Khi anh nhìn thấy cô đứng trên đỉnh đồi thì đã quá trễ để kịp rẽ sang đường khác. Đổi cái giỏ nặng trĩu sang tay lành, anh nghĩ có thể đi xuống phía dòng sông, nhưng con chó của cô đã đánh hơi thấy anh.
- Duncan, anh Duncan!
Tiếng gọi của cô làm anh đứng khựng lại rồi từ từ quay người. Cô trông thật xinh xắn trong cái váy ngắn cùng với đôi ủng, tóc cô lấp lánh dưới ánh nắng. Tiếng gọi là một lời trách cứ, một câu than phiền về sự bỏ trốn của anh.
- Margaret, tôi đã không thấy cô – anh có ý xin lỗi.
Cô chống hai tay lên cây gậy và ngắm nhìn cái dáng người kỳ lạ, ăn mặc nghèo nàn, vầng trán rộng, đôi mắt sâu thẳm của anh. Nụ cười của cô đầy cảm kích.
- Bác sĩ Euen Overton đi câu. Tôi đi đón anh ấy. Anh có thấy anh ấy không?
Anh lắc đầu và cô bật cười.
- Trong đám bạn học cùng lớp thì anh quả là ít nói, tôi đoán là ý nghĩ về công việc mới của anh đã làm anh kiêu hãnh.
Anh cố nén sự phản kháng của mình một cách khó khăn và gật đầu.
- Tôi đã gặp may, phải không nhỉ?
- Ôi! Mà anh đã được nhận đâu, cô trêu anh, ít nhất cũng phải đến buổi họp chiều nay kia.
Cô chợt im, đột ngột êm dịu lại.
- Cái này sẽ mang lại may mắn cho anh, tôi đã tìm thấy nó trên đỉnh đồi.
Cô đưa cho anh một cành hoa trắng.
- Cảm ơn Margaret.
Giọng anh hơi run. Anh cầm lấy cành hoa và nhét vội vào túi áo.
Một giọng nói to thình lình vang lên sau lưng họ, Overton đang leo lên phía họ, tay vung vẩy cần câu như có ý chào; chỉ trong nháy mắt anh ta đã đến gần họ, những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt đẹp đều đặn của anh ta.
- Thế nào Margaret, cô thật tinh quái, tôi tìm cô khắp nơi suốt hai giờ liền, chơi cái kiểu gì thế ! Cô bỏ rơi ông khách quý của cô như thế đấy hả? – Chào ông bạn Stirling. Cá cắn câu chứ?
- Chẳng đáng gì.
Ngay lập tức Duncan cảm thấy bực bội. Tên nhà giàu hợm hĩnh mà anh đã dễ dàng qua mặt trên lớp này, đã luôn luôn đối xử với anh như một kẻ bề trên.
- Cậu hẳn là chẳng câu được con nào chứ Stirling?
Overton cúi nhìn vào giỏ của Duncan và thốt lên ngoài ý muốn - Mẹ ơi! Gì thế này! Năm, sáu con, lại là cá to nữa chứ! Thế mà tớ, tớ lại chẳng câu được con cá nào cả!
- Cậu có muốn lấy con cá chép không?
- Còn phải hỏi.
Overton khoái trá, nhận vội lấy.
- Vậy lấy hết đi, Duncan đề nghị một cách thân ái.
- Ông bạn quý mến ạ, ông thật tuyệt. Cậu không phiền chứ?
- Phiền gì. Hễ muốn là tớ câu được ngay thôi!
Mặc dầu đã tự kiềm chế, Duncan vẫn không tự ngăn được vẻ khinh thường thoáng hiện trong giọng nói, nhưng Overton đang mải đổ cá từ giỏ Duncan sang chính giỏ mình nên không để ý chút nào đến điều đó.
- Em sẽ thấy ba em ngạc nhiên đến chừng nào khi anh đưa ông xem cá anh câu được - anh ta vừa nói vừa cười với Margaret.
- Nhưng Euen, cô nhẹ nhàng phản đối, đâu phải anh câu được chúng.
- Ôi! Đi câu cũng như trong tình yêu, mọi thứ đều được phép tất.
Anh ta liếc mắt nhìn cô đầy ý nghĩa.
Duncan giũ đôi giày đầy bùn.
- Thôi, đến giờ tôi phải đi đây.
Anh huýt sáo gọi con chó đang nằm trong đám cỏ cao. Overton nhìn con chó và chợt nghĩ ra.
- Phải con Rust không, con chó nổi tiếng ấy? Anh ta hỏi.
- Phải.
- Cậu thật khéo tay.
Margaret rùng mình khi nhớ đến tai nạn.
- Nó hẳn là đã rời ra từng mảnh khi bị chiếc xe tải ấy cán.
- Đúng thế, Duncan trầm tĩnh trả lời, nhưng những mảnh ấy đã chịu dính lại.
- Đáng lý cậu nên làm chuyên viên dán hồ!
Overton cười mỉa, tỏ vẻ là câu chuyện chẳng có gì đáng chú ý.
- Thôi chào! Có lẽ tớ sẽ không gặp lại cậu. Tớ phải về trường Đại học vào thứ năm để kịp gác thi Lockhart.
- Thi lấy học bổng à? Duncan hỏi.
- Chính thế, (Overton tỏ vẻ quan trọng), đó là một trong những nỗi kinh hoàng ám ảnh những chàng bác sĩ nội trú của trường St. Andrews! Mỗi mùa xuân phải coi những bảy trăm thí sinh dự thi vào ngành y.
- Lạ thật! Mệt vậy mà mày còn sống được.
Giọng nói của anh trầm tĩnh đến nỗi đã giấu được nỗi chua cay ẩn trong đó. Vài giây sau, Duncan bỏ đi sau khi chào Margaret.
- Người gì mà kỳ cục!
- Anh cũng sẽ kỳ cục như vậy, nếu anh bị tật như anh ấy – cô mỉm cười.
Trên đường về tỉnh, Duncan tự dằn vặt mình bằng cách tưởng tượng ra cặp Margaret và Overton đi sóng đôi với nhau đến Stincher Lodge, ngôi biệt thự của Đại tá Scott – cha Margaret. Anh như trông thấy phòng đại sảnh rực sáng bởi những khúc củi cháy đỏ trong lò sưởi. Người quản gia với bộ y phục màu xám sẫm đang tiếp trà. Họ đang đợi Joe - Người lương thiện, biệt danh của cha Overton, người giàu nhất Levenford. Margaret sẽ rót trà ra tách và khi đó Euen sẽ vênh váo đi lại trong phòng, đưa trà cho mọi người và khoe tài câu cá của mình.
Euen Overton nắm vững đến tận cốt lõi nghệ thuật xuất hiện trước mọi người với vẻ tốt mã nhất của mình. Anh ta là người con độc nhất và được Joe nuông chiều. Túi anh đầy ắp tiền, và hẳn là việc đó đã góp phần rất nhiều vào tính hợm hĩnh kiêu căng của anh ta. Nhưng mặc dầu vậy, phong cách của anh ta có vẻ kiểu cách hơn là sang trọng, và anh ta đã khéo che dấu điều đó dưới một nụ cười quyến rũ.
Duncan nhớ lại không biết bao lần anh đã lén nhìn tòa đại sảnh đó. Khi anh còn nhỏ, bác bán tạp hóa trong phố thường nhờ anh mang hàng đến “tòa lâu đài”. Thật ra, Margaret và anh đã học cùng một trường vì ở các tỉnh nhỏ của phương Bắc, viện Hàn Lâm địa phương đảm nhận hoàn toàn việc giáo dục, cho nên họ đã dạy cùng một lúc cho cả cô tiểu thư xinh đẹp lẫn người con trai tàn tật của bà giúp việc.
Anh tới Levenford. Đó là một thành phố tồi tàn, uốn quanh một cửa biển đen ngòm, bẩn thỉu với những nhà máy luyện thép nằm dọc hai bên đường ray. Anh đi vào một con đường hẹp mà những cảnh tượng và mùi vị quen thuộc của sự nghèo đói đã được anh cảm nhận quá rõ về chúng.
Anh dừng lại trước một hành lang tối, nhấc cái then cài cánh cửa mục nát và bước vào nhà. Trái với ngoài đường và khu phố, ở đây thật ngăn nắp và yên tĩnh.
