11. Sau chuyến đến thăm của Bruno, Michel còn nằm thêm hai tuần nữa. Quả thật, anh tự hỏi, bằng cách nào một xã hội có thể tồn tại mà không cần đến tôn giáo? Trong trường hợp một cá nhân, điều đó đã có vẻ là rất khó rồi. Trong nhiều ngày liền anh ngắm nhìn cái lò sưởi gắn bên trái giường. Vào mùa này những đường rạch của nó chứa đầy nước, đó là một cơ chế có ích và tinh vi; nhưng xã hội phương Tây có thể sống sót được mà không cần đến bất kỳ một tôn giáo nào? Khi còn trẻ con, anh thích tưới cây trong vườn rau. Anh còn giữ một bức ảnh vuông vắn đen trắng, trong đó anh đang cầm bình tưới cây dưới sự trông coi của bà nội; khi đó anh sáu tuổi. Sau này, anh rất thích đi chơi; với tiền mua bánh, anh mua được một chiếc Carambar. Sau đó anh đi mua sữa ở trang trại; anh vung vẩy ở tay chiếc cà mèn bằng nhôm đựng sữa còn ấm nguyên, và anh hơi sợ, khi màn đêm buông xuống, mà phải đi dọc theo con đường trống không hai bên toàn cây ngấy. Bây giờ, mỗi lần đi đến siêu thị với anh là một lần cực hình. Tuy nhiên các sản phẩm đã thay đổi, nhiều mẫu hàng đông lạnh mới cho người độc thân xuất hiện không ngừng. Mới đây, trên kệ hàng thịt của Monoprix của anh, anh đã thấy - lần đầu tiên - một miếng steak đà điểu.
Ðể có thể tái tạo, hai cành nhỏ tạo nên phân tử ADN phân tách trước khi hấp dẫn, mỗi cái một bên, các nucléotide phụ. Khoảnh khắc tách rời nhau này là khoảnh khắc nguy hiểm vì rất dễ xảy ra những đột biến không thể kiểm soát, thường là có tác động xấu. Các hiệu ứng thúc đẩy mang tính trí tuệ của nhịn ăn là có thật, và tiếp theo tuần đầu tiên Michel đã có trực giác về một sự tái tạo hoàn hảo có thể xảy ra khi một phân tử ADN có hình chân vịt. Ðể đạt tới một quá trình lặp lại không bị ảnh hưởng tiêu cực trên một chuỗi bất tận những thế hệ tế bào, có khả năng cấu trúc mang thông tin di truyền phải có một tô pô đặc - chẳng hạn như là của một chuỗi Moebius hay có hình xuyến.
Hồi còn nhỏ, anh không thể chịu đựng được sự xuống cấp tự nhiên của các đồ vật, các mảnh vỡ, sự hao mòn của chúng. Cho nên trong suốt nhiều năm anh gìn giữ thật cẩn thận những ống quấn băng dính, hai mẩu gãy của một cái thước kẻ bằng nhựa trắng. Với những chỗ gồ lên do dán băng dính cái thước kẻ không còn có thể thẳng hoàn toàn được nữa, thậm chí nó còn không thể dùng để kẻ những đường thẳng, làm tròn nhiệm vụ chiếc thước kẻ của mình; tuy nhiên, anh vẫn giữ nó lại. Nó lại gãy lần nữa; anh sửa lại nó, thêm vào một vòng băng dính, đặt nó vào trong ngăn bàn.
Một trong những nét thiên tài của Djerzinski, nhiều năm về sau Hubczejak sẽ viết, là đã biết vượt qua trực giác đầu tiên của mình theo đó sự tái tạo qua bộ phận sinh dục bản thân nó đã là một nguồn chuyển dịch độc hại. Từ hàng nghìn năm nay, Hubczejak nhấn mạnh, mọi nền văn hóa của con người đều được đánh dấu bởi cái trực giác không ít thì nhiều được tạo nên từ một quan hệ không thể tách rời giữa tình dục và cái chết; một nhà nghiên cứu vừa tạo nên mối liên quan này bởi những luận cứ không thể chối cãi rút ra từ sinh học phân tử nhẽ ra có thể dừng lại ở đó, coi nhiệm vụ của mình như là đã hoàn thành. Djerzinski lại có trực giác là cần vượt qua khuôn khổ sự tái tạo qua đường sinh dục, để kiểm tra trong tất cả sự phổ thông của nó những điều kiện tô pô của sự phân chia tế bào.
