Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Tôn giáo, Chính Trị >> Nhận định về những sai lầm tai hại...

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 2184 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Nhận định về những sai lầm tai hại...
Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ

1- Ðối Với Dân Tộc.

Ai cũng biết, chủ nghĩa Cộng sản do Karl Marx hoàn thành nhằm tiêu diệt chủ nghĩa Tư bản trên toàn thế giới, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Lê nin đã thành công trong việc thiết lập chế độ cộng sản tại nước Nga vào năm 1917. Kể từ đó, nhất là sau đại chiến thế giới lần thứ hai và bắt đầu cuộc chiến tranh lạnh, thế giới đã chia làm hai phe rõ rệt là Cộng sản và Tư bản đối nghịch nhau một cách không khoan nhượng. Phe cộng sản nhằm "đào mồ chôn sống phe Tư bản" để làm bá chủ thế giới, vì cộng sản là phong trào quốc tế.
Cộng sản chủ trương độc tài chuyên chính, do giai cấp công nhân lãnh đạo, gây căm thù đấu tranh giai cấp kẻ giàu người nghèo, hứa hẹn lấy của nhà giàu chia cho người nghèo để mang lại cơm no áo ấm cho họ và dùng cách mạng bạo lực để thực hiện mục đích ấy - sức mạnh phát ra từ nòng súng là châm ngôn. Cộng sản cũng chủ trương tiêu diệt tôn giáo, vì họ là những người vô thần duy vật, và tôn giáo đối với họ, cũng như Karl Marx đã nói, là "thuốc phiện" của loài người mà bọn Tư bản đã lợi dụng để ru ngủ nhân dân lao động hòng dễ bề bóc lột. Người dân Nga đã từng sống trong cảnh nghèo khổ và bị áp bức dưới chế độ Nga hoàng từ lâu, khi được nghe chủ trương và những lời hứa hẹn như trên đây thì tất nhiên là đã tán thành chủ nghĩa cộng sản, nhờ thế mà cộng sản đã thành công tại Nga.
Nhưng nói thế nhất thiết không có nghĩa là cái gì tốt cho nước Nga cũng sẽ tốt cho Việt Nam. Mỗi nước có những vấn đề riêng của nó và những vấn đề ấy phải được giải quyết theo bối cảnh lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của mỗi nước. Cái bất hạnh cho dân tộc Việt Nam là những người cộng sản Việt Nam đã không ý thức được điều đó.
Như vừa nói ở trên, thế giới đã chia làm hai phe Cộng sản và Tư bản, hễ ở đâu, nhất là các nước thuộc địa nhược tiểu ở Phi châu, Á châu và Mỹ châu La tinh mới giành được độc lập sau thế chiến thứ hai, theo Cộng sản thì Tư bản núp dưới chiêu bài "chống cộng sản để bảo vệ thế giới tự do" mà can thiệp vào công việc nội bộ của nước ấy. Cũng thế, nếu theo Tư bản thì Cộng sản lại cũng núp dưới chiêu bài "giải phóng dân tộc" để bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam là một trường hợp.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hầu hết các nước thuộc địa ở Á châu đều được độc lập và đa số chẳng theo phe nào, cho nên dân các nước ấy được sống trong hòa bình để xây dựng đất nước và củng cố nền độc lập còn non trẻ của họ, chỉ có nước Việt Nam là khốn khổ vì chiến tranh tàn phá suốt hai mươi chín năm trời (1946-1975) là bởi những người cộng sản Việt Nam đã đưa vận mệnh của nước Việt Nam ràng buộc vào với sự sống còn và quyền lợi của phe cộng sản quốc tế. Giá như những người Việt Nam thời ấy không là cộng sản quốc tế mà vì dân tộc thật sự, như những Nehru của Ấn Ðộ, Sukarno của Nam Dương hay Nasser của Ai cập v.v.. thì dân tộc Việt Nam đã có thể tránh được hai mươi chín năm chiến tranh ý thức hệ Quốc Cộng tương tàn do các thế lực ngoại bang chi phối.
Năm 1946, thực dân Pháp trở lại Việt Nam với hy vọng chiếm lại thuộc địa cũ. Nhưng, như mọi người còn nhớ, sau thế chiến thứ hai, nước Pháp đã kiệt quệ, làm gì còn đủ khả năng để thực hiện giấc mơ ấy ? Song phe Tư bản đã chi tiền của và súng đạn đề nhờ thực dân Pháp "ngăn chặn cộng sản tiến xuống vùng Ðông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do", vì Việt Nam là thuộc địa cũ của Pháp, cho nên người Pháp có lý do để trở lại hơn là các nước Tư bản khác trực tiếp nhảy vào. Ngược lại, cộng sản Việt Nam cũng kêu gọi toàn dân đứng lên chống đế quốc xâm lược để "bảo vệ tiền đồn của phe Xã hội chủ nghĩa". Thế là Việt Nam đã nghiễm nhiên trở thành đấu trường để hai phe Cộng sản và Tư bản đọ sức.
Ðể tạo cho mình một lí do chính đáng, người Pháp đã đưa cựu hoàng Bảo Ðại về dựng lên một chính phủ Bảo hoàng chống cộng để bảo vệ độc lập quốc gia, dùng người Việt bắn giết người Việt, thế là cảnh "nồi da xáo thịt" bắt đầu và kéo dài mãi đến năm 1975 (sẽ nói sau). Khốn nỗi, bên cạnh những ông Bảo hoàng ấy là các ông mũi lõ, mắt thau, tóc quăn da đen, thì người dân Việt yêu nước nào mà tin được là các ông Bảo hoàng ấy "bảo vệ độc lập quốc gia" ? Về điểm này, phe Cộng sản khôn hơn phe Tư bản, họ dùng ngay người bản xứ, họ chỉ cho vay tiền bạc, súng đạn và cố vấn ở hậu trường mà thôi, chứ họ không đưa quân lính các nước cộng sản khác đến trực tiếp chiến đấu ngoài chiến trường. Bởi thế, những người Cộng sản bản xứ đã tạo cho mình được cái vẻ "chính nghĩa chống ngoại xâm", cho nên tuyệt đại đa số nhân dân tin và hết sức ủng hộ họ vì lòng yêu nước. Vì lẽ đã tám mươi năm phải sống dưới ách thống trị của thực dân Pháp, bây giờ đánh đuổi quân Pháp để dành độc lập thì ai mà chẳng hoan nghênh và sẵn sàng hy sinh, cho nên cuối cùng Cộng sản đã thắng.
Sau cuộc thảm bại tại trận Ðiện Biên Phủ, người Pháp thấy không còn đủ sức theo đuổi chiến tranh, mà nếu cứ tiếp tục, thì rồi sẽ có thể mất luôn cả nước Pháp vì nợ nần chồng chất. Do đó, năm 1954, Pháp đã thỏa hiệp với cộng sản Việt Nam chia đôi nước Việt Nam theo hiệp định Genève, cắt từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc cho cộng sản để Pháp rút quân về, sau chín năm bắn giết đốt phá.
Sau khi Pháp rút đi, cộng sản tiếp thu Hà Nội và cai trị toàn miền Bắc, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản (mà trong thời kháng chiến chưa dám làm vì sợ mất lòng dân) và chuẩn bị cho cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, tức là đã đánh đuổi được kẻ thù bên ngoài rồi, bây giờ phải thanh toán những kẻ thù bên trong. Những kẻ thù bên trong ấy là ai ? Ðó là : "Trí, Phú, Ðịa, Hào, Tôn giáo, Lưu manh" và phải "đào tận gốc trốc tận rễ". Nghĩa là trí thức - đặc biệt là Quốc Dân Ðảng - người giầu, địa chủ, cường hào, tôn giáo, lưu manh, đào tận gốc trốc tận rễ có nghĩa là phải tiêu diệt cho bằng hết ! Và cuộc căm thù đấu tranh giai cấp ấy đã diễn ra năm 1956, dưới hình thức Cải cách Ruộng đất và "ôn nghèo gợi khổ" kéo dài suốt sáu tháng trời.
Mỗi xã có một đội cải cách do Trung ương đảng phái về, gồm toàn người xa lạ, từ miền Trung ra. Những người miền Bắc thì được phái vào miền Trung, vì những người khác xứ như thế sẽ không có tình cảm địa phương và dễ bề thẳng tay tàn ác mà không sợ bị nhận diện. Khẩu hiệu của đội cải cách là : "Nhất đội nhì trời". Cũng như trong miền Nam năm 1975, cộng sản đang trong cái khí thế "thừa thắng xông lên", tại các công trường làm thủy lợi, cộng sản trương khẩu hiệu "Thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến lên thay trời !" và "vắt đất ra nước, thay trời làm mưa", còn gì ngông cuồng hơn ! Một ông vua thời phong kiến bất quá cũng chỉ xưng là "thiên tử" (con trời), nhưng ngày nay đội cải cách của đảng cộng sản còn là "bố trời" và mọi người nếu muốn kêu xin điều gì phải nói : "Con cúi đầu xin đèn trời soi xét". Oái ăm thay ! Một đảng chính trị như đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đánh đổ vua chúa phong kiến, thực dân đế quốc để mang lại "độc lập tự do hạnh phúc" cho toàn dân, thì giờ đây nghiễm nhiên lại là bố trời ! Quyền lợi và lợi lộc làm hư hỏng con người đến thế.
Khi đội về xã nào thì họ đến ở trong các nhà nghèo nhất xã, xưa nay chuyên đi cày thuê cuốc mướn, hoặc ở chăn trâu cắt cỏ cho nhà giàu, hoặc là người làm mõ trong xã. Những người này được gọi là "thành phần cốt cán" và được đội cải cách giao cho công việc "nghiên cứu điều tra" xem ai là địa chủ, cường hào, phú nông, trí thức (tức đảng viên Quốc dân đảng), nếu ai rơi vào những thành phần ấy thì bị bắt giam riêng ở một nơi để chờ ngày đem ra đấu tố và coi như đã nắm chắc cái chết trong tay rồi. Trong thời gian các khổ chủ bị giam được canh gác rất cẩn mật, thân nhân không ai được đến gần, nếu đến cũng bị tội lây. Sở dĩ đội cải cách giao cho những người nghèo nhất xã làm công việc quan trọng như vậy là vì những người nghèo khổ hay mang lòng ghen ghét oán hận, đúng như kinh Phật đã nói "bần khổ đa oán" (nghèo khổ nhiều oán), cho nên dễ bị kích động để trở thành căm thù, mà có căm thù thì cuộc tố khổ mới thành công.

Sau khi thành phần cốt cán nghiên cứu điều tra xong, đội cải cách quyết định ngày giờ đưa các khổ chủ ra đấu tố. Các khổ chủ được đưa đến đấu trường mà đội gọi là "Tòa án nhân dân", thường là ở giữa cánh đồng hoặc trên một bãi đất rộng. Ở giữa đấu trường, một cái đài cao được dựng lên (như lễ đài) dành cho đội cải cách và "bồi thẩm đoàn" (dĩ nhiên là những người nghèo nhất và mù chữ trong xã) của Tòa án nhân dân ngồi. Các khổ chủ cúi đầu quì ở dưới, hai tay bị trói giặt về sau lưng. Khi đội cải cách luận tội, có điều oan ức muốn kêu, thì các khổ chủ phải nói : "Con cúi đầu xin đèn trời soi xét...". Ngày ấy tất cả dân trong xã (mỗi gia đình chỉ để một người già ở nhà giữ nhà) phải đến dự để tố khổ chủ (tất nhiên là họ đã được học tập trước rồi). Ðại khái họ kể : "Ngày trước chúng mày đã bóc lột chúng tao, cho chúng tao vay nặng lãi ; ngày giỗ ngày tết chúng tao phải đưa gà, trứng gà, thịt lợn, gạo nếp đến biếu chúng mày, tính đến nay đã có hàng ngàn hàng vạn con gà, quả trứng ; làm thuê cho chúng mày thì chúng mày cho chúng tao ăn đói, lại còn đánh đập hành hạ chúng tao, v.v.. và v.v...". Có nhiều trường hợp con tố cha, vợ tố chồng, trò tố thầy, anh em họ hàng tố lẫn nhau vì những nguyên nhân bất hòa trong gia đình trước kia. Tố xong, tòa án nhân dân định tội và kết án tử hình, tất cả đám đông ở dưới phải hô to ba lần : "Tử hình ! Tử hình ! Tử hình !" vừa hô vừa giơ tay đấm lên hư không ba cái. Thế rồi khổ chủ bị bịt mắt lại đưa đến trói vào cây cột đã được dựng sẵn và đội hành quyết gồm năm người đứng nhắm bắn, khổ chủ gục đầu xuống và kết liễu một cuộc đời ! Người ta kể có trường hợp bắn đi bắn lại mấy lần khổ chủ mới chết. Sau một hồi vỗ tay hoan hô, đám đông lần lượt ra về, để rồi ngay mai đi hoan hô nữa, hết xã này đến xã khác ! Sau đó, tài sản của các khổ chủ tử hình, gọi là "quả thực" được chia cho thành phần cốt cán, người được gian nhà, người được cái giường, cái bàn, cái ghế, cái hòm, cái cối xay, cối giã, cái cày, cái bừa, bát đĩa nồi niêu, giần sàng rổ rá, cho đến cái chổi cùn, rế rách..., nghĩa là có cái gì chia cái ấy.

Như đã nói ở trên, cuộc đấu tranh căm thù giai cấp diễn ra suốt sáu tháng trời, trên toàn miền Bắc chết chóc quá nhiều, đến bảy trăm nghìn người (trong đó, có nhiều trường hợp, như một cán bộ đã nói với tôi nguyên văn như sau : ("Cộng sản chặt đầu cộng sản mới đau chứ") đến nỗi đảng cộng sản Việt Nam đã phải ra lệnh sửa sai và, cũng người cán bộ kể trên đã nói : "Hồ chủ tịch đã đích thân đứng ra xin lỗi nhân dân". Nhưng có điều mỉa mai ở đây là đảng cộng sản Việt Nam thường tự hào không bao giờ sai lầm, thậm chí, hồi tôi bị cộng sản giam trong nhà tù Phan Ðăng Lưu ở Bà Chiểu, Gia Ðịnh, năm 1977, tôi được nghe bài hát trên loa đài, ca tụng đảng là "chân lý", đảng là "mặt trời", thế sao lại phải sửa sai ? Một điều đau đớn nữa là dù có sửa sai, có xin lỗi thì bảy trăm nghìn con người cũng đã mất mạng và tài sản của họ cũng đã tiêu tan rồi !
Tuy nhiên, vẫn chưa hết chết chóc. Vì sau khi sửa sai, người ta lại chém giết nhau nữa. Chả là, trong thời gian tố khổ, có nhiều người vì thù oán riêng tư, đã "mượn gió bẻ măng" dựa vào cuộc đấu tố mà tố bậy, tố oan để trả tư thù. Do đó, khi sửa sai, thân nhân của những khổ chủ đã chết vì bị tố oan, trở lại giết những kẻ tố oan để trả thù. Chẳng hạn như trường hợp một anh "cốt cán" ở một xã nọ bị cụt mất ngón tay trỏ từ thuở nhỏ, đến thời cải cách tố khổ, anh ta dùng cái ngón tay cụt ấy mà tố đến mười người. Ðối với người nào anh ta cũng nói : "Tao ở chăn trâu cắt cỏ cho mầy, mầy đã cho tao ăn đói và không trả công thì chớ, mầy lại còn chặt ngón tay tao !". Sau nầy anh bị giết lại trong thời gian sửa sai. Con số những người chết trong trường hợp này cũng khá nhiều. Thật là một bầu không khí căm thù ngút trời mà từ bốn nghìn năm lịch sử chưa từng có.
Sư cụ chùa Long Khánh xã Vũ Ðoài - nơi tôi bị quản thúc hơn mười năm nay (1982-1992) - bị tố là đảng viên Quốc dân đảng và bị giam hai tháng, đến khi sửa sai mới được tha, không thì cũng chết. Còn một người nọ, tuy nghèo phải đi làm công, nhưng rất thật thà nhân hậu, cho nên người chủ nhà cũng thương tình, mỗi khi túng thiếu vay thóc ăn thì người chủ cho vay mà không lấy lãi. Ðến thời cải cách, người ta buộc ông phải tố người chủ, ông ta đành phải lên tố. Ông ta nói : "Tao nghèo khổ phải đi làm thuê làm mướn cho mầy, mầy cho tao ăn hai bữa cơm no, tối về mầy còn trả công tao đấu gạo ; khi tao túng thiếu đến vay thóc mầy, thì mầy cho vay không, không lấy lãi...". Ðội cải cách phải cho người ra lôi cổ ông ta xuống, không cho tố nữa. Lại ở một xã nọ, ông Linh mục bị đưa ra đấu tố, người đứng ra tố là một bà đanh đá nhất xã, bà ta tên Ðức. Khi ông Linh mục quì giữa đấu trường, bà Ðức (Ðức mà thất đức) đứng trước xỉa xói vào mặt ông Linh mục chửi bới thậm tệ, rồi bà ta nói : "Tu hành gì mầy, có mà tu hú ; tu gì mà ăn những thịt gà cá gỡ cho béo vào, cái mặt phèn phẹt ra thế kia kìa rồi đi theo cộng sản mà làm hại dân hại nước ! ?". Lập tức đội cải cách sai người lên kéo bà ta ra, nhưng bà còn đang hăng máu, không chịu ra và nói : "Chưa hết ! Nó còn nhiều tội lắm, chưa tố hết". Nhưng một người bịt miệng bà ta và một người cầm tay lôi bà ta ra. Có lẽ bà ta đã được dạy nói là "đi theo Quốc gia, theo Tây mà làm hại dân hại nước", nhưng lúc đó bà đang hăng say, quên bẵng đi mà nói lầm là "đi theo cộng sản" chăng ? Sau đó ông Linh mục được đưa đi và cho đến nay (1992) vẫn chưa về !
Kể từ sau ngày cải cách và đấu tố trở đi, những thân nhân họ hàng của địa chủ, cường hào, trí thức, sư, linh mục bị gọi là thằng nọ con kia và mỗi khi ra đường gặp bất cứ người nông dân lớn bé già trẻ nào, cũng phải khoanh tay cúi đầu chào : "Con xin chào ông nông dân, con xin chào bà nông dân !". Người ta kể chuyện một em bé gái sáu tuổi bế em trai đi chơi, một bà già thân nhân của địa chủ gặp và khoanh tay cúi đầu chào : "Con xin chào bà nông dân bế ông nông dân đi chơi !" ! Thật là chuyện cười ra nước mắt. Chưa hết, sư cụ chùa Long Khánh xã Vũ Ðoài, sau khi được tha về, hôm ấy là ngày 15 (ngày rằm), cụ nấu xôi cúng Phật, cụ đang đơm xôi vào đĩa, mấy bà già tín đồ trong xã ra, trông thấy, họ nói : "Mầy không được đơm xôi cúng Phật, đồ phản động dơ dáy ! Việc của mầy ở ngoài vườn. Ðể xôi đó cho chúng tao đơm, ra vườn làm cỏ !". Ôi ! Luân thường đạo lý : "Than ôi ! Văn minh Ðông Á trời thâu sạch, lúc nầy cương thường đảo ngược ru ?" (Tản Ðà). Nhà thơ đã biết trước, nhưng nay cũng đã qua đời, khỏi phải chứng kiến cảnh đau lòng.

Kể từ sau ngày cải cách, tôn ti trật tự xã hội đảo lộn, luân thường đạo lý đổ nát, vì cảnh con tố cha, vợ tố chồng, anh em họ hàng tố lẫn nhau, tất cả giá trị tinh thần truyền thống đều sụp đổ. Cuộc cải cách nầy và cuộc chiến tranh ý thức hệ huynh đệ tương tàn ròng rã hai mươi chín năm, khiến ba triệu người chết, bốn triệu người bị thương và nửa triệu trẻ em sinh quái thai là một cái giá quá đắt mà dân tộc Việt Nam phải trả để đổi lấy một học thuyết phi nhân và vô luân mà nay nó đã bị loại bỏ ngay trên mảnh đất nó đã được thí nghiệm lần đầu tiên cách đây bảy mươi tư năm (1917-1991).

Những ai phải chịu trách nhiệm cho thảm họa ấy ?
Trên đây tôi chỉ kể sơ qua mấy nét tổng quát về cuộc đấu tố mà thôi, còn những chi tiết liên quan đến cách làm việc, những thủ đoạn khủng bố, cách đối xử với các khổ chủ trong thời gian họ bị giam cầm trước khi chính thức đưa ra đấu trường để bị tố và xử bắn, thì thật là khủng khiếp, không thể diễn tả được.
Sau khi đã thanh toán những kẻ thù "có nợ máu" với nhân dân rồi, đảng cộng sản Việt Nam hứa với nhân dân sẽ xây dựng một xã hội công bằng, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng như ai, không có kẻ giàu người nghèo, không còn nạn người bóc lột người, không ai phải làm thuê làm mướn cho ai, nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc ; các cụ già sáu mươi tuổi trở lên, không còn sức lao động, sẽ có "An dưỡng đường", mỗi cụ một căn phòng khang trang đẹp đẽ, có người phục vụ chu đáo. Xã hội cộng sản sẽ không có ăn mày, trộm cướp, đĩ điếm, nghiện ngập, hút xách, ai cũng có công ăn việc làm, không có nạn thất nghiệp, tóm lại là một thiên đường trên mặt đất. Và sau này trên mặt đất nếu dân số tăng lên đông quá, không đủ chỗ ở, thì sẽ đưa bớt lên mặt trăng ! !
Ðể thực hiện lời hứa lấy ruộng của địa chủ chia cho nông dân, đảng cộng sản đã chia ruộng cho dân một cách đồng đều và cấp bằng "Sở hữu chủ" hẳn hoi. Bằng sở hữu chủ phải được cắm ngay trên thửa ruộng của mình để chứng tỏ quyền sở hữu của mỗi người. Và để thực hiện không ai làm thuê làm mướn cho ai, đảng bảo dân thành lập Tổ đổi công (một loại Hợp tác xã nhỏ), nghĩa là mỗi Tổ năm nhà hoặc hơn tùy ý, hợp lại với nhau, rồi hôm nay cày cấy cho nhà này, ngày mai cày cấy cho nhà khác, cứ như thế cho đến hết lượt. Thuế nông nghiệp lúc này rất nhẹ, nhân dân vui mừng lắm, nói theo danh từ thời thượng là rất ư "hồ hởi phấn khởi". Từ bao đời nay, bây giờ "ơn Bác ơn Ðảng", người nông dân mới thực sự có được mảnh ruộng và làm chủ mảnh ruộng của mình. Ðời sống nông dân trong giai đoạn ấy tương đối sung túc, cho nên dân rất tin yêu đảng. Nhưng tiếc rằng sự hồ hởi phấn khởi ấy chẳng được bao lâu, vì đến năm 1960, đảng bắt dân phải góp hết ruộng vào Hợp tác xã lớn để "làm chủ tập thể" chứ không sở hữu riêng nữa. Nông dân có gì đem góp hết vào Hợp tác xã : trâu bò, cày bừa, cối xay, cối giã, trục lúa v.v... tóm lại tất cả các nông cụ riêng trước đây đều xung vào Hợp tác xã. Người nông dân bỗng nhiên thấy mình hoàn toàn là người vô sản, chỉ còn hai bàn tay để đi làm thuê lấy điểm, có khác là trước kia làm thuê cho "bọn địa chủ tàn ác bóc lột", nó cho ăn ngày hai bữa cơm no, tối về nó trả công đấu gạo ; còn bây giờ thì làm thuê cho Hợp tác xã không cơm, tối lại được trả cho tám lạng hay một cân thóc đựng vào cái mo cau mang về (một cân thóc bằng sáu lạng gạo, người khỏe ăn một bữa không no). Bởi thế người dân đã nói với nhau là "Hợp tác lên to lấy mo đựng thóc". Một ông "cắc cớ" nào đó lại nói "Hợp tác lên to đói hết rồi", bị gọi ra Ủy ban nhân dân xã. Xã bảo : "Anh nói thế là nói xấu cách mạng, bôi nhọ chế độ đấy hả ?". Ông cắc cớ trả lời : "Ðâu dám ! Ý tôi muốn nói là Hợp tác xã lên to hết cái đói rồi, nghĩa là không còn ai đói nữa, ai cũng no đủ cả". Thế rồi ông cắc cớ thong thả ra về. Lại một "nhà thơ" nào đó làm mấy câu thơ như sau :
Sáng bước chân ra bụng đói rồi. Trưa về lưng lửng tối ta thôi, cũng bị gọi ra Ủy ban và gán cho tội bôi bác chế độ. Nhà thơ phủ nhận và bảo bài thơ tôi có bốn câu tứ tuyệt, nhưng nhân dân chỉ truyền tụng có hai câu đầu mà bỏ hai câu cuối của tôi đi. Làm cho bài thơ không trọn nghĩa. Ông xã hỏi thế hai câu cuối của anh như thế nào ? Nhà thơ đọc :
Ðói no chi quản thời chinh chiến Mỹ cút đi rồi bác với tôi.
Ông xã nói : "Ừ, vậy thì hay quá chứ còn gì !". Thế là nhà thơ thung dung ra về.
Ðến năm 1980, Ðảng cộng sản thấy cách làm ăn tập thể kiểu Hợp tác xã bết bát quá, vì chẳng ai chịu gắng sức làm, lại còn lãng phí, có khi phá ngầm nữa, bởi lẽ họ có làm mà không được hưởng, không đúng như lời đảng đã nói "làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu", nên họ chẳng thiết tha gì, chỉ làm qua loa cho xong việc rồi về nhà chăm lo con lợn con gà là chính. Do đó, sản lượng nông nghiệp mỗi ngày mỗi giảm sút nặng nề, đảng bèn đưa ra chính sách khoán sản phẩm, hy vọng cải thiện tình hình. Nhưng vì Hợp tác lấy sản quá nặng nên ông dân cũng chẳng còn được bao nhiêu thóc và đói vẫn hoàn đói. Còn các cụ già hơn sáu bảy mươi tuổi, không làm được ruộng thì sung vào đội trồng cây theo khẩu hiệu của Bác Hồ "Trăm năm trồng người mười năm trồng cây". Loại cây chính được trồng ở hai bên lề đường là cây bạch đàn, xà cừ và phi lao. Hợp tác xã dùng chúng làm củi đốt nung gạch hoặc làm nhà kho.
Một hôm, có bảy tám cụ ông cụ bà vác cây đến trồng ở hai bên con đường đi vào chùa Vũ Ðoài, các cụ vào chùa nghỉ giải lao, tôi hỏi các cụ đi đâu thì các cụ cho biết đi trồng cây lấy điểm. Tôi tò mò hỏi các cụ trồng như vậy được bao nhiêu điểm, các cụ cho biết cứ năm cây được một điểm bằng một lạng thóc. Tôi nói : "Nghe đâu các cụ đã có An dưỡng đường, có người phục vụ chu đáo rồi mà, thế sao các cụ còn phải đi trồng cây lấy điểm ?" Các cụ trả lời : "Chả biết sau này thế nào, chứ hiện giờ thì chúng tôi đang còn "ăn đứng đường"". An dưỡng đường mà các cụ nói chệch ra là ăn đứng đường thì cũng lạ thật. Ðã vậy, những cây các cụ trồng xong, chỉ ít ngày sau là người ta đã bẻ hoặc nhổ hết vào ban đêm, bởi vậy các em bé chăn trâu cho Hợp tác xã (trước kia thì chăn trâu cho địa chủ bóc lột) mới làm vè hoan hô các cụ :
Hoan hô các cụ trồng cây Mười cây chết chín một cây gật gù !
Các cụ cũng chẳng vừa, cũng làm vè "phản pháo" lại :
Các cháu có mắt như mù Mười cây chết tiệt gật gù ở đâu ? !
Nghĩa là trong con mắt các cháu thì mười cây còn sống sót được một cây, nhưng dưới mắt các cụ thì mưới cây chết hết cả mười ! Thực ra thì các cụ chỉ trồng chúng xuống để lấy điểm sống qua ngày thôi, còn chúng sống hay chết cũng mặc, các cụ đâu có quan tâm. Còn những người bẻ hoặc nhổ cây đi thì lại nghĩ chúng có lớn lên mình cũng chẳng được dùng, thôi thì nhổ phứt đi cho khuất mắt.
Nạn tham ô ở nông thôn cũng rất phổ biến. Nông dân phải trả sản nặng, thiếu phải bù lỗ, bởi thế phải nói khó với các ông lái máy cày máy bừa làm kỹ ruộng để cấy cho tốt lúa, bởi vì các ông máy cày hay cày lỏi ; hoặc hợp đồng bừa ba lượt thì các ông chỉ bừa hai lượt thôi. Làm như vậy sẽ dối số dầu xăng mà hãng máy cày cấp cho mỗi máy. Các ông lái máy cày lấy dầu xăng dối ra ấy đem đi bán chợ đen, mà cày bừa như thế thì ruộng không kĩ, lúa sẽ xấu. Bởi vậy nông dân phải nói khó với các ông cày bừa cho kĩ. Nhưng muốn thế thì phải luộc gà nấu xôi cho các ông ăn mới được, vì thế trong dân gian mới có câu "Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà". Trâu đen là con trâu thật, trâu đỏ là cái máy cày vì nó được sơn màu đỏ cách mạng. Thật cũng trớ trêu, ngày xưa phải biếu gà cho địa chủ bóc lột, còn ngày nay thì phải đút lót gà cho máy cày. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa ! Nhưng sau máy cày nghĩ, ăn gà chỉ ăn được một mình thôi, không vui, nên máy cày bèn lấy tiền và gạo đưa về nhà cùng vợ con ăn cho vui.
Rồi đến điện lực cũng vậy. Ðiện ở nông thôn chỉ được dùng để bơm nước vào đồng để cày bừa. Ðến thời vụ, Hợp tác xã nào muốn có nước vào đồng trước để cày bừa, thì phải đưa thịt và gạo nếp đến "lót tay" mấy ông cán bộ coi trạm điện bật cầu dao cho điện, nếu không thì cứ chờ, quá thời vụ cũng mặc. Nhưng Hợp tác xã sợ quá thời vụ lúa sẽ xấu, không đủ thóc đóng thuế cho nhà nước cũng nguy, cho nên đành phải mang gạo thịt đi, chứ không thể chờ được. Bởi vậy, dân gian lại có câu tiếu lâm thời đại : "Có kí lô oét mới có kí lô oắt". Oét là tiếng kêu oen oét của con lợn, còn oắt (watt) là chỉ đơn vị điện lực. Hoặc câu nữa cũng không kém phần hóm hỉnh, như : "Có cầu thớt mới có cầu dao". Cái thớt dùng để thái thịt luôn luôn đi với con dao, còn cầu dao là cầu dao của công tơ điện, hễ có gạo thịt thì nó bật lên, không thì nó cúp xuống ! Lại trong làng xóm, nhà nào khá giả muốn có ngọn đèn điện thắp sáng trong nhà, nhất là vào ba ngày tết, hoặc đám cưới, đám ma v.v.. thì xin ông cán bộ trạm điện cho phép câu điện vào, dĩ nhiên, cũng phải có gà lợn và gạo nếp chỉ đường dẫn lối. Cho nên người dân lại có câu ca dao :
Muốn cho điện sáng về nhà Ruột lợn ruột gà phải nối đến nơi !
Thật cũng buồn cười, trước kia cộng sản lên án tư bản là nắm lấy các phương tiện sản xuất để thao túng bóc lột dân lao động, thì giờ đây cộng sản có máy cày, có trạm điện cũng có tha dân đâu ! Những câu tiếu lâm, ca dao về nạn tham ô ở nông thôn còn nhiều lắm, như :
Mỗi người làm việc bằng hai Ðể cho cán bộ mua đài (radio) mua xe Mỗi người làm việc bằng ba Ðể cho cán bộ xây nhà xây sân...
và những tiếu lâm về các lãnh vực khác cũng khá nhiều, nhưng ở đây tôi không chủ trương nói về điều đó, chỉ nêu mấy câu làm điển hình thôi.
Cuối cùng, chính sách khoán sản phẩm cũng thất bại, đến năm 1985 thì đảng cho khoán trắng. Nghĩa là cho dân thuê ruộng rồi đóng thuế cho nhà nước, hệt như chính sách phát canh thu tô của "địa chủ bóc lột và bị giết" trước kia, chỉ khác trước kia là địa chủ cá thể, bây giờ là địa chủ tập thể đảng hoặc nhà nước. Thế là mèo lại hoàn mèo. Rồi bắt đầu phá Hợp tác xã : nào nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn, nhà chăn tằm, nhà thuốc, vườn ươm cây, cửa hàng hợp tác xã, ao cá Bác Hồ, vườn cây Bác Hồ v.v.. phá hết, bán đấu giá hết. Một hôm, có người trong xóm ra chùa rủ tôi đi xem chỗ máy bay B52 của Mỹ bỏ bom, tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi hỏi bỏ bao giờ, ông ta bảo mới vài hôm nay, tôi lại càng ngơ ngác không hiểu ra sao. Sau một lát ông ta mới nói dân chúng mua nhà nuôi lợn của Hợp tác xã, họ đang đập phá lấy gạch, trông y như B52 bỏ bom. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ. Mấy hôm trước có người ở thành phố Nam Ðịnh sang thăm và cho tôi một món quà hiệu Liên xô, bên ngoài hộp có mấy chữ CCCP, không hiểu, tôi đưa ra hỏi ông ta là nghĩa gì, ông ta bảo đó là chữ viết tắt của các câu : Các cha cứ phá, các chú cứ phá, các cô cứ phá, các cậu cứ phá, các con cứ phá, các cháu cứ phá, các chắt cứ phá, các chút cứ phá, các chít cứ phá,... nói xong ông ta cười sằng sặc. Tôi nghĩ bụng, thật là mấy chữ quái ác, đây là định mệnh của dân tộc chăng ? Thảo nào mà đình chùa miếu mạo họ cũng phá, và bao nhiêu thế hệ mà cứ phá như thế thì liệu đất nước sẽ còn gì. Tôi nhớ lại thời "tiêu thổ kháng chiến".
Bao nhiêu công của sức lực, mồ hôi và cả nước mắt của nông dân đổ ra suốt một phần tư thế kỷ để xây dựng, gom góp hết vào Hợp tác xã, bây giờ tan thành mây khói, và số tiền bán đấu giá các tài sản ấy chui vào đâu, ngườì dân không biết.
Tổ tiên Việt Nam qua bao nhiêu đời, bằng kinh nghiệm sống của mình đã đúc kết thành những câu ngạn ngữ, ca dao ngắn gọn rất hay rất đúng để dạy con cháu đời sau về mọi lãnh vực. Như về luật nhân quả thì các cụ nói "Ðời cha ăn mặn đời con khát nước", nghĩa là những kẻ làm điều ác thì sớm muộn gì cũng sẽ phải chịu quả báo ác. Về số phận thì các cụ nói "Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt tráo trưng vẫn nghèo". Ðúng vậy, như thời cải cách, những địa chủ và cường hào bị tịch thu hết nhà cửa ruộng vườn, thóc gạo đồ dùng và tiền bạc họ lấy sạch, chỉ để cho cái chuồng trâu cho con cái ở, giường chiếu không có, phải nằm đất, không còn gì ăn, phải đi mò cua bắt ốc sống qua ngày. Vậy mà bây giờ họ lại giàu có, nhà xây sân gạch, dư thóc lúa tiền bạc. Trái lại, những người ngày trước lấy của họ chia nhau ăn, chỉ sau ít lâu là ăn hết, rồi người được chia nhà thì bán nhà, người được đồ đạc thì bán đồ đạc, rút cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo. Có điều mỉa mai là sau ngày cải cách, thân nhân con cái địa chủ, cường hào bị gọi thằng nọ con kia, khi gặp họ phải cúi đầu chào ông nông dân bà nông dân, thì bây giờ lại chính những người ấy đến nhà các thân nhân con cháu của địa chủ, cường hào vay tiền vay thóc và gọi họ bằng cụ hoặc ông bà tùy tuổi tác, chứ không dám gọi thằng nọ con kia nữa.
Nhưng không lãnh vực nào mà các cụ dạy bảo con cháu kĩ như lãnh vực làm ăn tập thể theo kiểu cộng sản. Các lãnh vực khác thì thường chỉ có một câu hay hai câu là cùng, riêng lãnh vực làm ăn tập thể thì có tới ba câu, đó là : "Cha chung không ai khóc ; nhiều sãi không ai đóng cửa chùa ; nhiều thầy rối ma, nhiều cha con khó lấy chồng". Ngày nay những người cộng sản Việt Nam đã không chịu học bài học của tổ tiên ông cha, mà lại đi học ông Karl Marx, ông Lê-nin, tin rằng các ông ấy nói đúng hơn, hay hơn, nên mới bắt dân làm ăn tập thể, hao tiền tốn của phí công mà chẳng nên việc gì. Rồi đến lãnh vực chính trị cũng thế, tổ tiên Việt Nam thiếu gì đường lối chính sách hay, như vua Thánh Tôn (1054-1072) đời Lý, một hôm ngồi xử án tại điện Thiên Khánh, có công chúa Ðộng Thiên đứng hầu bên cạnh. Vua chỉ vào công chúa mà nói với các quan : "Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, chỉ hiềm trăm họ dại dột, làm bậy phải tội, trẫm thương lắm. Từ nay về sau tội nhẹ thì tha, tội nặng thì giảm bớt đi". Hoặc như Nguyễn Trãi : "Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, đem trí nhân trừ cường bạo". Những giá trị nhân bản cao quí đầy nhân tính như thế, tại sao người cộng sản Việt Nam không học, lại đi học chính sách hận thù đấu tranh giai cấp, tố khổ nhân dân khiến hằng trăm nghìn đồng bào vô tội phải chết oan ? !
Trở lại vấn đề khoán trắng sau khi tập thể Hợp tác xã thất bại. Nghĩa là bây giờ (1985) ruộng đem khoán trắng cho dân, nhưng khốn nỗi trâu bò cày bừa và tất cả nông cụ khác trước đây đã góp hết vào Hợp tác xã, khi Hợp tác xã giải thể, tài sản bán đấu giá, nông dân không được trả lại một món gì, bây giờ lại phải mua sắm đồ mới. Nhưng khó nhất là trâu bò, hàng trăm nghìn đồng một con trâu, dân lấy tiền đâu mà mua ; xăng dầu lại đắt, không đủ sức thuê máy cày. Vả lại, trước kia, khi vào Hợp tác xã thì các bờ ruộng phải phá hết đi để làm thành "ruộng đồng cò bay thẳng cánh chó chạy cong đuôi" để cày máy. Bây giờ ruộng khoán trắng, mỗi nhà vài ba sào (một sào Bắc bộ bằng 366m vuông), dân lại phải đắp bờ lên để đánh dấu và giữ nước, thì dù người có khả năng thuê máy cày cũng chẳng cày được. Cho nên đa số nông dân dùng cuốc và mai để cuốc và bẩy ruộng, và cứ mỗi nhát cuốc giơ lên bập xuống, họ lại nói "Cơ giới hóa toàn quốc" ! Họ bảo "đảng ta" nói nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc mà ! Trẻ em bảy tám tuổi cũng phải cơ giới hóa toàn quốc. Cuốc xong, nhà nào có nhiều người trẻ khỏe thì bừa lấy. Cứ hai người kéo, một người cầm bừa, mấy người đi trên đường thấy thế khen : "Gớm, hai con trâu khỏe nhỉ !" rồi họ cười với nhau thông cảm.
Cảnh ấy làm tôi nhớ lại năm 1975 được xem cuốn phim chiếu trên Tivi ở Sàigòn kể lại cuộc đời của cụ Hồ Chí Minh (lúc đó trong phim cụ được gọi là anh Ba), từ bến Nhà Rồng Saigon cụ xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước, mà một trong những nguyên nhân khiến cụ phải ra đi là cụ thấy người dân phải làm thân trâu kéo cày. Bây giờ đây, sau gần nửa thế kỷ cách mạng thành công, xây dựng chủ nghĩa cộng sản, thì người dân lại phải kéo bừa thay trâu ! Ở Vũ Ðoài tôi chỉ thấy người kéo bừa chứ không ai kéo cày, vì nặng lắm. Cuộc đời thật là cái đèn cù, quay hết vòng thì trở lại. Còn các tệ nạn xã hội như trộm cướp, trấn lột, ăn mày, ăn hối lộ, nghiện ngập v.v...thì vẫn nhan nhản.
Thế là từ sau ngày cải cách đấu tố giết chết bảy trăm nghìn người, đảng cộng sản đã hứa hẹn với nhân dân miền Bắc xây dựng một xã hội thiên đường trên mặt đất, đến nay đã ba mươi sáu năm (1956-1992) mà vẫn chưa thực hiện được, có lẽ nó chỉ là cái bánh vẽ chăng ?
Bây giờ đến lượt miền Nam thì sao ? Như đã nói ở đoạn trên, sau trận Ðiện Biên Phủ, người Pháp đã thỏa hiệp với cộng sản chia đôi nước Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc thuộc cộng sản, từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam thuộc Pháp. Nhưng phe Tư bản do Mỹ cầm đầu, thấy Pháp đã kiệt quệ, chín năm trời hao tiền tốn của mà chẳng làm nên việc, cho nên gạt Pháp ra để trực tiếp can thiệp vào Việt Nam bằng cách đưa ông Ngô Ðình Diệm về dựng lên một chính quyền Quốc gia chống cộng mạnh để bảo vệ thế giới tự do. Sau đó, cộng sản vin vào cớ ấy mà lập ra cái gọi là "Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam" để chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc. Thế là cuộc chiến tranh giữa Quốc gia và Cộng sản lại bắt đầu tại miền Nam.
Chính quyền ông Ngô Ðình Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình trị và có tính kì thị tôn giáo, nên ít được lòng dân. Sau khi đã tiêu diệt các giáo phái khác, như Cao Ðài, Hòa Hảo, năm 1963, ông Ngô Ðình Diệm ra tay đàn áp Phật giáo, toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam đã phải đứng lên chống lại để bảo vệ đạo pháp. Ðến tháng 11 năm 1963, chế độ ông Ngô Ðình Diệm bị lật đổ.
Năm 1965, sau cái gọi là "sự kiện vịnh Bắc Việt", chính phủ Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, đến năm 1966 đổ vào miền Nam nửa triệu quân Mỹ và hàng chục nghìn quân các nước đồng minh Thái Lan, Nam Hàn, Úc Ðại Lợi để trực tiếp chiến đấu, từ đó cuộc chiến trở nên ác liệt, sự chết chóc tàn phá cực kì khủng khiếp. Với nửa triệu quân Mỹ và quân đồng minh mà phe Tư bản vẫn không thắng được phe Cộng sản. Có nhiều nguyên do, nhưng nguyên do chính vẫn là sự hiện diện đông đảo của những đoàn quân ngoại bang trên đất nước Việt Nam đã tạo thêm "chính nghĩa" bề ngoài cho cộng sản Việt Nam, khiến khẩu hiệu "chống Mỹ cứu nước giải phóng dân tộc" của họ trở thành hiện thực, nhờ thế, cộng sản đã động viên được toàn lực nhân dân miền Bắc và một bộ phận lớn nhân dân yêu nước miền Nam có thiện cảm với cộng sản ủng hộ họ, cho nên cuối cùng cộng sản đã thắng. Về điểm này, như đã nói ở trên, phe Cộng sản khôn hơn phe Tư bản, vì họ chỉ dùng người cộng sản bản xứ đánh nhau ngoài chiến trường, chứ không có lính Tàu, Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc v.v... những nước ấy chỉ cho cộng sản Việt Nam vay tiền bạc, súng đạn và cố vấn ở hậu trường mà thôi. Do đó, cộng sản Việt Nam dễ tuyên truyền là nước Việt Nam đang bị quân ngoại bang xâm lăng, mà chống xâm lăng để bảo vệ đất nước là chính nghĩa, thì người dân bình thường và có lòng yêu nước nào mà chẳng tin cộng sản có chính nghĩa. Và bất cứ cuộc chiến đấu nào, hễ có chính nghĩa thì dù có khó khăn, khổ cực đến mấy đi nữa, cuối cùng tất cũng sẽ thắng. Hơn nữa, cộng sản còn vận động được một số nước trong phe Tư bản ủng hộ họ, đồng thời, nhân dân Mỹ thấy cuộc chiến ở Việt Nam chẳng có liên quan gì đến quyền lợi thiết thân của nước Mỹ mà con em của họ phải chết, bởi thế họ đòi chính phủ Mỹ phải đưa trả con em về. Ðó cũng là những yếu tố rất lợi cho cộng sản, cho nên họ càng khai thác tình cảm ấy bằng cách tỏ cho thế giới biết rằng mình là một chú tí hon đang bị một anh khổng lồ cậy khỏe bắt nạt, ức hiếp.
Cũng như người Pháp năm 1954, đã không thắng được thì phải rút quân, nhưng rút cách nào cho khỏi mất thể diện, Mỹ bèn dùng máy bay B52 bỏ bom Hà Nội để buộc cộng sản Bắc Việt phải ngồi vào bàn hội nghị nói chuyện hòa bình. Bởi thế, hội nghị Ba Lê đã được mở ra, đến tháng 1 năm 1973 thì hai bên thỏa thuận đình chiến và Mỹ bắt đầu rút quân. Bây giờ còn lại một mình Việt Nam Cộng Hòa cố gắng kháng cự cộng sản, nhưng đến ngày 30-4-1975, Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng và cộng sản đã chiếm toàn miền Nam. Họ thực sự đã làm đúng khẩu hiệu "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào".
Ngay từ trước ngày 30-4-1975, rồi sau ngày cộng sản toàn thắng và mở cuộc đấu tranh căm thù giai cấp, đánh Tư sản miền Nam, đã có cả triệu người bỏ nước ra đi, thậm chí cho đến nay (1992) người ta vẫn tiếp tục ra đi. Trong số những người vượt biển ra đi ấy, đã có bao nhiêu người bất hạnh vùi thân dưới đáy biển hoặc làm mồi cho cá ? Bao nhiêu người đã đến được nước nào đó, nhưng thuyền của họ lại bị đẩy ra khơi trở lại và số phận họ sau đó ra sao ? Bao nhiêu người đã bị hải tặc cướp bóc hãm hiếp rồi quăng họ xuống biển ? Bao nhiêu người tuy đã đến được bến bờ tự do, nhưng quá sợ hãi vì đã nhìn thấy những điều xẩy ra trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nên đã trở thành điên khùng, mất trí ? Và hiện đang còn bao nhiêu chục nghìn người đang sống lây lất như những con vật hai chân trong các trại tị nạn trên khắp vùng Ðông Nam Á ?
Bao nhiêu người đã chết trong các trại tù trong số hàng trăm nghìn sĩ quan binh sĩ và nhân viên của chế độ cũ mà cộng sản bắt đi học tập cải tạo ?
Rồi ngay trên đất nước Việt Nam hiện giờ đây còn bao nhiêu nhà trí thức, giáo sư, văn nghệ sĩ, tu sĩ, đang phải sống đọa đày trong các nhà tù cộng sản hoặc bị lưu đày quản thúc chỉ vì họ nói lên tiếng nói của lương tri, muốn cho dân tộc được tự do dân chủ thực sự ? Tất cả đều không ai biết được. Thật là khủng khiếp. Suốt bốn nghìn năm lịch sử dân tộc, chưa từng có giai đoạn nào đau thương khổ thảm như giai đoạn này. Ngay cả dưới chế độ thực dân phong kiến thống trị, người dân chẳng ai bỏ nước ra đi, vậy mà ngày nay được "độc lập tự do hạnh phúc" thì hàng triệu người lại ùn ùn bỏ nước ra đi bất chấp hiểm nguy chết chóc là nghĩa làm sao ? Có nhiều người bảo vì nghèo khó mà người Việt bỏ nước ra đi để tìm một cuộc sống khá hơn. Không phải thế. Gần hai mươi năm qua đã biết bao nhiêu người bỏ hết tài sản cơ nghiệp mà có thể họ ăn đến mấy đời không hết để thoát thân, nếu không may phải chết đuối ngoài biển họ cũng vui lòng và bảo chết thế càng mát ! Ngay cả bây giờ đây (1992), các nước tư bản đã vào Việt Nam kinh doanh, kinh tế đang phát triển, đời sống tương đối đở đói hơn trước ; nhưng giả sử có nước nào hào hiệp sẵn sàng đón nhận người Việt Nam đến sinh sống, hoặc có một hòn đảo nào sinh sống được mà quốc tế giúp đỡ cho người Việt đến đó làm ăn và nhà cầm quyền Hà Nội cho họ tự do ra đi không hạn chế, thì tôi tin chắc rằng sẽ có một nửa dân số Việt Nam, nếu không nói là hơn thế nữa, sẽ bỏ nước ra đi một cách không vấn vương thương tiếc.
Tại sao vậy ? Bởi vì ở Việt Nam hiện nay có cái tội danh "phá rối trật tự an ninh xã hội" nó mông mênh lắm, không giới hạn nào, không biết đâu mà tránh, cho nên người dân sống trong tình trạng nơm nớp lo sợ, như con cá nằm trên thớt, không biết mình bị bắt lúc nào nếu lỡ mồm lỡ miệng nói điều gì đó mà đảng cộng sản không vừa lòng là bị khép ngay vào cái tội danh trên và sẽ biến mất vào ban đêm, hàng xóm không ai biết. Bởi thế mỗi khi muốn nói điều gì có liên quan đến chính trị một chút thì phải nhìn trước nhìn sau, thậm chí nhìn cả dưới gầm giường, gầm bàn xem có ai nghe lén không rồi mới dám nói, nhưng cũng không dám nói to đâu, chỉ nói thầm như bàn nhau đi ăn trộm ấy thôi, vì sợ có người núp ở sau nhà nghe lén.
Một người ở xã Vũ Ðoài ra chùa, xin tôi mấy chữ Hán về treo trước bàn thờ tổ tiên trong ba ngày tết. Tôi nghĩ treo trước bàn thờ tổ tiên thì không có chữ nào hợp tình hợp cảnh bằng bốn chữ xưa nay rất thông dụng, đó là bốn chữ ... Ẩm Thủy Tư Nguyên, nghĩa là uống nước nhớ nguồn. Vậy mà công an đến hỏi người chủ nhà những chữ gì, vì anh ta không biết chữ Hán. Sau khi nghe chủ nhà giải nghĩa, anh công an nói : "Coi chừng hắn (tức là tôi) định nói chính trị trong đó đấy !". Sống trong một xã hội luôn luôn bị rình rập và nghi kỵ như vậy, đến mấy chữ uống nước nhớ nguồn mà cũng nghi là chính trị, cũng như tôi bị quản thúc lưu đày đã mười năm nay (1982-1992) chỉ vì cái tội "làm việc tôn giáo cũng là làm chính trị", thì tôi thiết nghĩ dù có ngồi trên đống vàng cũng chẳng cảm thấy hạnh phúc. Bởi vậy bất cứ lúc nào có cơ hội là người Việt Nam sẵn sàng bỏ nước ra đi, chứ không phải vì nguyên do nghèo khó, kinh tế thiếu thốn đâu. Tôi xin kể một câu truyện cổ để chứng minh. Ðức Khổng Tử sang nước Tề, đi qua núi Thái Sơn, thấy một người đàn bà đang khóc ở ngoài đồng, nghe thảm thiết lắm. Ngài nói với đoàn tùy tùng : "Người đàn bà kia hình như trong nhà có trùng tang". Rồi sai Tử cống đến hỏi. Người đàn bà nói : "Ở đây lắm hổ (cọp), bố chồng tôi chết vì hổ, chồng tôi chết vì hổ, bây giờ đến lượt con tôi cũng lại chết vì hổ. Thảm lắm ông ơi !". Tử cống bảo : "Thế sao không bỏ chỗ này đi ở chỗ khác ?". Người đàn bà trả lời : "Tuy vậy nhưng ở đây chính sách quan trên không đến nỗi hà khắc như ở các nơi khác".
Tử cống đem chuyện thưa lại với đức Khổng Tử. Ngài nói : "Các ngươi nhớ đấy : chính trị hà khắc khốc hại hơn mãnh hổ !".
Cũng thế, hàng triệu người Việt Nam ngày nay bỏ nước ra đi là vì sợ một chế độ chính trị hà khắc chứ không phải vì sợ đói khoọ, như tôi đã trình bày ở trên, có những người ăn đến mấy đời không hết của mà vẫn bỏ nước ra đi và có chết ngoài biển cũng vui lòng, như vậy chứng tỏ họ sợ chính trị hà khắc còn hơn cả sợ chết, cho nên ngài Khổng Tử mới nói "chính trị hà khắc khốc hại hơn mãnh hổ" là thế.
Suốt hai mươi mốt năm trời (1954-1975), cộng sản Việt Nam đã tận dụng nhân lực vật lực của nhân dân miền Bắc và của đại bộ phận nhân dân miền Nam, để ra sức "đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào", thì năm 1973 Mỹ đã "cút" thật sau hai mươi năm trút hàng triệu tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống đất nước Việt Nam, rồi đến năm 1975 thì "Ngụy" cũng đã "nhào" thật, cộng sản đã "toàn thắng", chiến công đạt đến tuyệt đỉnh vinh quang. Nhưng sau mười tám năm (1975-1992) vinh quang oanh liệt, đến khi phe cộng sản Ðông âu và Liên xô tan rã, thì giờ đây cộng sản Việt Nam thấy mình hụt hẫng, không còn chỗ dựa, và để cứu vãn nền kinh tế kiệt quệ vì không còn được ai cho vay nên đành phải cúi mặt mà mời người Mỹ trở lại hy vọng bỏ cấm vận. Nhưng khốn nỗi người Mỹ lại làm cao, đặt ra các điều kiện này nọ, mà điều kiện tiên quyết là phải tìm kiếm đào bới cho đủ số hơn hai nghìn lính Mỹ còn bị liệt kê mất tích trong chiến tranh tại Việt Nam. Cộng sản Việt Nam phải trần lực ra đi đào bới tìm kiếm từng mẩu xương khô, và cứ mỗi lần cộng sản giao trả cho Mỹ mấy bộ xương thì Mỹ lại "tưởng thưởng" cho cộng sản một cái gì đó theo như lộ trình họ đã định. Các ông cộng sản Việt Nam có cảm thấy "khó chịu" không ? Nhân đây tôi cũng xin nói với quí ông trong chính phủ Mỹ rằng, nếu quí ông tưởng thưởng cho cộng sản thì cứ nói rõ là tưởng thưởng cho cộng sản, chứ dân tộc Việt Nam chúng tôi với truyền thống Lý Thái Tổ, Lý Thường kiệt, Trần Nhân Tôn, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi v.v... có đi đào thuê cuốc mướn cho quí ông đâu mà quí ông tưởng thưởng cho Việt Nam. Kể cũng chua chát, người Mỹ đã trút hàng triệu tấn bom đạn và chất độc da cam xuống đất nước Việt Nam tàn sát hơn một triệu người dân Việt, bao nhiêu người tàn phế và trẻ em quái thai vì chất độc hóa học, và hậu quả khốc hại của nó còn kéo dài trong nhiều thế hệ nữa ; nhưng vì họ có nhiều đô la (mà trước kia cộng sản cho là đồng tiền "vấy máu") cho nên cộng sản phải cố làm vừa lòng họ. Còn những người dân Việt Nam yếu hèn thì cộng sản đối xử như những con vật, cho nên người dân miền Bắc đã phải nói "ăn như lợn (tức ăn độn), ở như chuột, làm như trâu, đối xử như chó". Lại như H.T. Huyền Quang và tôi chỉ vì cộng sản làm bậy, đập tượng phá chùa, lấy chùa làm nhà hộ sinh (nhà đỡ đẻ), làm rạp chiếu bóng, bắt bớ tăng ni Phật tử một cách bừa bãi, chúng tôi buộc lòng phải phản đối những hành động ngông cuồng và phi pháp ấy của cộng sản, chứ có tranh dành quyền lợi gì với họ đâu, vậy mà họ giam cầm đày ải suốt mười mấy năm nay !
Hơn hai nghìn lính Mỹ mất tích còn có người tìm kiếm đào bới, thế còn hơn ba trăm nghìn lính cộng sản Bắc Việt mất tích thì ai tìm kiếm đào bới ? Còn các ông "Ngụy" đã "nhào" mà thoát thân trước ngày 30-4-1975, và những người vượt biên sau đó, đều bị cộng sản lên án là phản quốc, bây giờ trở thành người nước ngoài gốc Việt, nếu muốn về thăm quê cũ với đô la đầy túi, thì cũng được hoan nghênh là "Việt kiều yêu nước" !
Còn một điều trớ trêu nữa là năm 1954 tại miền Bắc và năm 1975 tại miền Nam, bao nhiêu nhà tư sản Việt Nam cộng sản đánh gục hết để rồi giờ đây phải trải thảm đỏ mà mời tư bản nước ngoài vào, còn gì nghịch lý hơn ? Vậy tại sao cộng sản Việt Nam không mời tư bản nước ngoài vào ngay từ 1945 hoặc 1954 hay ít nữa là 1975 có tốt hơn không ? Tại sao lại đợi đến sau bốn mươi mốt năm (1945-1986) cố sức "đào mồ chôn sống bọn tư bản" chẳng được, gây ra bao nhiêu tang thương khổ thảm đổ nát chết chóc rồi mới chịu rước tư bản vào ? Ðảng cộng sản thường nói, "giữa con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ai thắng ai ?". Ngày nay rõ ràng tư bản nó thắng rồi đó : nó đã vào nằm trong sân, trong đầu giường, thậm chí chui cả vào túi của đảng rồi đó. Xã hội chủ nghĩa chỉ còn cái vỏ thôi, lột vỏ luôn đi cho hợp thời ! Danh có chính ngôn mới thuận, đảng lãnh đạo là đảng cộng sản, tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, kinh tế là kinh tế thị trường tư bản, chắp vá như vậy nghĩa là làm sao ? Nghe nó không ổn. Giá như Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Sô viết còn tồn tại thì nghe còn đỡ, bây giờ còn một mình cộng sản Việt Nam nghe lạc lõng lắm.
Cộng sản giết địa chủ bóc lột để rồi trở lại chính sách canh thu tô của địa chủ, đào mồ chôn tư bản nội địa để rước tư bản nước ngoài vào. Thật cái vòng lẩn quẩn. Thế mà mồm vẫn cứ nói là cách mạng ! Rồi đây, tài nguyên của đất nước, thượng vàng hạ cám, có gì cũng sẽ bị những con bạch tuộc nước ngoài ấy moi móc cho bằng hết. Giá như người Việt Nam mình, một nửa thế kỷ qua, làm được cách mạng kiểu Minh trị duy tân của Nhật Bản thay vì cuộc cách mạng vô sản căm thù đấu tranh giai cấp tàn hại lẫn nhau, thì ngày nay người Việt mình đã có thừa nhân tài và kỹ thuật để làm chủ và khai thác tài nguyên của đất nước, chứ không đến nỗi phải lẹt đẹt theo sau các nước láng giềng và phải mất ba, bốn mươi năm nữa mới đuổi kịp họ như hiện nay. Nhưng trong khi mình đuổi theo ba, bốn mươi năm ấy thì họ lại tiến xa hơn nữa rồi, thành thử mình cứ phải theo sau mãi. Nên nhớ những nước láng giềng ấy, như Thái Lan, Tân Gia Ba v.v... trước đây cộng sản Việt Nam cho họ là tay sai đế quốc Mỹ, vậy mà bây giờ phải theo sau tay sai đó ! Và vinh dự hơn nữa là còn xin gia nhập khối "tay sai" và mời tay sai làm cố vấn kinh tế !
Nhân đây tôi cũng xin nói với các ông tư bản nước ngoài rằng, các ông cứ nói Việt Nam là một thị trường béo bở với bảy mươi hai triệu con người tiêu thụ. Các ông nghĩ lầm rồi đó, không béo bở như các ông tưởng đâu. Này nhé, nhân dân Việt nam tám mươi phần trăm là nông dân sống ở nông thôn, mà người nông dân Việt Nam thì chỉ lo sao cho có đủ hạt gạo để ăn no bụng lá khó lắm rồi, chứ đâu dám mơ tưởng đến những món hàng đắt tiền của các ông. Các ông nên nhớ rằng, Việt Nam đang còn là một trong những nước nghèo nhất, lạc hậu nhất trên thế giới, với lợi tức đổ đồng mỗi đầu người trên dưới hai trăm đô la một năm, trong khi lợi tức đổ đồng của Nhật Bản mỗi đầu người bảy nghìn đô la một năm. Cứ đó suy ra thì Việt Nam phải mất mấy trăm năm nữa mới đuổi kịp Nhật Bản ! Vậy các ông lấy đâu ra bảy mươi hai triệu người tiêu thụ mà cho là béo bở ?. Có béo bở chăng là béo bở mấy ông tư bản đỏ, các ông tham ô và những người buôn lậu thôi, chứ tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam không dám đụng đến chai coca-cola của các ông đâu, chứ nói chi đến các món hàng khác. Như vậy, nếu các ông tính cả bảy mươi hai triệu người tiêu thụ để thu lợi thì các ông sẽ lỗ to đấy !
Tóm lại, đảng cộng sản Việt Nam đã phạm những sai lầm tai hại sau đây đối với dân tộc Việt Nam :
1) Ðảng đã đưa vận mệnh nước Việt Nam ràng buộc vào với ý thức hệ cộng sản quốc tế, dùng dân tộc Việt Nam đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa tư bản để truyền bá chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới bằng khẩu hiệu "Giữa con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ai thắng ai", chốngPháp, chống Mỹ để bảo vệ "tiền đồn (tức là nước Việt Nam) của phe Xã hội Chủ nghĩa" khiến dân tộc Việt Nam đã phải gánh chịu cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng giữa hai phe Tư bản và Cộng sản quốc tế ròng rã hai mươi chín năm trời (1946-1975) trên đất nước Việt Nam, làm cho ba triệu người chết, bốn triệu người bị thương, nửa triệu trẻ em sinh ra quái thai và tàn phế, và hàng triệu tấn bom đạn, thuốc khai quang đã tàn phá đất nước Việt Nam mà hậu quả còn di hại đến không biết bao nhiêu thế hệ sau.
2) Thiết lập một chế độ độc tài độc đảng độc quyền chính trị, không chấp nhận đối lập, một mình một chợ, coi như đất nước này là của riêng mình, thu tóm hết quyền lực vào trong tay một nhóm người, thao túng lũng đoạn, đưa đến tình trạng lạm dụng quyền hành, tham ô thối nát, cai trị tùy hứng, muốn giết ai thì giết, muốn bỏ tù ai thì bỏ, bóp chết mọi mầm mống tư tưởng tự do ; những người thông minh có nhiều sáng kiến có thể làm lợi cho đất nước dân tộc, nhưng không hợp với đường lối chủ trương của đảng, thì không dám nói ra, phải giả điếc giả dại để bảo toàn tính mệnh, kết quả đã khiến cho bao nhiêu nhân tài của đất nước phải thui chột và đất nước rơi vào tình trạng nghèo khó nhất, lạc hậu nhất trên thế giới hiện nay. Không nói đến quá khứ nữa mà ngay bây giờ đây, có bao nhiêu người Việt tài giỏi trên khắp thế giới, đủ mọi ngành nghề, có thể phát triển đất nước một cách mau chóng, nhưng có ai dám về để góp phần xây dựng đất nước đâu ? Không những thế, nếu còn ai sót lại trong nước thì cũng tìm mọi cách thoát thân ra nước ngoài làm giầu cho thiên hạ ! Cái tai hại của một chế độ độc tài hà khắc là thế đó ! Trong khi ấy thì đảng cộng sản Việt Nam phải đi mời ông Lý Quang Diệu của Singapour (một đảo quốc mấy triệu dân), mà trước kia cộng sản Việt Nam cho là tay sai đế quốc Mỹ, làm cố vấn kinh tế cho cộng sản, nhưng ông ta từ chối ! Mới chỉ mười tám năm trước (1975-1992) những người cộng sản Việt Nam thường nói một cách tự hào rằng "Việt Nam ra ngõ gặp anh hùng ! Hà Nội là trái tim của loài người", và chính ông Lê Duẩn lúc đó (1975) là Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam đã nói ở Sàigòn rằng : "Từ nay trở đi không còn một ngoại bang nào dám nhòm ngó Việt Nam nữa". Vậy mà bây giờ phải hạ mình đi mời "tay sai Mỹ" làm cố vấn, nhưng lại bị từ chối ! Còn gì mỉa mai hơn ? Còn gì đau đớn hơn ? Còn gì đáng hổ hơn ?
3) Kích động căm thù đấu tranh giai cấp bằng cuộc cải cách đấu tố năm 1956 tại miền Bắc, khiến bảy trăm nghìn người phải mất mạng và tài sản tiêu tan.
4) Giết địa chủ, cường hào lấy ruộng chia cho nông dân, sau lại bắt dân gom hết ruộng vào Hợp tác xã để thiết lập hệ thống kinh tế chỉ huy theo chủ nghĩa cộng sản. Công việc xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp đã làm hao tổn bao nhiêu công của sức lực của dân suốt hai mươi sáu năm (1960-1986) khiến dân đói khổ để rồi giờ đây giải thể, phá tan Hợp tác xã mà trở về chế độ phát canh thu tô của địa chủ cũ tại nông thôn, và giải tư các xí nghiệp nhà nước, tuyên bố phá sản để theo hệ thống kinh tế thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản tại thành thị.
5) Năm 1954 tại miền Bắc và năm 1975 tại miền Nam, phát động căm thù đấu tranh giai cấp đánh tư sản Việt Nam, khiến hàng triệu người phải bỏ đất nước chạy trốn ra nước ngoài, để rồi giờ đây lại rước tư bản ngoại quốc vào làm ăn khai thác để học tư bản.
6) Lấy học thuyết Mác Lê làm nền tảng cho tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt trong xã hội, dạy dân căm thù đấu tranh giai cấp để giành giật miếng ăn mà bỏ hết luân thường đạo lý, truyền thống nhân ái, hiếu nghĩa và phá hoại các di sản tinh thần và vật chất của tổ tiên, ông cha Việt Nam mà cho là tàn dư của phong kiến.

2.- Đối Với Phật Giáo Việt Nam. >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 599

Return to top