Tôi trở lại Cổng Vòm ngay sau đám tang tràn ngập hoa trắng của nàng để hình dung lại giây phút nàng hóa thân trở về làm trinh nữ vĩnh cửu. Có những biến cố kỳ lạ xảy ra với tôi. Chẳng hạn lần đầu tiên tôi đi qua phố G mà không có cảm giác rờn rợn hoặc lo sợ mình biến thành người khác. Trong một tâm trạng nửa thức nửa ngủ - tôi rất hay có tâm trạng này kể từ sau khi nàng hóa thân - tôi gặp lại cha mẹ tôi, vợ chồng tiến sĩ N, ông gác rừng, gã thợ săn, ông Bân, cô bé bị chôn sống, ả gái điếm trầm mình năm nào và vô số người mà tôi chưa hề gặp mặt nhưng đều nhận là anh em của tôi. Họ sống trong bầu không khí thanh nhẹ, hoan hỉ... đến mức khi tỉnh dậy tôi cứ băn khoăn: Không biết cuộc sống nào là thực? Ðêm nào tôi cũng ngồi nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ, nhất là những đêm giông bão nhưng tai lại dỏng về phía cửa chính. Dường như - tôi tin thế - một ngày nào đó, vẫn với tiếng bước chân rất nhẹ nhưng sau đó sẽ là tiếng gõ cửa... Một lá thư được bí mật chuyển đến tay tôi. Nội dung như sau: Chúc mừng ông đã không phải rơi vào tay tôi! Tôi vừa có đủ bằng chứng để kết luận lần cuối cùng: Ông không liên quan gì đến vụ một kẻ hung đồ đã vô cớ dùng dao nhọn đâm vào cổ thằng bé đánh giầy, gây án mạng ở phố G cách đây vài năm. Tuy nhiên lý trí tỉnh táo và chắc chắn là sáng suốt của tôi muốn tôi - do chỗ mến ông - khuyên ông nên tránh xa cô gái mà ông vẫn đem lòng tơ tưởng. Một ngàn lần cô ta không xứng với ông! Tôi chỉ tự cho phép tôi nói được có thế. Dù sao cũng chúc ông hạnh phúc! Chào ông! Tôi muốn cười phá lên, vo tròn tờ giấy ném mạnh xuống đất. Rồi chẳng hiểu sao tôi lại cúi xuống nhặt lên. Chính khi đó tôi nhớ đến cuốn nhật ký của cha tôi và câu nói trước khi người từ giã thế gian mà giờ đây như vẳng xuống từ trời: Can đảm lên con, đừng sợ!
Tân Mai - Hà Nội những ngày xa Bá tước, tháng 8/1998 đến tháng 12/1998 Sửa lần cuối tháng 8/1999.
Phần phụ lục (4 truyện cổ tích đặc sắc)
I - Rùa chạy thi với thỏ (Chuyện này có trong Sách giáo khoa cấp I (?) rất phổ biến những năm 60, 70, nay không sưu tầm được nguyên văn, chỉ xin tóm lược lại)
Vì bị thỏ chê mình chậm chạp, rùa quyết thách thỏ chạy thi. Thỏ cầm chắc phần thắng trong tay nên chẳng có gì phải chuẩn bị, lo lắng. Không ngờ rùa khôn lỏi, quyết cho thỏ một phen thất bại. Rùa chọn địa điểm, hẹn thỏ ngày hôm sau rồi suốt đêm ngầm bố trí hàng chục họ hàng giống nhau nấp sẵn trong những mô đá trên suốt quãng đường chạy thi. Vào cuộc thỏ ưỡn ngực chạy như bay nhưng luôn luôn thấy tiếng rùa ở phía trước: Ta ở đây lâu rồi. Cuối cùng gần đến đích thì đã thấy rùa tươi cười bảo: "Sao nhà ngươi chạy chậm thế?" Vốn thật thà, ngờ nghệch, thỏ tin là mình thua thật và nhận thất bại. Cả họ nhà rùa đắc ý lắm. Chú dẫn: truyện ca ngợi sự mưu trí của rùa, biểu tượng cho nhân dân lao động bình thường, cần cù mà thông minh.