Ngay năm đầu tiên ở trường tiểu học ở Charny, Michel đã rất bị ấn tượng bởi sự tàn bạo của bọn con trai. Chúng là con của những người nông dân, tức là những con thú nhỏ, vẫn còn rất gần gụi với thiên nhiên. Nhưng người ta quả thực có thể ngạc nhiên về cái thằng người thiên nhiên vui tươi, bản năng sẵn sàng lấy đầu compa hay đầu nhọn bút chọc vào thân mình những con cóc; mực tím chảy trên da con vật đáng thương, nó chết từ từ vì đau đớn. Chúng xúm lại, quan sát sự hấp hối của nó, mắt sáng bừng. Một trong những trò chơi khác mà chúng yêu thích là lấy kéo thủ công cắt ăng ten ốc sên. Toàn bộ cơ quan giác quan của ốc sên tập trung trong các ăng ten của chúng, mà ở đầu là những con mắt nhỏ. Mất ăng ten ốc sên chỉ còn là một đống mềm oặt, đau đớn và lúng túng. Nhanh chóng, Michel hiểu là anh cần tránh xa những đứa trẻ độc ác đó; tuy nhiên ngược lại ít phải e ngại những đứa bé gái, những sinh vật dịu dàng hơn. Trực giác đầu tiên về thế giới này đã được tiếp sức bởi chương trình
Thế giới động vật phát trên truyền hình vào tối thứ Tư. ở giữa sự kinh khủng ghê hồn đó, giữa sự cắn xé thường trực của thế giới loài vật đó, dấu vết duy nhất của lòng tận tụy và tính vị tha được đại diện bởi tình yêu mẹ con, hoặc bởi một bản năng bảo vệ, cuối cùng là cái gì đó một cách vô cảm và bằng nhiều cấp độ dẫn đến tình yêu mẹ con. Con cái loài mực thẻ, một con vật nhỏ bé đáng thương dài hai mươi xăng-ti-mét, sẽ không do dự tấn công một người thợ lặn đang tiến lại gần ổ trứng của nó.
Ba mươi năm sau, lại một lần nữa anh đi đến cùng kết luận: rõ ràng, phụ nữ cao cấp hơn đàn ông. Họ giỏi chiều chuộng hơn, đáng yêu hơn, biết thông cảm hơn và dịu dàng hơn; ít dính dáng đến bạo lực, ích kỷ, tự khẳng định, tàn bạo. Ngoài ra họ còn biết điều hơn, thông minh hơn và chăm chỉ hơn.
Từ sâu thẳm, Michel tự hỏi khi quan sát chuyển động của ánh mặt trời trên chiếc ri đô, đàn ông thực ra dùng để làm gì? Có thể là ngày trước, khi lũ gấu còn đông đảo hơn, nam tính có thể đóng một vai trò nhất định và không thể thay thế nào đó; nhưng kể từ vài thế kỷ nay, rõ ràng đàn ông gần như không còn có ích gì. Ðôi khi họ trốn tránh sự buồn chán của mình bằng vài ván tennis, trò chơi ít xấu xa nhất; nhưng đôi khi họ cũng tự thấy cần thiết phải
thúc đẩy lịch sử, nghĩa là về bản chất khơi lên các cuộc cách mạng và chiến tranh. Ngoài những đau khổ phi lý mà chúng tạo ra, các cuộc cách mạng và chiến tranh cũng phá hủy đi cái tốt đẹp nhất của quá khứ, mỗi lần lại buộc phải xóa bỏ hoàn toàn để xây dựng lại. Tiến hóa của con người không đều đặn, tăng tiến dần dần mà hỗn loạn, không cấu trúc, bất định và bạo lực. Tất cả những cái đó đàn ông (với cái sở thích liều lĩnh và bấp bênh, sự phù phiếm thô kệch, sự vô trách nhiệm, cái bạo lực bản chất của mình) là kẻ chịu trách nhiệm trực tiếp và duy nhất. Xét về mọi mặt một thế giới được tạo nên từ phụ nữ sẽ ở trình độ cao hơn rất nhiều; nó sẽ tiến hóa chậm rãi hơn, nhưng đều đặn, không quay ngược lại sau và không phải đặt đi đặt lại vấn đề về một trạng thái hạnh phúc chung.
