LONG HẢI, Tháng Bảy 2006. Mỗi năm về Việt Nam, sau những ngày quay cuồng với Sài Gòn và các nơi khác của xứ đông đúc, nhiệt đới này, tôi lại tới một ngôi chùa bên bờ biển Long Hải để xin vị sư trú trì cho một cái cốc nhỏ để ngồi thiền và đọc sách. Ngôi chùa nằm giữa rừng, trên sườn núi cao, nhìn xuống biển Thái Bình xanh ngát. Bên các tảng đá to, đen rì, những cây cổ thụ to lớn, lá cành xum xoe, là một vài cái cốc làm bằng lá dừa và cây tre, trên sàn gỗ trải chiếc chiếu, với một bàn thờ nhỏ. Mọi thứ rất là đơn giản. Ngồi trên tảng đá, dưới rặng cây xanh phủ lá, nhìn ra rừng thẳm, đại dương bao la, tôi thấy mọi chuyện nhỏ lại, và mọi thứ của trần gian chỉ còn như là tiếng gió xào xạc qua mái hiên.
Tôi xin ở lại chùa để nhập cốc một tuần, một mình trong một góc núi. Vị sư đã dành chỗ cho tôi hàng năm như thế. Đến bữa ăn thì có chú tiểu đem một phần cơm chay với rau và tàu hủ lên bỏ trước cửa cốc, lặng lẽ lấy chén đủa cũ, kêu nhẹ, “Chú Liêm ơi, có thức ăn nghe!” Tôi trả lời, “A Di Đà Phật. Cám ơn chú.” Cơm chay tuy đạm bạc nhưng rất ngon. Tôi cố gắng ăn một ngày một bữa. Ngày đầu thì không ăn bữa nào. Nếu ăn cơm không hết thì để ra cửa. Có cả một bầy khỉ, nào cha mẹ, anh em, ông nội, bà ngoại gia tộc khỉ nhảy nhót lung tung dành nhau kêu chí choé bốc cơm ăn. Có cả bầy chim đủ màu, đủ loại cũng tới chia phần với khỉ. Có một con khỉ lông trắng rất già, nhè nhẹ mò tới ngồi bên hiên khi tôi đang đọc sách. Nó không dành ăn với đám trẻ. Nó ngồi thản nhiên nhìn. Khi hết thức ăn, các con khỉ khác bỏ đi, thì nó tới sát và đưa tay ra khều tôi. Tôi nắm tay nó, và nó đưa tay khỉ của nó lên tóc tôi, mò mò tìm con rận trong tóc. Tay chân nó trần trùi. Lông nó bạc trắng phóc. Tôi nhớ tới trong truyện kiếm hiệp “Cô Gái Đồ Long” của Kim Dung có đoạn chàng Vô Kỵ lên núi cũng gặp một con vượn già và vô tình tìm ra được “Cửu Dương Chân Kinh” để luyện thành thiên hạ vô địch. Ở đây, không chỉ có khỉ và chim mà thôi. Có bữa thì có cả rắn lục đen sì bò vào trong chiếu. Còn muỗi và các con bọ khác thì cũng không thiếu. Có lần tôi bị bò cạp cắn, đau không thể tả. Cũng có lần bị ong độc chích, tôi nằm sốt đến ba ngày. Đây là chốn rừng thiêng. Trong cái tĩnh lặng của lúc nhập cốc giữa núi đồi thì tôi đã bước vào thế giới vô vàn của các cõi chúng sinh khác.
Tối hôm qua, có chú tiểu lên cốc nhắn rằng các thầy mời xuống ăn cơm tối và tụng kinh chiều. Tôi đi theo dốc đá, bám theo các thân cây đi xuống núi. Chú khỉ già cũng lần mò đi theo. Nó cứ nhảy một vài nhánh cây, đi dẫn đường, đến một gốc cây, hay mõm đá, ngồi gãi đầu, gãi tai, chờ tôi. Khi đến chánh điện của chùa, thì các thầy đã chờ sẵn. Chú khỉ chạy tới nắm tay thầy trụ trì. Thầy gọi nó là “Ngộ Không” – tên của nhà sư giống con khỉ trong truyện “Tây Du Ký”. Thầy cho biết là Ngộ Không rất là thân thiện, thích làm quen với người lạ đến chùa. Nghi thức buổi chiều cũng rất đơn giản vì không có phật tử. Trong suốt phần nghi thức, chú khỉ già Ngộ Không chạy khắp chánh điện, có lúc leo lên trên bàn thờ Phật mà ngồi nhìn xuống. Trong nhà Phật, con khỉ tượng trưng cho tâm trí con người vì nó không bao giờ yên nghĩ được. Xong lễ Phật, chúng tôi dùng cơm chay trong yên lặng. Chú khỉ Ngộ Không ngồi cạnh bên tôi và được các thầy thưởng cho trái chuối. Nó ăn xong và kéo đầu tôi xuống lần mò hai cái tay xần xì lên tóc tôi để mà tìm chấy rận. Tôi cứ để yên và cảm thấy một niềm hoan lạc trẻ con lạ lùng.
Chú khỉ Ngộ Không này có một gia đình rất là lớn ở khu rừng Long Hải này, bao gồm nhiều thế hệ. Nhưng nó có vẻ như rất cô độc. Suốt ngày cứ quân quẩn bên người, bên các chú tiểu, hay là ngồi một mình gãi đầu gãi tai bên gốc cây. Nó quyến luyến bên chánh điện, bên các chú tiểu, bên con người. Nó như là mong muốn đi khỏi ra ngoài cõi thú rừng nơi mà cái linh hồn thú vật ngự trị trong thân xác con khỉ mà nó phải sống với. Có lẽ đây là kiếp cuối cùng của Ngộ Không. Tôi nghĩ thế. Nó là gì, là ai ở kiếp trước? Hiện thân của nó bây giờ là một tiến hóa mới, hay là một sự sa đọa đi xuống từ một cõi sống cao hơn của tiền thân? May là nó được sinh ra gần một khu rừng có chùa, có tăng, có Phật. Nếu ở một nơi nào khác ở Việt Nam này, thì Ngộ Không có lẽ đã bị bắt đi làm thịt hay là làm xiếc rồi. Tội nghiệp cho muông thú ở vùng đất nghèo khổ, man khai, khi mà tình yêu cho thú vật cũng phải đến từ các tu sĩ, đến từ tôn giáo. Ở đất này, con người còn mang quá nhiều cái chất linh hồn của thú tính khi cái tàn nhẫn, vô nhân đạo vẫn tràn đầy. Khi mà giữa người với người mà còn đối xử tàn nhẫn, thiếu lương tâm, bất nhân như thế thì huống gì con người đối với muông thú.
Trên xứ đất quê hương, nông thôn hay phố thị, của Việt Nam, có một thưở nào đó, vốn đã có nhiều, rất nhiều, thần linh. Trời đất hiện thân ra bằng cái đẹp và giản dị trong thiên nhiên, qua cây cỏ, núi rừng, qua con người, qua tín ngưỡng. Hành vi con người vốn là lễ nghi, từ lò củi, đến vựa lúa, đến ông Táo ba kiềng để nấu cơm. Trong trực giác linh thiêng với thiên nhiên và cuộc sống, cá nhân tự mình hòa với cảnh quan và tha nhân, biến mỗi lời ăn, tiếng nói, suy nghĩ, hành vi thành ra một nghi thức của khung cảnh. Khi ta coi trọng thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ coi trọng ta. Hầu hết những tai nạn trong thiên nhiên xẩy ra vì con người không hiểu, không tôn trọng quy luật sự vật. Trong thái độ ân cần và trang trọng với khung cảnh, thiên nhiên trở nên linh thiêng, và chính ta, cái linh thiêng của nội tâm cũng sẽ trỗi dậy nhằm tiếp nhận cái linh thiêng của bên ngoài. Con người khi biết thờ phượng thiên nhiên, họ trở nên thần linh cho chính mình.