Cha anh ngồi ở góc phòng, khác với thường lệ, ông thật tỉnh táo. Từ mười ngày nay, để tôn trọng sự kiện trọng đại, Tom Stirling đã giữ mình trong tình trạng cai rượu đầy lo âu.
- Con đã về đấy à – ông từ tốn hỏi, sưởi ấm tẩu thuốc trong hai bàn tay - Mẹ con đang dọn cơm trong phòng ăn.
Hai người đàn ông trao đổi một tia nhìn đồng tình. Tuy không một lời nào được thốt ra nhưng họ đã hoàn toàn hiểu nhau. Ông già Tom là tay nghiện rượu vô tích sự trong tỉnh. Cách đây ba mươi năm, ông còn là một thanh niên khá nổi danh với cương vị thư ký Hội đồng tỉnh, quản lý trường trung học, quản gia của tòa lâu đài. Bây giờ, người ta chỉ còn thấy cái dáng cao ngất ngưởng của ông trên những bậc đá hoa dẫn tới quán “Sư tử đỏ” và quầy lót thiếc bên trong quán đó. Đã từ một phần tư thế kỷ nay ông không còn làm việc nữa, vậy mà con trai của ông vẫn quý ông.
- Người ta ngả trâu ăn mừng con vào chiều nay đấy - người cha thì thầm. Có đến hàng năm ba mới thấy mẹ con xúc động đến thế.
Duncan nhìn sững vào ngọn lửa trong lò. Anh thấy ở đấy tương lai mờ mịt của mình, tất cả các con đường tiến thân đều bị bít lại một cách không cứu vãn được. Thình lình nghe thấy tiếng động sau lưng, anh quay lại. Mẹ anh đang nhìn anh.
- Mẹ đã ủi xong bộ quần áo màu xanh nước biển của con, Duncan à, mẹ để trên giường của con đấy. Mẹ cũng đã sửa soạn cái áo sơ-mi trắng với cổ hồ bột thật cứng. Chiều nay con phải cần cho ra dáng một chút con ạ.
- Ra dáng! Anh không ngăn nổi giọng cay đắng.
Mẹ anh hé môi nhưng không một lời nào được thốt ra. Thật là kỳ lạ khi thấy bà làm chủ cả căn phòng chỉ bằng sự im lặng của mình. Martha Stirling là một người phụ nữ nhỏ nhắn và mảnh dẻ. Duncan không thể tưởng tượng ra mẹ mình với một hình ảnh nào khác ngoài những chiếc áo màu đen, cũ sờn, khuôn mặt nhăn nheo, tái nhợt trong cái nền đen ấy. Đôi bàn tay nắm lại đặt trước ngực đỏ lựng, nổi gân nứt nẻ. Đôi bàn tay ấy đầy tiếng nói! Chúng nói lên hai mươi lăm năm làm việc nặng nề không ngừng, không nghỉ: giặt giũ, cọ rửa hàng ngàn sàn nhà, bát đĩa; đếm không xiết những lần vá áo, những lần lau chùi mà nhờ vào đấy Martha đã nuôi chồng, nuôi dạy đứa con trai yêu quý của mình với lòng can đảm nồng nhiệt không lay chuyển, với lòng tin kính Thượng đế không bờ bến.
- Khi con trở về, mẹ sẽ dọn cho con một bữa tối ngon lành (việc hơi thả lỏng sự khắt khe thường ngày này đã bộc lộ lòng trìu mến và kiêu hãnh mà người con bà đã khơi dậy ở bà). Mẹ mong rằng con xứng đáng được hưởng nó.
Sự rụt rè cố hữu của anh đã biến mất ngoài ý muốn và những lời nói vì sự cấp bách của nỗi tuyệt vọng đã bật lên.
- Thưa mẹ, con phải khó khăn mới thú nhận được với mẹ, nhưng con bắt buộc phải nói rằng con không thích được nhận làm việc ấy.
- Tại sao không? Câu hỏi như ngọn roi quất vào anh.
- Bởi vì con ghét nó!
- Con ghét nó! Bà ngạc nhiên nhắc lại.
- Đó là một công việc không thích thú, nó chẳng dẫn đến mục đích nào cả. Nếu con nhận làm, con sẽ bị ràng buộc vào nó suốt đời.
- Im đi – Bà cố gắng lấy lại sức để nói – Cái ngày mà mẹ thấy chức vụ thư ký Hội đồng tỉnh bị phỉ báng như thế này thật là một ngày đáng buồn. Thế mẹ có thể biết con thích làm gì không?
Anh sôi nổi trả lời:
- Mẹ biết rõ là con vẫn luôn thích làm gì rồi mà.
Một ánh thông cảm hiện ra ở bà và bà dịu lại. Lúc này bà nói với anh với vẻ thương cảm, như thể muốn lôi anh ra khỏi một giấc mộng trẻ con và quá đẹp.
- Tội nghiệp Duncan của mẹ! Mẹ tưởng rằng con đã gạt bỏ những ý tưởng rồ dại đó rồi chứ. Chúng ta chỉ là những công nhân nghèo. Vả lại, dù cho là chúng ta có đủ tiền để cho phép con học cái con thích đi nữa thì cũng không được !!… Giọng bà đầy thương hại. Mẹ biết cái gì tốt với con, con à. Trong suốt ngần ấy năm, mẹ đã làm việc và cầu nguyện để có một ngày con lĩnh được cái chức vụ danh giá mà cha con, vì sự yếu đuối của mình đã làm ô danh nó. Bà lắc đầu, ra ý cuộc bàn cãi ngừng ở đấy. Bây giờ, đi thay áo đi con, con không nên đến chậm.
Duncan cố ghìm lòng lại để khỏi bộc lộ những lời khẩn khoản. Chả lẽ mẹ anh không có lý hay sao? Anh, anh có thể làm gì được với sự nghèo nàn về vật chất và thể xác của mình? Anh vội lên phòng thay quần áo.
Ở đấy, trong căn gác xép của riêng anh, Duncan hướng ánh mắt vào những cuốn sách mà anh đã từng miệt mài nghiền ngẫm đôi khi tới tận hừng đông. Tất cả đều thật vô ích! Những giọt nước mắt nóng bỏng chợt dâng lên mắt anh.
oOo
Ngồi trên chiếc băng đá cứng trong phòng chờ ở tòa thị trưởng, Duncan nghe thấy những lời lẽ thật tầm thường khiến cho niềm cay đắng của anh càng trĩu nặng.
Hoài bão tuyệt vọng của anh có giá trị gì? Giá trị gì cái khả năng, cái thuận lợi có sẵn trong anh về việc thu nhận kiến thức, cái tài trời cho về khoa học đã làm nảy sinh những tư tưởng, những hoài vọng mà anh ao ước với tất cả tâm tư? Anh tự biết mình có một tài năng hiếm có – tài chữa lành bệnh cho người khác. Rust, con chó bị xe cán, đã sống lại dưới hai bàn tay khéo léo của anh. Một ngày nọ, trong lúc chơi đùa, một bạn anh đã bị trặc vai, Duncan nhớ như in cách anh đã sửa lại cái vai trặc đó, nhờ vào vài động tác của cánh tay lành của mình và đã làm nhẹ được sự đau đớn của đứa bé đang khóc nức nở.
Cánh của bật mở và Todd, người thừa phái bước vào, ra hiệu cho anh.
Qua màn khói thuốc lá trong phòng, Duncan trông thấy những cố vấn Hội đồng ngồi chung quanh chiếc bàn dài bằng gỗ sao. Anh chỉ thấy độc một nụ cười thân thiện - nụ cười của Đại tá Scott – cha Margaret, chủ tịch Hội đồng tỉnh. Ngoài ra, trong buổi họp còn có Troup, tay nhà hòm, Leggat, luật sư, mục sư Simpson – tất cả những kẻ trung lưu bình thường của một tỉnh nhỏ. Nhưng thành viên cuối cùng của Hội đồng thì không phải là một kẻ có cá tính tầm thường – Joe – Người lương thiện, triệu phú tự tạo và đã hào phóng đóng góp cho quỹ nhà thờ. Sự thành công của ông ta đã có tiếng vang đến những vùng lân cận. Nhìn ông ta, Duncan cảm thấy là anh đã gặp một kẻ thù địch.