Buổi sáng ngày 15 tháng Tám anh dậy, đi ra ngoài và hy vọng không nhìn thấy ai ở ngoài đường; gần như là vậy. Anh ghi chép một số ý tưởng, khoảng chục năm sau anh sẽ tìm thấy lại chúng khi viết tác phẩm quan trọng nhất của mình,
Nhập môn lý thuyết tái tạo hoàn hảo. Cùng lúc đó Bruno dẫn con trai đến chỗ người vợ cũ; anh cảm thấy kiệt sức và tuyệt vọng. Anne sẽ trở về từ một chuyến du lịch trọn gói của Nouvelles Frontières dành cho các tổ chức, ở đảo Pâques hoặc Bénin, anh cũng không nhớ chính xác nữa; có khả năng cô sẽ gặp các cô bạn gái, trao đổi địa chỉ - cô sẽ gặp lại họ hai hoặc ba lần trước khi chán hẳn; nhưng có lẽ cô ta không gặp đàn ông - Bruno có cảm giác cô ta đã đoạn tuyệt tất cả, tất cả những gì liên quan đến đàn ông. Cô sẽ nói chuyện riêng với anh trong hai phút, cô sẽ muốn biết “mọi chuyện như thế nào”. Anh sẽ trả lời: “Bình thường”, anh sẽ nói bằng một giọng bình tĩnh và tự tin, như đàn bà vẫn thích; nhưng với một sắc thái trào lộng anh sẽ nói thêm: “Dù sao Victor cũng xem vô tuyến nhiều quá.” Anh sẽ nhanh chóng cảm thấy khó chịu, từ khi dừng lại Anne không cho phép hút thuốc trong nhà cô nữa; căn hộ của cô được trang trí rất mỹ thuật. Vào lúc đi anh sẽ cảm thấy hối tiếc, sẽ tự hỏi một lần nữa làm thế nào để mọi việc khác đi bây giờ; anh sẽ nhanh chóng ôm hôn Victor. Thế đấy: kỳ nghỉ với con trai như thế là chấm dứt.
Trên thực tế, hai tuần đó quả là cực hình. Nằm trên tấm nệm, một chai bourbon cầm trên tay, Bruno lắng nghe những tiếng động mà đứa con trai tạo ra ở phòng bên: tiếng giật nước sau khi nó đi đái, những tiếng sột soạt của cái điều khiển từ xa. Chính xác giống như người em cùng mẹ khác cha của anh vào cùng lúc đó, mà không hề hay biết, anh ngu ngốc ngắm nhìn, trong nhiều giờ liền, những chuyển động của cái lò sưởi. Victor nằm trên đi văng phòng khách. Buổi sáng, khi Bruno tỉnh dậy, vô tuyến đã bật ở chương trình phim hoạt hình của kênh M6. Victor đội một chiếc tai phone để nghe âm thanh. Nó không làm ồn, không tìm cách tỏ ra khó chịu; nhưng nó và bố nó hoàn toàn không có gì để nói với nhau cả. Hai lần một ngày, Bruno đi hâm nóng một món ăn; họ ăn, đối diện với nhau, gần như không hề thốt ra một lời nào.
Làm sao mà mọi việc lại diễn ra như thế này? Victor mười ba tuổi từ vài tháng nay. Cách đây vài năm nó vẫn còn vẽ tranh và đưa cho bố xem. Nó cóp lại các nhân vật trong
Marvel Comics: Fatalis, Fantastik, Pharaon của tương lai - mà nó dựng kịch bản trong những tình huống chưa từng có. Ðôi khi họ chơi một ván Mille Bornes, hay đi đến bảo tàng Louvre sáng Chủ nhật. Sinh nhật Bruno, năm nó lên mười tuổi, Victor đã viết nắn nón trên một tờ giấy Canson, bằng những chữ to nhiều màu: “CON YÊU BỐ”. Giờ đây tất cả đã chấm dứt. Thực sự là đã chấm dứt. Và Bruno biết mọi việc sẽ còn trầm trọng hơn nữa: từ sự thờ ơ của cả hai bên, dần dần cả hai sẽ đi đến thù hận lẫn nhau. Cùng lắm cũng chỉ hai năm nữa, con trai anh sẽ đi chơi với bạn gái cùng tuổi; những đứa con gái mười lăm tuổi đó, Bruno cũng rất thèm khát. Họ đang tiến lại gần trạng thái thù địch, trạng thái tự nhiên của con người.
Họ giống như những con vật đang đánh nhau trong cùng một cái lồng, đã đến lúc rồi.
Trở về nhà, Bruno mua hai chai rượu anis ở một cửa hàng Bắc Phi; rồi trước khi uống cho đến say khướt, anh gọi điện cho em trai để hẹn gặp vào ngày hôm sau. Khi anh đến nhà Michel, Michel đang lên cơn đói cồn cào bất ngờ sau đợt nhịn đói, ngốn ngấu những mẩu xúc xích Italia và uống những cốc rượu vang lớn. “Ăn đi, ăn đi...”, anh mơ hồ nói. Bruno có cảm giác Michel đang miễn cưỡng nghe mình nói. Như thể là đang nói với một bác sĩ tâm thần, hoặc với một bức tường vậy. Dù vậy anh vẫn cứ nói.
“Trong nhiều năm con trai anh đã hướng về anh, và đã đòi hỏi ở anh tình yêu; anh đã từng trầm uất, không hài lòng về cuộc đời của mình, và anh đã vứt bỏ nó - trong khi chờ đợi nó tốt đẹp hơn. Anh từng không biết, khi đó, rằng những năm đó sẽ trôi qua nhanh chóng đến vậy. Từ bảy đến mười hai tuổi đứa trẻ là một con người tuyệt vời, đáng mến, biết điều và cởi mở. Nó sống trong lý trí hoàn hảo và sống trong niềm vui. Nó tràn ngập tình yêu, và tự hài lòng với tình yêu mà người ta muốn đem lại cho nó. Rồi sau đó tất cả đều xấu đi. Không thể đảo ngược được, tất cả đều xấu đi.”
Michel ngấu nghiến hai mẩu xúc xích cuối cùng, uống một cốc rượu. Tay anh run lên rất mạnh. Bruno nói tiếp:
“Thật khó tưởng tượng được cái gì ngu ngốc hơn, đáng giận hơn, khó chịu đựng hơn và đáng thù ghét hơn một đứa bé sắp đến tuổi thiếu niên, đặc biệt khi mà nó ở cùng với những đứa trẻ cùng tuổi. Ðứa trẻ sắp đến tuổi thiếu niên đó là một con quái vật rất ngu xuẩn, bắt chước mọi thói xấu; đứa bé sắp đến tuổi thiếu niên giống như một sự kết tinh hoá đột ngột, ma quái không thể đoán trước nếu người ta quan sát đứa trẻ) của những gì là tồi tệ nhất trong con người. Ngay từ khi đó người ta không thể không nghi ngờ rằng tính dục là một cái gì đó hoàn toàn xấu? Và bằng cách nào người ta có thể chịu đựng sống cùng mái nhà với một đứa bé sắp sang tuổi thiếu niên? Luận đề của anh là người ta chỉ làm được như thế bởi vì cuộc đời của người ta là tuyệt đối trống rỗng; tuy nhiên cuộc đời anh cũng trống rỗng, thế mà anh không làm thế được. Cách nào đi nữa cả thế giới đều dối trá, và cả thế giới đều nói dối theo một cách rất thô thiển. Người ta ly dị, nhưng vẫn là bạn tốt. Người ta đón con về ở hai cuối tuần một; đó là sự chó chết. Ðó hoàn toàn là một sự chó chết. Trên thực tế không bao giờ con người quan tâm đến con cái của mình, không bao giờ họ cảm thấy có tình yêu với chúng, và thông thường hơn thì họ không có khả năng cảm thấy tình yêu, đó là một thứ tình cảm hoàn toàn xa lạ với họ. Ðiều mà họ biết đến là khoái cảm, khoái cảm tình dục ở trạng thái thô và sự cạnh tranh giữa các con đực; và sau đó, rất lâu về sau, trong khuôn khổ đám cưới, ngày xưa họ có thể đạt được việc cảm thấy một sự biết ơn nào đó với người bạn đời của mình - khi cô ta cho họ những đứa con, khi cô ta chăm lo việc nhà tốt, khi cô ta là đầu bếp giỏi và người tình thiện nghệ; họ còn cảm thấy được khoái cảm được ngủ trong cùng một cái giường. Có lẽ đó không phải là điều mà đàn bà muốn, có lẽ đó là một sự nhầm lẫn, nhưng đó là một thứ tình cảm có lẽ từng rất mạnh mẽ - và thậm chí nếu họ cảm thấy một sự phấn khích có phần giảm sút phải tấp mãi vào một cái lỗ đít thì họ nói trắng ra là không thể nào sống mà không có bà vợ đó nữa, khi nào đó bất hạnh mà cô ta chết đi thì họ sẽ bắt đầu rượu chè và chết đi nhanh chóng, thường thì vài tháng sau đó. Bọn trẻ con thì là sự di chuyển của một trạng thái, các quy tắc và một di sản. Rõ ràng đó là trường hợp trong các xã hội phong kiến, nhưng cũng vẫn đúng với giới thương gia, nông dân, nghệ nhân, quả thật là trong tất cả các tầng lớp xã hội. Ngày nay, những thứ đó không còn tồn tại nữa: tôi là người làm công ăn lương, tôi là người thuê nhà, tôi chẳng có gì để lại cho con trai tôi cả. Tôi không còn nghề nghiệp để dạy lại cho nó, tôi thậm chí không biết sau này nó có thể làm gì; những quy tắc mà tôi biết sẽ không còn có giá trị gì nữa đối với nó, nó sẽ sống trong một thế giới khác hẳn. Chấp nhận ý thức hệ thay đổi liên tực nghĩa là chấp nhận rằng đời một con người phải được rút gọn chặt chẽ xuống tới sự tồn tại cá nhân của anh ta, và rằng các thế hệ đã qua và tương lai không còn tí quan trọng nào với anh ta nữa cả. Chính như thế mà chúng ta sống, và ngày nay có một đứa con không còn ý nghĩa gì đối với một người đàn ông nữa. Ðàn bà thì khác, bởi vì họ tiếp tục cảm thấy nhu cầu có một ai đó để yêu - điều không phải, chưa từng bao giờ phải, là trường hợp của đàn ông. Thật sai khi cố tình nghĩ là đàn ông cũng cần được nâng niu, chơi bời với con của mình, vuốt ve chúng nó. Người ta thường nhắc đi nhắc lại từ nhiều năm nay, điều đó sai. Một khi đã ly hôn, cái khung gia đình đã bị phá vỡ, thì những quan hệ với con cái sẽ mất đi hoàn toàn ý nghĩa. Ðứa trẻ chính là cái bẫy đã sập, là kẻ thù mà người ta sẽ tiếp tục phải đối diện, sẽ sống sau khi chúng ta đã chết.”
Michel đứng dậy, đi vào bếp để lấy một cốc nước. Anh nhìn thấy những đường cong sặc sỡ đang quay ở lưng chừng trời, và anh bắt đầu buồn nôn. Việc đầu tiên cần làm là phải làm thế nào để tay hết run. Bruno có lý, tình yêu cha mẹ là một thứ tưởng tượng, một lời nói dối. Một lời nói dối có ích khi nó cho phép chuyển hóa một thực tế, anh nghĩ vậy; nhưng khi sự chuyển hóa thất bại thì chỉ còn lại lời nói dối, sự cay đắng và ý thức về lời nói dối.
Anh quay trở lại phòng. Bruno đang cuộn mình trong ghế phô tơi, không nhúc nhích, như là đã chết. Ðêm buông xuống giữa hai khối nhà; sau một ngày mới nóng nực, nhiệt độ lại trở về mức chịu đựng được. Michel đột nhiên nhìn thấy cái lồng không nơi con chim yến đã sống trong suốt nhiều năm; phải vứt nó đi thôi, anh không có ý định thay thế con vật. Anh nghĩ thoáng qua đến cô hàng xóm ở nhà đối diện, cô biên tập viên của tạp chí
Tuổi 20; anh đã không gặp cô từ nhiều tháng nay, có lẽ cô đã chuyển nhà đi rồi. Anh cố bắt mình tập trung chú ý vào hai bàn tay, nhận ra rằng sự run rẩy đã giảm đi một ít. Bruno vẫn im lìm; sự im lặng giữa hai người còn kéo dài thêm vài phút nữa.
12. “Anh gặp Anne vào năm 1981”, Bruno thở hắt ra, kể tiếp. “Cô ấy không đẹp lắm, nhưng anh đã chán phải thủ dâm mãi rồi. Cái tốt đẹp là cô ấy có vú to. Anh luôn thích những cái vú to...” Anh lại thở ra, rất dài. BCBG
[1] tin lành của anh với những cái vú to...; trước sự ngạc nhiên của Michel, mắt anh bỗng ướt nhòa nước mắt. “Sau đó hai cái vú đó sệ xuống, và cuộc hôn nhân của bọn anh cũng đi xuống. Anh đã ném bỏ cuộc sống gia đình vào không khí. Một điều mà anh không bao giờ quên: anh đã ném vào không khí cuộc sống chung với người đàn bà đó. Còn rượu vang không?”
Michel đi tìm rượu trong bếp. Tất cả những cái đó cũng hơi ngoại lệ; anh biết Bruno đến khám một bác sĩ tâm lý, rồi anh đã dừng lại. Trên thực tế người ta luôn tìm cách giảm thiểu sự đau đớn. Chừng nào mà sự đau đớn của việc thổ lộ còn chưa mạnh lắm, họ còn nói; sau đó họ im lặng, rồi chối, người ta sẽ đơn độc. Nếu Bruno lại lần nữa thấy cần quay trở lại thất bại cuộc đời mình, thì có khả năng anh đang hy vọng một điều gì đó, một khởi đầu mới; đó có thể là một dấu hiệu tốt.
“Không hẳn là vì cô ấy xấu quá”, Bruno nói tiếp, “nhưng khuôn mặt cô ta như thế nào ấy, chẳng hấp dẫn tẹo nào. Cô ta không bao giờ có sự tinh tế đó, cái ánh sáng đôi khi rọi chiếu khuôn mặt của những cô gái trẻ đó. Ðôi chân hơi nặng nề, không lạ gì cô ta chẳng bao giờ mặc minijupe cả; nhưng anh đã dạy cô ta mặc những chiếc áo nịt rất ngắn, không cần đến xu chiêng; vú to mà nhìn từ bên dưới rất là kích thích nhé. Cô ta cũng hơi lấy làm ngại, nhưng cuối cùng cũng chấp nhận; cô ta chẳng biết gì về tình dục, về quần áo lót cả, cô ta chẳng có tí kinh nghiệm nào hết. Mà anh nói làm gì nhỉ, em cũng biết cô ta mà, đúng không?”
“Em đã đến đám cưới anh...”
“Ðúng rồi”, Bruno đồng ý, với một sự kinh ngạc gần như đần độn. “Anh nhớ là anh đã ngạc nhiên khi thấy em đến. Anh tưởng là khi đó em không muốn có liên quan gì với anh nữa.”
“Em từng không muốn liên lạc gì với anh nữa hết.”
Michel nhớ lại lúc đó, tự hỏi điều gì đã thúc đẩy anh đến dự buổi lễ buồn bã đó. Anh nhìn thấy lại nhà thờ Neuilly, căn phòng gần như trần trụi, một vẻ nghèo nàn đáng sợ, một đám người giàu có nhưng không mấy phô trương chiếm hết nửa gian phòng; bố của cô dâu làm trong ngành tài chính. “Họ theo cánh tả”, Bruno nói, “
dù sao thời đó mọi người đều theo cánh tả. Họ thấy hoàn toàn tự nhiên chuyện anh sống với con gái họ trước đám cưới, bọn anh đã cưới nhau vì cô ta có chửa, một việc cũng bình thường.” Michel nhớ lại những lời của ông mục sư đang vang lên rõ ràng rành mạch trong căn phòng lạnh ngắt; vấn đề Christ người đàn ông thực sự và Chúa thực sự, về sự liên minh mới giữa Vĩnh cửu với dân tộc mình; cuối cùng anh không hiểu lắm vấn đề thực ra là gì. Sau bốn lăm phút như thế, anh ở vào trạng thái gần như lơ mơ; anh đột ngột choàng tỉnh khi nghe thấy câu này: “Cầu cho Chúa của Israel phù hộ cho các con, người có lòng thương hại đứa con đơn độc”. Ðầu tiên anh không hiểu mình đang ở đâu: đang ở chỗ người Do Thái à? Mất một phút suy nghĩ anh mới nhận ra là người ta đang nói đến
cùng đức Chúa đó. