nhũ, lủng lẳng trên trần, ở các cửa hang, hay mọc từ nền hang. Ca nô du lịch thế nào cũng dẫn bạn đến xem hang Đầu Gỗ mà người nước ngoài gọi là Động kỳ quan (Grotte des merveilles); có thì giờ bạn có thể thăm hang Trinh Nữ, hang Bồ Nâu, hang Sửng Sốt. Đi với một đoàn quay phim, tôi có dịp đến nhiều hang mà chưa du khách nào đến được, và thấy ngòi bút của mình bất lực không thể nào tả hết cái đẹp, cái lạ của những hang động này. Những gì đây? Một rừng già cổ xưa với cây cỏ hoa kỳ dị, phật thủ hay bầu bí, sen hay cúc, quỳnh hay huệ. Một bảo tàng cổ vật, voi hay tê ngưu, lạc đà hay sư tử. Một hình người, Phật Quan âm giang đôi tay từ bi hay nàng Trinh nữ đang mơ ước duyên lành?
Rồi đó dây, xuyên qua mặt nước trong xanh, ta thấy dưới độ sâu 10 – 15m những cồn bãi san hô, xanh hay đỏ nhạt. Sóng nước rập rờn, san hô xao động, như cánh rừng bị gió lung lay. Sâu hơn nữa là những gì? Xuyên qua bãi san hô lung linh dưới sóng biển, luồn sâu vào các hang động ta liên tưởng đến cung điện của Long Vương thuỷ tề, nguy nga và quái dị. Từ đó, những nàng tiên cá say mê chút tình người bỏ đáy biển tìm lên đất cạn. Nhưng than ôi, ân ái giữa con người đất cạn với nàng tiên gốc ở thủy cung làm sao mà bền vững. Ai dư nước mắt khóc chuyện thần tiên. Thế mà huyền thoại cứ mãi theo ta trong nhưng ngày du ngoạn Hạ Long.
Huyền thoại hay nhất, phong phú nhất vẫn là quá trình của con người - đời này qua đời khác xây dựng cuộc sống giữa khung cảnh kỳ quan ấy. Ven bờ vịnh, ven các cửa sông, năm hoặc sáu nghìn năm về trước sống trong hang động con người còn để lại những rìu đục, chì lưới, bàn mài và các nhà khảo cổ đã xác định có một nền văn hóa Hạ Long xuất hiện cùng thời với những văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.
Khi nước Đại Việt thành lập, các triều Lý - Trần lựa quần đảo Vân Hải làm nơi buôn bán với nước ngoài, với cảng Vân Đồn nấp bóng núi Vân, quanh năm mây phủ. Một loạt đồng tiền khác nhau của ta, của Trung Quốc, của Tây Ban Nha, những kho đồ sứ sành còn sót lại nói lên sự phồn thịnh của ngoại thương thời ấy, di tích đồ sộ của chùa Lâm cùng cho biết qui mô xây dựng của Vân Đồn ngày xưa. Đến Cửa Ông ta còn có thể thăm đền thờ Trần Quốc Tảng, con của Trần Hưng Đạo, một tướng giỏi cũng là một thiền sư nổi tiếng được cử ra trấn giữ đất biên cương này.
Tôi không nói nhiều đến cảnh những mỏ than hàng năm cung cấp 6 - 7 triệu tấn anthracit rải khắp một vùng, từ Hòn Gai đến Cẩm Phả, từ Mạo Khê đến Mông Dương. Sáng sáng chiều chiều, những đội thuyền chài đi về giương buồm như những đoàn bươm bướm tung bay. Trên cảnh vật nghìn xưa ấy, chen vào những chiếc tàu lớn vào vịnh ăn than mang đi xuất khẩu, ta ngắm những vỉa than tô thêm màu đen huyền vào cảnh đảo xanh nước biếc.
Lúc ánh hoàng hôn nhuộm đỏ bầu trời phía tây, cũng là lúc ánh đèn điện Hòn Gai, Bãi Cháy sáng lên như một vành sao, dang tay đón những thuyền chài từ ngoài khơi trở về. Huyền thoại lịch sử, cuộc sống hiện tại quyện lấy nhau phải chăng đây là cái kỳ diệu nhất của cảnh quan này?
Người Việt Nam chưa đi Hạ Long, chưa thật biết đất nước.
Đến Việt Nam, chưa đến Hạ Long, chưa thật biết Việt Nam.