Nhưng bây giờ, thần linh biến mất, con người không còn tin vào thánh vào thần, vào cõi linh thiêng. Họ không còn tin vào chính mình là thần linh, không còn thấy thần linh trong thiên nhiên, nơi tha nhân, nơi khung cảnh. Khi thần linh đã chết, cuộc sống không còn là nghi lễ. Mọi chuyện trở nên tầm thường, dung tục, và trống rỗng. Khi lý trí chưa có khả năng cai quản chính mình và xã hội, thì sự vắng bóng của thần linh là nguồn gốc của mọi thảm họa cho thiên nhiên và cho con người. Cái được điền vào chỗ trống là những tâm hồn đầy thú tính, của bạo hành, của dục lạc, của ngã mạn, của bất nhân. Khi đó, cây đa đầu làng không còn là chổ ở của cõi âm, mà chỉ là một khúc gỗ, của nhánh củi; cái giếng nước làng không có con ma nằm dưới đáy để bọn trẻ con không nhổ nước miếng xuống; con sông không còn con ma rào, con trấn nước để người ta không ô nhiểm nó; cái miếu sau góc vườn không còn là chỗ để cúng vái ông thổ thần; con rắn mai trong bụi cây không là một con vật cần thiết để giữ cân bằng sinh thái mà chỉ là con rắn độc phải giết vì sợ hay là bắt để nhậu nhẹt, thuốc thang. Thiên nhiên trả thù con người khi hắn không biết tôn trọng luật chơi, khi hắn bất công với thú vật, với cỏ cây. Sự sa đọa của con người ở Việt Nam là hệ quả đương nhiên từ sự kéo xuống cõi linh hồn thú vật khi mà phía trên họ thần linh đã không còn nâng đỡ con người.
May rằng ở khu rừng này của chiến khu Minh Đạm, bên trên bãi biển Thuỳ Dương, Long Hải, bên cạnh biển xanh mênh mông, thiên nhiên ít nhiều vẫn còn sót lại như là một ân huệ. Nửa đêm khuya, tôi đứng ra trên triền núi, thấy một chân trời đèn đuốc của ngư dân trong các tàu đánh cá ngoài khơi kết thành một chuỗi dài bất tận. Đời sống liên tục không ngừng nghĩ. Bên cạnh tôi, thế giới của muôn loài, muôn cõi cũng tranh sống từng góc núi, trong từng phút giây. Tất cả phải chuyển động, phải tiến hóa, phải quay về lại nơi mà tất cả đã ra đi từ đó. Tôi nghe tiếng sóng vỗ của đại dương như những lời nhắc nhở từ Chân Nguyên kêu réo chúng sinh hãy tỉnh thức để trở về. Cái cơ năng của Tạo Hóa đang bắt mọi thứ trên quả đất này thức dậy để biến thái, để thăng chuyển. Từ quặng mõ, từ dầu thô dưới sa mạc, dưới lòng đất cũng phải được khai quật lên để chuyển hóa thành năng lượng qua tri kiến và kỹ thuật của con người, cho đến các loài tôm cá sống giữa đại dương sâu thẳm cũng bị bắt về để chuyển nghiệp như là thức ăn hải sản; cho đến các khối dân tộc sơ khai, man rợ cũng bắt đầu thức tỉnh về danh lợi, về vật chất, về nhân quyền, về tự do, về khoái lạc, về tri thức. Không một viên đá, một vũng nước lầy nào có thể được nằm yên trong cái chuyển vận chung của cơ Trời muôn sự. Và tôi cảm nhận được trong tôi đang có một trận chiến với có nhiều bãi tranh cuộc để đào thải cái này, tiếp nhận, khai hóa cái kia. Và ở cõi nội tâm này tôi cũng có một chú khỉ Ngộ Không đang bị già đi và đang muốn tiến hóa về một pháp thân khác cao hơn.
* * *
Năm ngày sau, tôi từ giã núi rừng, biển cả, chùa chiền, của tĩnh cốc để về lại Sài Gòn - về trong vòng nước xoáy nhân sinh, để lại tung thân vào cuộc mệnh quen thuộc, trống rỗng, quay cuồng và nhàm chán. Trước khi đi về, thầy trụ trì cho tin là con khỉ già Ngộ Không đã bị kẻ nào đó bắt trộm rồi. Thầy lắc đầu, “Nó tin người ta quá, gặp ai cũng mò tới làm quen, gãi tóc. Nhưng có người chuyên bắt khỉ để nấu cao, thấy khỉ già là mừng lắm, bắt nó đi rồi.” Thầy nói tiếp, “Thôi thì ít nhất là xương cốt của nó cũng có thể cứu khổ cho một ai.” Thầy cũng cho tin rằng có công ty của Singapore muốn xây dựng một khu nghĩ mát và giải trí lớn ở vùng núi và biển này, và tất cả sẽ phải di dời cho dự án, và chùa chắc cũng sẽ phải dọn đi. Thầy sẽ cố gắng tồn tại, nhưng chắc là phải cầu xin Trời Phật thôi. Tôi cũng không hy vọng gì. Tất cả mọi chuyện rồi cũng phải thay đổi thôi. Đừng chấp cảnh, chấp tình. Tôi thầm tự nhủ để an ủi chính mình.