Đại tá Scott là người cất lời đầu tiên, ông mỉm cười với Duncan để tạo cho anh một sự dễ chịu.
- Tôi sung sướng gặp cháu, Stirling à… Thế nào! Quý vị ạ, tôi nghĩ đây là ông thư ký mới của chúng ta. Tất cả chúng ta đều biết Duncan Stirling, việc hôm nay chúng ta làm chỉ là một thủ tục mà thôi.
- Xin lỗi cho tôi nói, Joe Overton nện quả đấm lên bàn - mọi người đều sợ ông ta và họ hiểu quyền lực ông ta thao túng họ đến mức nào – tôi xin hỏi, anh ta có xứng đáng với chức vụ đó không?
- Vâng, Stirling này, tật của anh từ đâu mà có vậy?
Tay chủ nhà hòm hau háu hỏi. Ông ta nhìn chằm chằm vào cánh tay Duncan với một vẻ tò mò bệnh hoạn.
Duncan kịp ghìm lại câu trả lời bất mãn.
- Tôi bị sốt tê liệt năm mười hai tuổi.
- Sốt gì?
- Sốt tê liệt trẻ em, đồ ngu, ông đại tá hét lên. (Ông quay sang Duncan) Cháu biết các điều kiện đấy. Được nhận làm trong năm năm, có thể gia hạn thêm. Ông mỉm cười, có nghĩa thực tế sẽ là một việc làm suốt đời, và một khoản lương khởi điểm ba mươi shilling mỗi tuần.
- Xin lỗi Đại tá, Overton lại cắt ngang, ông đừng quên là vào lúc này tôi sắp thực hiện chương trình điện khí hóa thành phố Linton, cái chương trình mà tất cả quý vị đều chú ý. Do đó chúng ta cần một thư ký đáng tin cậy.
- Đúng đấy, mục sư Simpson gật đầu, mắt nhìn lên trần.
- Quả vậy, Overton nói tiếp. Ngoài ra còn một điều nữa mà tôi muốn nêu ra đây. Trước đây, cha anh ấy đã giữ chức vụ này. Có gì đảm bảo rằng anh ta không trở nên giống như ông ấy?
Một khắc im lặng như tờ. Duncan cảm thấy dòng máu nóng chạy rần rật khắp người. Anh hiểu rõ nguyên nhân của cuộc tấn công ác độc này. Từ lúc nhỏ, ngay ở nhà trường, anh đã dám học vượt Euen Overton, quý tử của con người giàu sang có quyền lực nhất xứ, và người ta đã không bao giờ tha thứ cho anh điều ấy.
Thình lình những dây thần kinh quá căng thẳng qua nhiều tuần lễ tuyệt vọng lại bị hành hạ bởi cuộc hỏi cung này đã bật tung ra. Anh nhìn thẳng vào mặt Joe - Người lương thiện với một sự bất cần liều lĩnh và đầy bực tức.
- Vậy chúng ta hãy bàn một chút về đạo đức của ông (giọng Duncan to lên và đanh lại). Ông định đóng vai trò người bảo vệ cho cộng đồng, ấy thế mà ông lại không ngừng tìm cách thu lợi cho riêng mình?
- Đây thật là lời phỉ báng Hội đồng, Overton la lên.
- Thật ư? (Bây giờ thì Duncan cũng la to như Overton) Vậy ông giải thích thế nào khi ông đã mua một lô đất chỉ với một số tiền ít ỏi và bán nó lại cho thành phố với một giá cắt cổ để xây ở đó nhà máy khí đốt?
- Nói láo! Overton phản đối, mặt đỏ lên vì giận.
- Thế còn hai mươi nghìn bảng mà ông đã thu được khi xây thư viện thành phố với gạch và vữa mục của ông, cũng là nói láo à?
- Quá lắm rồi, quý vị ạ! Troup hốt hoảng lắp bắp, chúng ta chịu được thế này sao?
Duncan giận dữ quay lại anh ta.
- Tất cả mấy người cùng ở trong áp-phe đó, và tất cả thành phố đều biết chuyện đó. Mọi người đều biết rằng anh đã thu được hai phần trăm hoa hồng với những cái hòm gỗ tạp anh bán cho viện tế bần ấy.
Trong một thoáng, sự im lặng nặng nề và hốt hoảng bao trùm phòng họp của Hội đồng, rồi tình trạng ồn ào lại bật lên.
Một cách vô hiệu, Đại tá Scott cố gắng bẻ gãy sự chống đối, cố gắng tập hợp những lực lượng có lợi cho Duncan.
- Thưa quý vị, thưa quý vị…, đừng quá nóng như vậy, nói thẳng không úp mở vẫn là đặc quyền của tuổi trẻ mà!
Nhưng lời của ông bị lấp bởi những tiếng la lối của Overton.
- Anh sẽ không bao giờ có được chức vụ này. Ngày nào mà tôi còn ở đây, anh sẽ không bao giờ có được.
- Tôi cóc cần nó, Duncan hét vào mặt ông ta. (Ngay vào lúc này thì anh không cần thật) Thà tôi chết đói mà giữ được lòng tự trọng.
- Anh nói rồi đó, rồi anh sẽ chết đói, Overton thét to, tay khoa lên, sự nghiệp của anh đã chấm dứt ở Levenford. Anh sẽ nhớ buổi chiều này khi mà anh chui xuống bùn van xin lòng bố thí.
- Ông cũng vậy, ông sẽ nhớ nó khi tôi nổi tiếng khắp thế giới.
Lời sau cùng này khiến mọi người im lặng. Họ ngồi sững lại nhìn theo anh.
Ra tới bên ngoài, anh thấy chiếc xe đại tá Scott. Margaret đang ngồi ở tay lái. Cô ta cố ra hiệu cho anh, mắt hãy còn long lanh những giọt nước mắt vì cười.
- Duncan! Cô thốt lên. Neil Todd vừa kể cho em nghe tất cả, bác ấy đã lén nghe ở cửa, em đến chết cười mất. Và cô ta lại tiếp tục cười phá lên.
Hãy còn bừng bừng xúc động, Duncan cảm thấy người run lên và hàm răng cắn chặt lại. Việc Margaret biến tấn bi kịch vừa rồi thành trò đùa làm anh tự ái.
- Margaret à! Đó không phải là trò đùa đâu – Anh sầm mặt nói.
- Đương nhiên là không (cô ta im một lát), và có lẽ anh đã dại khi từ chối chức vụ ấy. Anh định làm gì bây giờ?
- Tôi cũng không biết nữa (anh nắm chặt tay lại). Nhưng điều mà tôi biết chắc là tôi sẽ đấu tranh với hết sức mình.
Cô ngạc nhiên nhìn anh, một ý tưởng chợt hiện ra trong đôi mắt xanh long lanh của cô.
Còn anh, trong lúc đó, anh nhìn cô đăm đăm. Cô thật xinh! Thật toàn hảo trong mọi nét như một công chúa xa lạ. Quyết tâm của anh sắc lại. Bất chợt lòng anh tràn ngập một nỗi ước muốn nói lên những hy vọng của mình cho cô nghe.
Anh nghe thấy giọng của mình thật sôi nổi.
- Margaret à! Cô đừng chế giễu tôi nhé. Suốt đời tôi, tôi luôn luôn muốn trở thành thầy thuốc. Tôi biết rằng khả năng đó có trong tôi, tôi phải được quyền săn sóc và chữa bệnh, tôi phải thành công (anh không để cô kịp nói lời ngăn cản thường lệ ) Tôi biết rằng tôi bị khuyết tật nhưng điều đó không ngăn tôi được. Tôi sẽ là một thầy thuốc giỏi hơn tất cả những thầy thuốc khác.
Một lát im lặng trôi qua. Cô gái cảm nhận được ý nghĩa của hoài bão đó và cô cảm thấy bối rối. Cố gắng dằn bớt nó lại một cách chiếu lệ, cô nói:
- Phải chi anh có thể vào Đại học St. Andrews, Euen Overton sẽ giúp anh. Cha tôi sẽ viết thư cho chú tôi là khoa trưởng của trường.
Sự quan tâm mà anh cảm nhận được trong giọng nói của cô làm anh tràn ngập niềm vui.
- Cô thật rộng lượng khi có ý giúp tôi. Nhưng tôi đã có kế hoạch rồi. Tôi đã nghĩ đến nó hàng tháng nay.
- Kế hoạch thế nào?
- Đừng hỏi gì hết, anh chậm rãi trả lời cô. Nó là một sự điên rồ. Hy vọng thành công của tôi chỉ khoảng một phần triệu.
Một lần nữa, khoảng im lặng lại tới. Rồi cô mỉm cười, siết nhẹ vai anh để làm anh an lòng.
- Em chắc chắn mọi việc sẽ được dàn xếp ổn thỏa. Ồ! Đèn trong phòng họp đã tắt. Cuộc họp xong rồi. Nhanh lên Duncan, không nên để họ thấy anh ở đây.
Đó không phải là cách anh định chào cô, nhưng anh hiểu là anh có thể làm cho cô mang tiếng khi ở lại cạnh cô. Anh muốn nói với cô một câu ngắn để bày tỏ tất cả những gì anh nghĩ về cô, nhưng không nói nên lời. Anh siết tay cô và ấp úng lời từ giã khách sáo.
Về tới nhà, trong anh vẫn còn tràn đầy nỗi kích động. Cha anh ngừng đung đưa chiếc ghế dài khi anh vào đến bếp.
- Mẹ con đi đón con cách đây hai chục phút. Bà không đủ kiên nhẫn ngồi đợi tin mừng.
- Tin mừng nào?
Anh kể lại những gì đã xảy ra một cách vắn tắt. Lúc đó một sự im lặng khác thường bỗng ập xuống, chỉ bị khuấy động bởi tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ cũ kỹ treo trên tường. Rồi ông già Tom đứng thẳng dậy, từ từ đưa tay ra bắt thật chặt tay con. Không một lời nào được trao đổi, nhưng có cần phải có lời nào không!
Duncan sôi nổi thốt lên:
- Ba ạ! Phải chăng điều quan trọng là làm được điều người ta muốn làm?
- Phải, con trai à, không gì quan trọng hơn.
- Ba, thứ năm tới sẽ có một cuộc thi lấy học bổng tại Đại học St. Andrews. Đó là một cuộc thi tự do, mọi người đều có quyền dự thi dù là “con ông cháu cha” hay là một kẻ nghèo mạt như con. Có ba học bổng được trao, và bất cứ cái nào trong số đó cũng sẽ đem lại sự tự do, sự tự do học Y khoa! (Anh ngừng một lát, choáng váng và lấy lại sức) con không nói chắc là con gặp may, nhưng, dù có phải chết vì nó, con cũng cố gắng thử vận may ấy.
Ông già Tom ngắm con với đôi mắt ẩn dưới hàng lông mày màu cát trắng, lấp lánh những tia nhìn hãnh diện. Ông rót đầy hai ly Whisky và đưa lên.
- Ba uống mừng con, con trai ba! Mừng Duncan Stirling, bác sĩ Y khoa. Trong mười năm nữa, con sẽ là người thầy thuốc giỏi nhất vương quốc Anh, và quỷ tha ma bắt những ai nói trái lời ba.
Ông uống một hơi hết ly rượu rồi đập vỡ ly trong lò sưởi.
Vào lúc ấy, cửa bật mở và một luồng gió xoáy vào phòng. Martha Stirling, mặt nhợt nhạt và căng thẳng đứng ngay cửa. Đôi mắt rực lửa của bà thấy ngay rượu trên bàn. Môi bà mím lại:
- Tôi có cảm tưởng là đã quấy rầy hai bố con.
Ông Tom ngẩn ra, khẽ nói lời xin lỗi.
- Đáng lý tôi phải đoán trước việc ông làm! Bà tiếp tục chua chát nói, thật là quá lắm, dám lôi vào việc nhậu nhẹt cả đứa con khốn khổ của mình.
- Má (Duncan bước vội lên) má hãy giữ lời.
- Còn con! Con có giữ lời không?
Vậy ra, bà đã biết. Trong một khoảng nặng nề hai mẹ con đối đầu nhau. Và rồi những lời nói tuôn ra như một dòng thác.
- Không bao giờ, không bao giờ mẹ đoán trước điều ấy, sau bao hy vọng, bao lời cầu nguyện! Bây giờ, con chỉ có một việc để làm là hãy tới nhà ông Overton, xin lỗi ông ấy và nói rằng con xin rút lại tất cả những gì đã nói.
- Con không rút gì hết, anh ngắt lời bà, không rút gì hết! Con rất tiếc là đã làm mẹ buồn, nhưng con đã quyết.
Đọc qua ánh mắt nhìn sững của anh, bà thốt lên:
- Vẫn lại những mộng tưởng rồ dại của con, ước muốn điên rồ muốn trở thành bác sĩ?
Anh gật đầu.
Bà run lên vì giận và thất vọng! Chính bà luôn cầu mong sự sung sướng cho con, nghĩ đến tương lai của con lại không thể hiểu nỗi hoài bão của con mình.
- Mẹ hỏi lần cuối, con có chịu xin lỗi Hội đồng không?
- Không, thưa mẹ.
- Vậy, giữa mẹ con ta coi như không có gì hết. Con sẽ ra khỏi nhà này ngay chiều nay và một khi đã ra đi thì đừng bao giờ trở về nữa.
Ông Tom đi lại giữa vợ và con, cố dàn xếp, nhưng bà đã thẳng tay đẩy ông ra.
- Mẹ đã nghĩ kỹ những gì mẹ nói! Nếu bây giờ con đi thì đi luôn đi.
Duncan nhìn sững mẹ một lúc lâu rồi anh trầm tĩnh nói:
- Tùy ý mẹ!
Lặng đi vì đau đớn và cay đắng, bà cụ sững sờ.
Trong phòng anh, nơi gác xép, Duncan gói sách vở và quần áo lại thành một bọc. Xuống tới bếp, anh gặp cha anh và con chó Rust quen thuộc đang đứng chờ.
Ông Tom lục trong túi, hắng giọng:
- Ba muốn con giữ cái này, Duncan à. Nó không quý hóa gì mấy. Ba không có tiền, nhưng vẫn còn cái này cho con.
Đó là chiếc đồng hồ có dây đeo của ông nội Duncan để lại. Chiếc đồng hồ bằng vàng, dây đeo bằng bạc, một bảo vật truyền từ đời này sang đời khác và dù có đói nghèo, cũng không bao giờ bị đem cầm hoặc bán.
- Không, Duncan từ chối, con không thể nhận nó đâu.
Ông Tom bắt con nhận kỷ vật ấy và ông bày tỏ lòng thương yêu của mình qua cái bắt tay.
- Tạm biệt con, chúc con may mắn.
- Tạm biệt, ba!
Duncan nhặt gói đồ lên và quàng vào vai.
- Tạm biệt, má! Anh kêu lớn.
Không có tiếng trả lời.
oOo
Đêm đó, Duncan đi được khoảng hai chục cây số trên con đường gần hai trăm cây số giữa Levenford và St. Andrews. Vào quãng 4 giờ sáng, anh nằm duỗi thẳng người trên một bờ dậu, mắt nhìn sững vào mảnh trăng khuyết thỉnh thoảng bị che khuất bởi những đám mây trôi nhanh. Anh không thể nào ngủ được. Trong túi chỉ còn vài đồng bạc lẻ. Anh đã vứt bỏ quá khứ. Ngưỡng cửa gia đình từ giờ đã bị ngăn cấm. Càng nghĩ anh càng thấy mình là tên con trai điên rồ, rởm đời. Anh muốn chơi một canh bạc với định mệnh nhưng những con bài đều giả. Tuy nhiên, lòng can đảm của anh vẫn còn nguyên vẹn.
Ngày hôm sau, anh lại đi thêm ba mươi cây số nữa. Tránh qua những thành phố, anh chỉ chọn những con đường làng và băng qua đồi. Vào giữa trưa, anh mua một ít bánh mì trong làng và ăn một bữa đạm bạc rồi uống nước ở dòng suối bên cạnh. Phong cảnh đồng quê làm anh cảm thấy vui thích. Anh ngắm nó không chán. Những ngọn núi đầy thông xanh và những cụm gai hồng, những cánh đồng tươi mát, với những con sông rì rầm chảy về xuôi. Thỉnh thoảng nổi lên những đốm nhạt tạo bởi những trang trại quét vôi trắng giữa những cánh đồng nhỏ được chăm sóc kỹ. Kế bên đường, một đàn cừu đang thảnh thơi gặm cỏ.
Xế chiều, khi tới giữa một thung lũng, Duncan nhận thấy vài giọt mưa đầu tiên. Chỉ trong chốc lát, mưa rơi như trút nước, gió nổi lên làm anh lạnh thấu xương.
Vào lúc hoàng hôn, anh tới làng Linton. Con đường làng duy nhất vắng tanh, bưu điện và các cửa hàng đều đóng cửa, mọi cửa nhà đều cẩn thận khép kín. Duncan quyết định không đi thêm nữa và tìm một chỗ trú đêm. Anh dừng lại trước ngôi nhà của người bác sĩ trong làng. Đó là một ngôi nhà tiện nghi bằng đá xám và trên cửa rào có tấm bảng ghi: Bác sĩ Angus Murdoch, nội khoa tổng quát và giải phẫu.
Sát bên nhà, Duncan nhận ra một nhà để xe nhỏ. Run lên vì lạnh, anh bước vào đấy và đặt bọc đồ xuống đất, cố làm khô người.
Một lát sau, cửa bật mở và một thiếu nữ đầu đội khăn chạy vụt vào. Trong lúc vội, cô suýt đụng phải anh và dừng lại, ngạc nhiên ngắm anh.
- Xin lỗi! Tôi đã tự tiện ở lại trong…
- Chuồng gà nhà tôi (cô nghiêm trang gợi ý, nhìn thẳng vào mắt anh) tôi vừa cho chúng ăn xong.
Cũng với vẻ giản dị ấy, cô nói thêm:
- Anh ướt hết rồi. Mời anh vào trú trong căn bếp nhà tôi.
- Không dám, cám ơn cô.
Lòng tự ái không cho phép anh nhận lời, nhưng cô nài nỉ.
Anh đi theo cô vào trong khu vườn mà dù trời tối anh vẫn dễ dàng nhận thấy là nó được chăm sóc kỹ. Cô gái mở cửa sau và đẩy anh vào gian bếp. Một cô hầu đứng dậy khi họ bước vào.
- Anh hãy ngồi cạnh bếp lửa, cô nói. Khi nào quần áo anh khô, chúng tôi xin mời anh ăn tối. Sau đó, nếu anh muốn, anh có thể tiếp tục đi.
Duncan vừa nhìn cô, vừa làm theo lời cô dặn. Cô gái khoảng 18 tuổi, dáng gọn gàng và trau chuốt, thân hình thon đẹp, nước da màu hồng kem ẩn chứa một sức khỏe hoàn hảo, tóc cô để giản dị. Nét nổi bật trên khuôn mặt cô là đôi mắt sâu thẳm nhìn người và sự vật với vẻ hoàn toàn trầm tĩnh và dịu hiền.
Trong trạng thái tinh thần căng thẳng của mình, sự trầm tĩnh ấy làm anh nổi đóa.
- Cô vẫn mời những tên lang thang đi qua trước cửa nhà cô ăn tối à? Anh hỏi.
- Vâng, thật ra tôi cũng tưởng anh là thế cho đến khi anh vào nhà. Nhưng này, lang thang thì không bao giờ dám nói như anh đâu, ít ra là trước khi ăn.
- Tôi có bảo là tôi đói đâu.
- Nhưng anh đói, thật mà, đừng có chối.
Anh cố chống lại một cảm giác bối rối, ngượng nghịu. Gian bếp thật ấm cúng và mùi thơm của các món ăn làm anh cồn cào.
- Có việc gì mà anh đi qua đây vậy? – Cô hỏi (ánh mắt thân thiện), tôi có thể biết anh là ai và anh đi đâu không?
Anh cảm thấy lòng trào lên một cảm xúc quý mến cô, như thể cô là em gái mình và nói với cô:
- Tôi đi lên trường St. Andrews.
- Để học gì? (Mắt cô bỗng sáng lên).
Bị dồn tới chân tường, anh đành trả lời:
- Y khoa.
Cô vỗ tay:
- Ôi, tuyệt quá! Cha tôi sẽ rất vui sướng khi anh nói với ông điều ấy. Ông sắp về sau khi đi một vòng thăm bệnh.
- Ông khám bệnh ở làng này à? Duncan hỏi.
- Ông là thầy thuốc duy nhất trong làng này đấy.
Họ nghe thấy tiếng bánh xe lạo xạo trên sỏi và tiếng đóng cửa xe. Một lát sau, bác sĩ Murdoch bước vào.
Đó là một ông cụ nhỏ bé, vẻ khó đăm đăm, da mặt đỏ ửng, dãi dầu sương gió, nhăn nheo vì tuổi già và công việc. Ông hẳn đã sáu mươi nhưng bộ ria của ông vẫn kiêu hãnh vểnh lên và đôi mắt xám vẫn còn trong sáng. Cái mũ đi săn đội tới tận tai, và người ông bọc trong cái áo choàng dài gần tới ủng.
- Jeanne, Jeanne! Bữa ăn tối xong chưa? Cha đói đến mức có thể ăn hết một con bò đấy.
Chợt nhận ra sự có mặt của Duncan, ông ngừng giọng, nhìn anh từ đầu đến chân. Vừa cởi áo choàng, ông vừa tiếp tục quan sát.
- Thế nào, thế nào! Chúng ta có cái gì đây? Lại một tên khốn khổ nữa rồi! Jeanne, con giết cha mất, với lòng tốt luôn rộng mở của con. Trời phù hộ cho tôi! Thế nào, chàng trai trẻ, anh có gì để nói?
- Không có gì cả!
Duncan đã đứng dậy trong khi ông nói, mặt anh dần dần đanh lại.
- Anh tưởng tôi có thể chấp nhận một câu trả lời như vậy trong chính ngôi nhà của tôi ư, một câu trả lời từ một tên nhóc con mà gió đã lùa vào gian bếp của tôi? Ông gầm lên.
- Tôi có thể đi ra khỏi nhà cũng nhanh như lúc vào.
Duncan bước về phía cửa.
- Đứng lại! Murdoch gầm lên. Thằng nhỏ điên cứng đầu! Anh tưởng tôi có thể cho đứng ở ngoài đường một con người hoặc một con thú vào một buổi tối như thế này à? Tôi chỉ muốn nói đùa thôi. Trời đất quỷ thần ơi, anh thật nóng tính như quỷ ấy. (Đôi mắt xám của ông long lên) Vậy mà thực ra tôi lại thích tính ấy.
Duncan từ từ quay lại. Anh cảm thấy yếu sức hẳn và choáng váng. Anh lảo đảo, run lập cập. Ông Murdoch lao vội về phía anh và dẫn anh tới một chiếc ghế bành. Bây giờ giọng nói của ông trở nên êm dịu hơn:
- Nào nào! Ông bảo anh, không khỏe à? Anh sẽ bị sưng phổi nếu không thay áo ngay. Jeanne! Chạy đi lấy cái áo của ba lại đây, nhanh lên.
Sự thoải mái do quần áo khô ấm mang tới vượt quá sức mong đợi của anh. Sau khi thay quần áo, rửa mặt trong nước nóng, Duncan cảm thấy người khác hẳn, chỉ còn có cái đói hoành hành. Người thầy thuốc già quan sát kỹ vị khách của mình.
- Tôi cá là bữa ăn tối của tôi đã được nấu xong. Để phạt anh về cái tội hỗn hào, quỷ tha ma bắt tôi nếu tôi không bắt anh ăn chung với chúng tôi tại phòng ăn.
Ngồi vào bàn giữa bác sĩ Murdoch và con gái ông, đầu tiên Duncan cảm thấy vụng về và ngượng ngập. Nhưng khi những món ăn được đem lên, anh quên tất cả và ăn như chưa từng được ăn bao giờ. Đầu tiên là món súp kiểu Tô Cách Lan, kế đó là giò hầm nhừ mọng nước, rồi khoai tây đút lò và món củ cải trồng trong vườn. Về món tráng miệng thì có bánh dâu kèm với kem đặc đến nỗi dính cả vào muỗng.
Người thầy thuốc già vẫn quan sát vị khách và một nỗi thương cảm kỳ lạ làm mờ mắt ông. Ông liếc nhìn con gái đầy hàm ý.
- Cậu dùng thêm kem nữa chứ? Trời hại tôi nếu tôi nhớ được tên cậu.
- Cháu tên là Stirling, Duncan nói nhỏ, Duncan Stirling.
- Duncan Stirling, Murdoch lặp lại. À ra thế, một cái tên đẹp, đặc Tô Cách Lan. Cám ơn trời, mặc dù cậu là một chàng trai cứng đầu và điên rồ nữa. Nào, không có gì tốt hơn một bữa ăn tối ngon lành, chắc dạ.
Vào cuối bữa ăn, Duncan thở một hơi dài khoan khoái, nhưng rất nhanh, anh bẽn lẽn nhìn chủ nhà.
- Cháu nghĩ là cháu đã đói khủng khiếp.
Murdoch tặc lưỡi.
- Cậu thật ra đã theo đúng toa thuốc của tôi “Ăn khi bị cảm lạnh và nhịn ăn khi đau bụng”
Jeanne phá ra cười khi nghe cha mình nói.
- Tha lỗi cho con, cô nói, vẻ ân hận, tại vì khi nói đến toa thuốc con mới nhớ, anh Stirling đi lên trường St. Andrews để học y đấy.
- Sao? (Một lần nữa bác sĩ Murdoch nhìn chăm chăm vào vị khách của mình). Ra thế đấy! Ông nói.
Duncan cố gắng thản nhiên trước ánh mặt của ông.
- Vâng! Cháu cố thử xem. Với cánh tay có tật của cháu và cả những thứ còn lại…
- Cậu đã ghi danh chưa?
- Thưa đã, xong hết rồi ạ.
- Và, ờ… cậu đã đóng học phí chưa?
Duncan mỉm cười:
- Bác sĩ Murdoch, bác làm cháu ngạc nhiên. Bác tưởng rằng người ta có thể để cháu học miễn phí trong một trường đại học Tô Cách Lan ư?
- Không, tất nhiên là không! - Nụ cười của Murdoch giấu những suy nghĩ của ông, nhưng trong lòng ông lại nghĩ “Nhờ trời, trông thằng nhóc còm nhom, đói ăn và kiêu hãnh này, có một cái gì đó nhắc lại thuở xưa đẹp đẽ của thằng nhóc Angus Murdoch” - Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn lên St. Andrews, ông nói. Tôi vẫn mua thuốc và sách ở đấy (ông chỉ vào những kệ sách dày đặc trên tường) khi nào chúng tôi lên đó, Jeanne và tôi, chúng tôi sẽ ghé chỗ anh. Anh ở số mấy?
Duncan ngập ngừng:
- Cháu… cháu chưa quyết định. Cháu còn phải nhờ ông khoa trưởng chỉ cho một phòng trọ.
- Bác sĩ Inglis ấy à? Murdoch tiếp tục nói. Tôi thân ông ấy lắm. Vậy, dù anh ở đâu, chúng tôi cũng chắc chắn tìm ra anh.
Duncan nhận ra ông thầy thuốc tinh ranh cơ hồ đã biết rõ ruột gan anh, nhưng, trái với điều anh trông chờ, ông thình lình bỏ lửng câu chuyện.
- À, còn về sách, ông nói, nếu anh có chút gì gọi là tri thức, hẳn anh sẽ thích nếu tôi cho anh xem mấy thứ này mà tôi rất hãnh diện.
Trong lúc Jeanne ra khỏi phòng vì bận việc dọn dẹp, bác sĩ Murdoch lại gần các kệ sách và làm cho Duncan mê mẩn với chúng suốt một giờ đồng hồ. Ông nói với anh về những quyển sách quý của mình và chỉ cho anh xem những ấn bản hiếm.
Cuối cùng, ông đặt tay lên vai Duncan:
- Anh sẽ nghỉ đêm tại đây, ông nói với anh, Jeanne đã dọn phòng cho anh và Hamish sẽ chở anh lên St. Andrews vào sáng mai (Ông ngắt ngang những lời cám ơn ngượng nghịu của Duncan) Tôi xin anh, đừng nói gì về chuyện đó nữa. Anh đến tôi còn mừng là đằng khác. Bây giờ chúc anh ngủ ngon. Khuya rồi, vả lại tôi dám cá với anh, thứ gì cũng được, là đêm nay tôi cũng sẽ lại bị mời đi khám bệnh ngoài nữa. Người ta đang chờ đón một thằng cu ở nhà Davison, nơi cửa sông Strath. Tôi đã đỡ cho năm đứa trẻ nhà đó rồi và tôi không muốn để vuột thằng thứ sáu.
Khi ông thầy thuốc già đi khỏi, Duncan đứng yên một mình trong giây lát, cổ nghẹn lại vì cảm động, rồi anh đi tìm Jeanne trong bếp, ở đấy cô đã dọn dẹp xong. Cô nhìn anh và mỉm cười.
- Quần áo của anh đã khô rồi đó, tôi sẽ ủi nó cẩn thận cho vào sáng mai.
- Cảm ơn. Cô thật… cô thật dễ thương, cô Murdoch à.
- Ô…ô…ô…, cô pha trò giả giọng quê của địa phương, đừng gọi em là cô Murdoch, em chỉ là Jeanne, ngắn gọn thôi. À, em chợt nhớ, đây là một cành hoa trắng, nó từ túi áo anh rơi ra . Em giữ nó vì nghĩ nó là bùa hộ mạng cho anh.
- Vâng, đúng vậy, anh nồng nhiệt trả lời, bằng mọi giá tôi không muốn mất nó.
- Nó là một kỷ vật? Cô gợi ý.
- Nó đã được trao cho tôi từ tay một cô gái dịu hiền và tốt nhất trên đời.
- Thế cô ấy có… yêu anh lắm không?
Anh bật cười, thoát khỏi sự dè dặt cố hữu.
- Khi nào tôi thành công, nổi danh và có những thân chủ danh tiếng nhất ở Edimbourg, có lẽ cô ta sẽ yêu tôi! Trong khi chờ đợi, chỉ cần tôi…
Anh chợt ngừng.
- Em rất mừng về điều ấy, cô nói nhỏ, rất mừng cho anh. Em biết một ngày nào đó, chị ấy sẽ hãnh diện vì anh.
Mưa ngưng lại trong đêm và bão đã lắng xuống. Đến hừng sáng, Hamish, anh tài xế của bác sĩ Murdoch chở Duncan rời Linton. Cũng giống như đa số dân quê miền núi, Hamish rất nghi ngại những người không quen. Câu chuyện của họ chỉ vỏn vẹn một tiếng lầm bầm có nghĩa là “hình như cậu lên đại học” trong suốt quãng đường dài tám mươi phút mà họ cùng đi.
Nhưng Duncan lại thích sự im lặng này. Lòng tốt của những người mới quen đêm qua đã làm anh cảm động. Tuy nhiên, khi đi đến ngoại ô thành phố cổ nằm trên bờ biển và nhìn thấy những tòa lâu đài của Viện Đại học in hình hoa văn trên trời trong sáng, anh không thể nén nổi cái rùng mình cảm khoái.
Đầu tiên, lòng tràn ngập ngưỡng mộ, anh đi lang thang vòng quanh viện đại học. Anh chỉ gặp rất ít sinh viên, năm học vào tuần tới mới bắt đầu. Trong sự vắng lặng hiện tại, những tòa nhà cổ với những tháp tối, bao quanh với những thảm cỏ cắt xén kỹ tạo nên một cảm giác về sự hùng vĩ và yên tĩnh vô bờ.
Đồng hồ trường đại học đĩnh đạc điểm chín tiếng lôi Duncan ra khỏi sự mê mẩn và quay về với thực tại. Anh cài khuy áo vét, đầu ngẩng cao đi về phía nhà khoa trưởng. Căn nhà đồ sộ đến mức làm anh chùn bước, nhưng cuối cùng anh cũng quả quyết rung chuông gọi cửa. Một lát sau, anh được đưa vào một phòng khách trang hoàng bằng nhiều đồ đạc đắt tiền, sàn nhà trải thảm đỏ dày cộm.
Vò cái mũ trên gối, anh ngồi xuống và đợi bác sĩ Inglis.
- Thế nào? ông vừa nói vừa bước vào.
Giọng nói không khuyến khích anh chút nào. Ông là một người nhỏ bé, ngăn nắp. Toàn bộ người ông, từ bộ râu cằm, cặp gọng kính bằng vàng đến mái tóc muối tiêu chải ngôi cẩn thận, tất cả đã nói lên uy quyền, sự đường bệ dành cho chức vụ y sĩ trưởng bệnh viện Victoria, phó giám đốc viện Wallace, tuy mới thành lập nhưng có một vị trí quan trọng. Mặc dù dáng ông có vẻ tự mãn nhưng trong mắt ông lại ánh lên nét mệt mỏi và sự dịu dàng.
Đứng trước ông, Duncan vội nói tên mình và mục đích buổi đến thăm.
- Thế à! (Ông khoa trưởng ngồi sau bàn giấy bằng gỗ và ra hiệu cho Duncan ngồi). Nói chung tôi không bao giờ tiếp sinh viên vào giờ này, nhưng mới chiều hôm qua, tôi nhận được thư của đại tá Scott liên quan đến anh.
Tim của Duncan bắt đầu đập mạnh. Trước khi anh kịp lên tiếng, ông khoa trưởng đã nói tiếp:
- Mặc dù những ước vọng của anh đã khơi dậy lòng cảm mến nơi tôi, nhưng tôi có bổn phận phải báo trước cho anh là…
- Nhưng thưa bác sĩ, Duncan định ngắt lời.
Bác sị Inglis oai vệ đưa một ngón tay lên.
- Hàng năm, cả một đội quân của những chàng trai trẻ đầy tham vọng đã tràn ngập trường này. Và hàng năm, anh bạn thân mến ạ, chúng tôi đã là chứng nhân của cả một cuộc tàn sát trong cuộc thi tuyển Lockhart, chỉ những tài năng xuất chúng mới dẫn tới thành công thôi. Anh hãy nghĩ lại đi, bảy trăm thí sinh trong khi chỉ có ba học bổng.
- Tôi đã nghĩ kỹ rồi, thưa bác sĩ. Duncan nói.
Ông khoa trưởng giơ tay lên.
- Vậy thì, giả sử anh có đủ những phương tiện vật chất để hoàn tất chương trình và đạt danh hiệu bác sĩ, liệu anh có nghĩ đến sự giới hạn về thể xác của mình? (Ông liếc nhìn thông cảm về phía cánh tay bị tật của Duncan) Liệu anh có không bị xếp vào một xó tối tăm trong cái ngành khổng lồ của chúng ta không, tỷ như Viện Y tế cộng đồng, nơi mà công việc chỉ đóng khung trong một văn phòng bụi bặm? (Ông ngừng một lát) Anh bạn thân mến ạ, hãy tha lỗi cho tôi nếu tôi nói quá thẳng. Hãy nghĩ kỹ đi! Hãy suy xét những điều tôi vừa nói. Đừng đâm đầu vào tường. Nếu vì lý do nào đó anh không thể quay về địa phương thì, vì nể đại tá Scott, tôi sẽ tìm cho anh một việc nhỏ ở đây trong một khoa nào đó của Viện. Có thể hơn thế nữa, tôi sẽ xếp anh vào giúp việc cho chính nhà tôi, bà Inglis vừa mới bảo tôi về tình hình người giúp việc trong nhà - vẻ bối rối tăng lên trong mắt ông – Có lẽ chúng tôi sẽ xếp chỗ cho một thanh niên có thiện chí làm việc đó. (Ông kết luận bằng một cử chỉ và nụ cười thân thiện). Thế nào? Ông hỏi.
Duncan đứng bật dậy:
- Thưa bác sĩ, nhờ bác sĩ chỉ cho tôi chỗ ghi danh dự thi.
Người ta có thể nói tốt cho ông khoa trưởng là ông đã khéo che dấu nỗi thất vọng của mình.
- Trong tòa nhà chính, nơi dành cho văn phòng hành chính quản trị.
- Cám ơn bác sĩ !
Duncan sửa soạn ra khỏi phòng.
Mặc dù kiểu cách nhưng ông khoa trưởng cũng tử tế:
- Đây là danh sách các phòng trọ dành cho sinh viên của tỉnh.
Ông nói thêm với một nét dí dỏm lóe lên trong ánh mắt:
- Và nhờ trời phù hộ anh.
Duncan nhận danh sách và cảm ơn.
Ra khỏi nhà, anh giận điên lên được. Anh đi thẳng lại phòng ghi danh và ngay sau đó đi thuê phòng trọ.
Khởi đầu việc thuê phòng không kết quả lắm. Tất cả những phòng anh tới xem đều có vẻ quá sang và đắt. Cuối cùng anh tìm ra trong một khu phố cổ gần cảng, trong một con đường nhỏ gồm nhiều ngư dân cư ngụ, giữa những thùng nhựa đường và lưới đánh cá, tràn ngập mùi cá muối và nước biển, một căn nhà cạnh thang gác ngoài, có tấm biển đề “phòng cho thuê”.
Bà Gaft, chủ nhà, ra mở cửa, nhìn chăm chú vào anh với vẻ nghiêm khắc u sầu, tay không ngừng chùi vào cái túi bà dùng làm tạp dề. Duncan nhận rõ đó là một bà cụ nhỏ nhắn, tóc rối, vẻ mặt quá u buồn đến mức gần như khôi hài.
- Vâng, bà nói, tôi còn phòng cho thuê. Nó không đẹp lắm và ở tận trên gác nóc, nhưng tôi chỉ đòi một bảng mỗi tuần.
Anh theo bà vào nhà. Đúng như bà nói, căn phòng nhỏ xíu nhưng sạch sẽ và thoáng đãng, có thề nhìn thấy biển, nhìn thấy những căn nhà lân cận trong thị xã, kể cả các tòa tháp của trường Đại học. Anh đặt tiền thuê nhà.
Ngày thứ năm, định mệnh đến quá sớm. Khi Duncan ngồi vào bàn trong đại giảng đường trường Đại học Y, sự căng thẳng vì chờ đợi, nỗi lo âu không chịu nổi làm tay anh rịn ướt mồ hôi.
Anh ngắm nhìn những dãy dài bàn học bằng gỗ nhạt màu, giống như cái bàn anh đang ngồi, mỗi bàn đều có một thí sinh như anh. Hàng trăm thanh niên, tất cả đã chuẩn bị sẵn cho cuộc chiến đấu, cho cuộc đọ sức không nương tay. Trong số này, liệu anh có gì may mắn hơn họ?
Cố gắng nhìn thẳng vào chiếc ghế cao nơi có hai giám khảo ngồi, anh thấy những bác sĩ thực tập và các sinh viên năm cuối, mặc áo choàng dài, xúm xít quanh họ. Anh nhận ra Euen Overton trong số các sinh viên ấy.
Khi vào đại giảng đường, Duncan đã nhận ra ngay Euen, nhưng hắn chỉ hạ cố phất nhẹ tay về phía anh với vẻ như muốn nói “đừng trông vào sự quen biết cũ của chúng ta”. Tuy rằng Euen có thể thật dễ dàng có quyền mỉm cười và nói nhỏ với anh “chúc may mắn Stirling, ráng đậu nhé”.
Người ta đã bắt đầu phát đề, Duncan vội cầm bút. Anh cố cảm tưởng là cả một thế kỷ đã trôi qua cho tới khi anh nhận được tờ đề thi của mình. Đó là một đề toán.
Đương nhiên là khó nhưng không vượt qua tầm hiểu biết của anh. Anh quên hết thế giới xung quanh, quên tiếng bút cạo giấy, tiếng giấy loạt soạt và anh bắt đầu trả lời các câu hỏi.
Đúng mười một giờ người ta thu bài và phát đề môn thi thứ hai: đề văn Hy Lạp. Duncan đã hết bị căng thẳng trong cơn gắng sức. Tới mười ba giờ, người ta báo tin nghỉ ăn trưa. Duncan đứng dậy, choáng váng và đi theo những người khác. Số đông tụ lại thành từng nhóm nhỏ, trao đổi những câu pha trò và bàn luận về cuộc thi.
Duncan đứng trên đầu cầu thang và trông thấy Overton có vẻ ngần ngừ rồi quyết định tiến về phía anh.
- Stirling này, cậu hẳn cảm thấy lạc lõng ở đây hả?
Duncan gật đầu, mắt nhìn thẳng vào kẻ đang nói chuyện với mình.
- Cậu đã cho đáp số bài toán lượng giác thứ hai ra sao?
Duncan giải. Nụ cười của Overton trở nên trịnh thượng.
- Biết ngay, tớ biết là cậu sẽ bị nhầm lẫn ở chỗ đó. Bây giờ tớ phải đến chỗ bác sĩ Inglis ăn trưa. Tớ phải đi gấp đây.
Sau một cái hất đầu chào, hắn ta biến mất.
Tràn ngập một nỗi tuyệt vọng thầm kín, Duncan thì thầm:
- Lạy trời! Làm sao cho có một ngày nào đấy mọi người sẽ biết con xứng đáng…
Đồng hồ điểm hai giờ, chuông báo môn thi La tinh. Kế đến thi Anh văn rồi nghỉ ba mươi phút.
Một lần nữa, Duncan quên ăn, rút quyển sách giáo khoa ra. Môn thi cuối là môn Sử, anh yếu nhất về môn này.
Thẫn thờ, anh mở sách ra một cách tình cờ và rơi đúng vào chương nói về cuộc cách mạng năm 1789 ở Pháp và đặc biệt một đoạn dành cho Robespierre.
Bắt buộc bộ óc mệt mỏi của mình làm việc, anh chăm chú đọc cho đến khi chuông rung gọi thí sinh vào phòng thi.
Câu hỏi chính in trên đề thi là “Viết một bài bàn luận về nhà chính trị Robespierre”. Duncan thở phào như một tiếng nấc và bắt đầu viết như điên.
Và rồi, tất cả đã xong. Bên ngoài trời tối và lạnh, đèn đường sáng như những vì sao mà Duncan vẫn thích. Anh cảm thấy kiệt sức như thể vừa trải qua một trận đấu vô ích dài suốt hàng giờ đồng hồ. Anh leo lên những bậc thang dẫn đến căn phòng chuồng chim của mình, cởi quần áo trong nháy mắt và ngay khi đặt lưng xuống giường là rơi ngay vào giấc ngủ say như chết.
Sáng hôm sau, anh dậy muộn, đầu óc như mụ đi. Suốt ngày anh lang thang trong thị xã cổ, ngắm nhìn những con tàu chở cá, những con hải âu bay lượn trên mặt nước. Anh không thể nghĩ đến cuộc thi và bảng kết quả niêm yết vào ngày mai nữa.
Ngày kế, một linh cảm chẳng lành xâm chiếm lòng anh ngay từ khi thức dậy. Anh không thể quyết định dứt khoát là đi hay không đi đến trường đại học. Băn khoăn, khổ sở, đầu tiên anh nán lại trong sân ngắm bức tượng to lớn bằng đồng hun kỷ niệm bác sĩ John Hunter, người thầy thuốc lừng danh khắp thế giới và là đứa con thần đồng của trường Đại học St. Andrews.
Càng nhìn ông già cau có, Duncan càng cảm thấy tràn ngập thất vọng. Thình lình anh nghe một giọng nói vang lên bên cạnh. Một trong những người cai trường hỏi anh làm gì với vẻ nghi ngại. Duncan giật mình.
- Tôi chờ kết quả cuộc thi lấy học bổng.
- Ôi dào! Người ta đã dán từ ba tiếng đồng hồ rồi, ông lão xẵng giọng.
Duncan rùng mình. Về sau, anh không sao hiểu được làm thế nào mình đã tới được tòa nhà niêm yết kết quả, nhưng quả là anh đã đến đấy nhanh hết sức.
Mãi một lúc sau, anh mới có thể ngẩng nhìn tờ giấy đánh máy ghim trên cửa. Anh cảm thấy mình như một kẻ bị kết án tử hình biết là không được ân xá và không còn dám nhìn người gác nữa. Và rồi như một gắng sức đầy tuyệt vọng anh đã nhìn lên tờ danh sách.
Tên đầu tiên trên cái danh sách định mệnh ấy không phải là anh, anh biết quá mà, một nỗi đau bất chợt ùa đến. Tên thứ hai cũng không phải, anh cũng dư biết. Nhưng tên thứ ba, tim anh gần như ngừng đập, cái tên thứ ba kia, đúng là tên anh rồi: “Duncan Stirling, trú quán Levenford”.
Anh đã đậu! Không thể nhầm vào đâu được! Nó kìa! Đánh máy với mực đỏ, sự thật đó. Điều kỳ diệu đã xảy ra. Anh đã được học bổng.
Ra khỏi trường Đại học, anh gần như ngộp thở vì xúc động. Anh nồng nhiệt nghĩ đến Margaret Scott. Phải chi cô ấy ở đây! Anh phải viết thư ngay cho cô. Hẳn cô sẽ vui mừng xiết bao về sự thành công của anh. Khi tới trước bức tượng của John Hunter, anh dừng lại và dang rộng cánh tay lành, nói lớn:
- Ông John Hunter ạ, bây giờ tôi sẽ nhập cuộc! Tôi sẽ nối gót ông trên chiếc bệ ấy.
Ngay khi về đến nhà trọ, Duncan nhảy xổ vào bếp. Cơn sững sờ đã được thay thế bởi một cảm giác lâng lâng. Anh cần có người để báo tin mừng nếu không anh sẽ điên lên mất. Anh ôm chầm bà Galt và nhảy luân vũ với bà vòng quanh căn phòng.
- Đỗ rồi bác Galt ạ, cháu đã đỗ rồi, cháu đã được học bổng.
Bà cố gỡ ra.
- Trời ơi, cậu có điên không?
- Bác không hiểu ư?
Anh nâng bổng bà lên.
- Cháu đỗ rồi. Cháu sẽ có đủ tiền trả tiền học trong năm năm, cháu sẽ trở thành bác sĩ.
- Buông tôi ra, đồ quỷ, bà ta la lên, nếu không thì ngay lập tức chính tôi và cậu, chúng ta phải gọi bác sĩ.
Bà lấy lại hơi.
- À quên nữa, người ta vừa gởi cho cậu một gói quà to tướng, ngay trước khi cậu về.
- Một gói quà ư?
Nhanh như chớp, anh leo lên những bậc thang về phòng và vội vã mở sợi dây buộc gói quà. Anh lôi ra cơ man nào là thức ăn, đồ ngọt và cả một chồng cao sách về cơ thể học ngoại khoa, sinh học… Buộc chung với chồng sách là thư của bác sĩ Murdoch ở Linton được viết đúng vào ngày hôm nay.
“Giáo sư quý mến!
Chúng tôi đã không ngừng nghĩ đến ngài và đã được biết tin mừng qua điện tín trước cả ngài. Chỉ có trời mới biết tại sao các giám khảo lại điên khùng mà cấp học bổng cho kẻ dốt như anh. Nhưng cuối cùng, dù trong những trường Đại học quản lý thật tốt đi nữa thì những sai lầm cũng vẫn xảy ra hằng ngày. Nếu anh không lợi dụng sự sai lầm lần này thì anh sẽ không xứng đáng với chàng trai mà tôi đã tưởng. Trong khi chờ đợi, nếu anh muốn tin vào một người già, thì hãy nghe tôi, đừng có mà nhét vào đầu tất cả những điều xuẩn ngốc, mà, nhân danh tiến bộ, người ta sắp dạy cho anh trong tất cả các trường Đại học Y. Hãy giữ cho đầu óc sáng suốt, hãy nhớ những nguyên tắc cơ bản và nhất là phải cố gắng luôn luôn sử dụng óc thực tế Tô Cách Lan của anh, quỷ ạ!
Trong khi chờ đợi để chia vui với anh, chúng tôi mạn phép gửi đến anh qua Hamish, một vài thứ lặt vặt. Anh cũng sẽ tìm thấy một vài quyển sách học của tôi. Tôi chẳng bao giờ đọc chúng. Và chúng không đáng giá một xu. Con trai à! Đừng có nhồi vào đầu quá nhiều và hãy đến thăm chúng tôi thường xuyên, cái hạt giống Tô Cách Lan xấu ạ! Và cầu trời phù hộ anh.
Murdoch” Những dòng chữ mờ đi trước mắt anh, anh ngồi xuống giường và lần thứ hai trong ngày, một niềm hạnh phúc tràn ngập trong anh.