II - Trí khôn của tao đây Một con cọp từ trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng một con trâu đang cày dưới ruộng. Trâu cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị quất một roi vào mông. Cọp lấy làm ngạc nhiên. Ðến trưa, mở cày, Cọp liền đi lại gần Trâu hỏi: - Này, trông anh khỏe thế, sao anh lại để cho người đánh đập khổ sở như vậy? Trâu trả lời khẽ vào tai Cọp: - Người tuy nhỏ, nhưng người có trí khôn, anh ạ! Cọp không hiểu, tò mò hỏi: - Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào? Trâu không biết giải thích ra sao, đành trả lời qua quýt: - Trí khôn là trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi người ấy! Cọp thong thả bước lại chỗ anh nông dân ôn tồn nói: - Trí khôn của anh đâu, cho tôi xem một tí có được không? Anh nông dân suy nghĩ một lát rồi nói: - Trí khôn tôi để ở nhà. Ðể tôi về lấy cho anh xem. Anh có cần, tôi sẽ cho anh một ít. Cọp nghe nói, mừng lắm. Anh nông dân toan đi, lại làm như sực nhớ ra điều gì bèn nói: - Nhưng mà tôi đi khỏi, lỡ anh ăn mất trâu của tôi thì sao? Cọp đang băn khoăn chưa biết trả lời thế nào thì anh nông dân đã nói tiếp: - Hay là anh chịu khó để tôi buộc tạm vào gốc cây này cho tôi được yên tâm. Cọp ưng thuận, anh nông dân bèn lấy dây thừng trói Cọp thật chặt vào một gốc cây. Xong anh lấy roi cày quất túi bụi vào đầu, vào lưng Cọp, vừa quát vừa thét: - Trí khôn của tao đây! Trí khôn của tao đây! Cũng chưa hả, anh chất rơm chung quanh Cọp, châm lửa đốt và lại quát: - Ðã thấy trí khôn của tao chưa? Ðã thấy trí khôn của tao chưa? Trâu thấy vậy thích quá, bò lăn ra mà cười, không may hàm răng trên va vào đá, răng gãy không còn chiếc nào. Mãi sau dây thừng cháy đứt, Cọp mới vùng dậy ba chân bốn cẳng cút thẳng vào rừng không dám ngoảnh nhìn lại. Từ đó, cọp sinh ra con nào trên mình cũng có những vằn đen dài, vốn là dấu tích những vết cháy, còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên cả.
III - Truyện Tấm Cám Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em suýt soát tuổi nhau. Tấm là con vợ cả. Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Nhưng dì ghẻ của Tấm là người rất cay nghiệt. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều độc ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng. Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng bắt con tôm cái tép. Mụ ta hứa hẹn: "Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!" Ra đồng, Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì đủng đỉnh dạo hết ruộng nọ sang ruộng kia. Mãi đến chiều vẫn không được gì. Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị: - Chị Tấm ơi chị Tấm! Ðầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng. Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu. Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm, liền hiện xuống hỏi: - Con làm sao lại khóc? Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe. Bụt bảo: - Thôi con hãy nín đi! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không? Tấm nhìn vào giỏ rồi nói: - Chỉ còn một con cá bống. - Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Một bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi như thế này: Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người. Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy! Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày một lớn lên trông thấy. Thấy Tấm sau bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe. Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn: - Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu. Tấm vâng lời, sáng sớm hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng, cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt. Ðến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng. Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống. Tấm oà lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: - Con làm sao lại khóc? Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: - Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi! Rồi về nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm. Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm: - Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho! Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn. *
Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem. Trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bảy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài. Sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm: - Con hãy nhặt xong cho dì chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở; về không có gì để thổi cơm dì đánh đó. Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm ngồi nhặt một lúc, thấy sốt ruột, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, bèn ngồi khóc một mình. Giữa lúc ấy, Bụt hiện lên hỏi: - Con làm sao lại khóc? Tấm chỉ vào cái thúng, thưa: - Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội. Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem. Bụt bảo: - Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp. - Nhưng ngộ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ phải đòn. - Con cứ bảo chúng nó thế này: Rặt rặt (tức chim sẻ) xuống nhặt cho tao Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết Thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu. Tự nhiên ở trên không có một đàn chim đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy xuyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ đã bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo: - Con làm sao lại khóc? - Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội. - Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội. Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Ðào lọ thứ nhất lấy ra được một áo mớ ba, một cái xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Ðào lọ thứ hai lấy ra được một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất bỗng chốc nó đã hý vang lên và biến thành ngựa thật. Ðào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được bộ yên cương xinh xắn. Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi một giày xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội. Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người. Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá cũng vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đấy tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem; họ nhặt ngay được một chiếc giày thêu của Tấm lúc nãy đánh rơi xuống đó. Vua ngắm nghía giày không chán mắt. Bụng bảo dạ: - "Chà, một chiếc giày thật xinh! Người đi giày này hẳn phải là trang tuyệt sắc". Lập tức vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Ðám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến để thử giày. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chả có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ: - Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giày đấy! Mụ dì ghẻ của Tấm bĩu môi: - Con nỡm, chuông khánh còn chẳng ăn ai Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre Nhưng khi tấm vừa đặt chân vào giày thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giày giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám. Tuy sống sung sướng trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về để soạn cỗ cúng. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bừng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm: - Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng cau để cúng bố. Tấm vâng lời trèo lên cây cau: Lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi: - Dì làm gì dưới gốc thế? - Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con. Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào rồi đưa vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả. Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim vàng anh, chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, vàng anh dừng lại trên cành cây, bảo nó: - Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao. Rồi chim vàng anh bay thẳng vào cung đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo: - Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo. Chim vàng anh bèn đậu vào tay vua, rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mê mải với chim, không tưởng đến Cám. Cám vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt nấu ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi. Cám đáp: - Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim, nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi. Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hóa ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, sai lính hầu võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào là vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào. Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp: - Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ. Nhưng khi khung cửi đóng xong, Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình: Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị Chị khoét mắt ra Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó mang tro đã đốt đem đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Ðống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Ðến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước ở gần đó một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm: - Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi chứ bà không ăn. Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu về nhà cất trong buồng, thỉnh thoảng vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm. Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Ðoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào vỏ quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ. Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy một cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày, Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nướng, gói bánh, têm trầu để cho bà ngồi bán hàng. Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung. Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền phán hỏi: - Trầu này ai têm? - Trầu này con gái già têm - bà lão đáp. - Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt. Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung. Cám thấy Tấm trở về và được vua yêu đương như xưa, thì nó không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị: - Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế. Tấm không đáp, mà hỏi lại: - Có muốn đẹp không để chị giúp! Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật, lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng: - Ngon ngỏn ngòn ngon! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng. Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng rầm rĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày mắm ăn gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì lăn đùng ra chết.
IV - Mỵ Châu - Trọng Thủy Sau khi đã giúp An Dương Vương xây Loa Thành, thần Kim Qui cho An Dương Vương một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm và chỉ một phát có thể giết hàng nghìn quân giặc. An Dương Vương chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức làm trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nổi. An Dương Vương quý chiếc nỏ vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm. Lúc bấy giờ Triệu Ðà làm chúa đất Nam Hải, mấy lần Ðà đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì do An Dương Vương có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều, nên Ðà đành cố thủ đợi cơ hội khác. Triệu Ðà thấy dùng binh không lợi, bèn xin giảng hòa với An Dương Vương, và sai con trai là Trọng Thủy sang cầu thân nhưng chủ ý tìm cách phá chiếc nỏ thần. Trong những ngày đi lại để kết tình hòa hiếu. Trọng Thủy được gặp Mỵ Châu một thiếu nữ mày ngài mắt phượng, nhan sắc tuyệt trần, con gái yêu của An Dương Vương. Trọng Thủy đem lòng yêu Mỵ Châu, Mỵ Châu dần dần cũng xiêu lòng. Hai người trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa Thành là Mỵ Châu không dẫn người yêu mình đến xem. An Dương Vương không nghi ngờ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Một đêm trăng sao vằng vặc, Mỵ Châu cùng Trọng Thủy ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao ngất. Gió lạnh thổi, mây ngàn xa bay, đêm mỗi lúc một khuya... Trong câu chuyện tỉ tê, Trọng Thủy hỏi vợ rằng: - Nàng ơi! Bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không đánh được? Mỵ Châu đáp: - Có bí quyết gì đâu chàng! Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần, lại bắn một phát chết hàng nghìn quân địch như thế còn ai đánh nổi được. Trọng Thủy làm bộ ngạc nhiên, vờ như mới nghe nói đến nỏ thần lần đầu, chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Mỵ Châu không ngần ngại, chạy ngay vào chỗ cha nằm, lấy nỏ đem ra cho chồng xem. Nàng lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Qui và giảng cho Trọng Thủy nghe biết cách bắn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu rồi đưa cho vợ cất đi. Hôm sau Trọng Thủy xin phép vua về thăm cha và thuật lại cho Triệu Ðà biết về chiếc nỏ thần. Ðà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một cái lẫy giống hệt cái lẫy của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong. Trọng Thủy giấu vào trong áo lại trở sang Âu Lạc. An Dương Vương vốn chiều con gái, thấy con mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ sung sướng, liền sai gia nhân bày tiệc rượu, để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn An Dương Vương và Mỵ Châu say túy lúy. Trọng Thủy thừa lúc bố vợ và vợ ngủ say, lẻn ngay vào phòng tháo lẫy bằng móng chân thần Kim Qui và thay cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào. Hôm sau thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, Mỵ Châu hỏi chồng rằng: - Chàng như có vẻ lo nghĩ gì, phải không? Trọng Thủy đáp: - Tôi sắp phải đi bây giờ. Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa mãi trên kia. Mỵ Châu buồn rầu, lặng thinh. Trọng Thủy nói tiếp: - Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may giặc dã, có khi nàng không ở chốn này nữa, tôi biết đâu mà tìm? Mỵ Châu nói: - Thiếp có áo lông ngỗng hễ thiếp chạy về phương nào thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ theo dấu lông ngỗng mà tìm. Nói xong Mỵ Châu nức nở khóc. Về đến đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa ra cái móng rùa vàng cho cha. Triệu Ðà mừng rỡ vô cùng, reo lên rằng: "Phen này đất Âu Lạc sẽ về tay ta!" ít lâu sau Triệu Ðà ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo, An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Ðến khi quân giặc đã đến sát chân thành, An Dương Vương mới sai đem nỏ thần ra bắn thì thấy không hiệu nghiệm nữa. Quân Nam Hải phá cửa thành, kéo ùa vào. An Dương Vương vội lên ngựa, cho Mỵ Châu ngồi sau lưng, phi ngựa thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, Mỵ Châu bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường. Ðường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm, mới đến núi Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã đuổi gần đến. Thấy đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, An Dương Vương hướng ra biển khấn thần Kim Qui phù hộ cho mình. Vua vừa khấn xong thì một cơn gió lốc bốc cát bụi lên mịt mù làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Qui hiện lên, bảo An Dương Vương rằng: "Giặc ở sau lưng nhà vua đấy!" An Dương Vương tỉnh ngộ, liền rút gươm chém Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển tự tận (2) Quân của Triệu Ðà kéo vào chiếm đóng Loa Thành còn Trọng Thủy một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm Mỵ Châu. Ðến gần bờ biển thấy xác vợ nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Trọng Thủy khóc oà lên, thu nhặt thi hài đem về chôn trong Loa Thành, rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà chết. Ngày nay ở làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương còn cái giếng gọi là giếng Trọng Thủy. Tục truyền khi Mỵ Châu đã bị cha giết rồi, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy được ngọc trai đó đem về rửa nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong sáng vô cùng.
------------------------------ 1) Chiếc cổng phụ bị bỏ quên, là nơi quân Thổ tiến vào hạ thành Byzance, trở thành sự kiện ngẫu nhiên mở đầu thời đại Phục hưng. 2) Có sách chép: Thần Kim Qui làm phép rẽ nước đưa An Dương Vương xuống thủy phủ. Ngày nay trên núi Mộ Dạ huyện Diễn Châu, Nghệ An có đền thờ An Dương Vương.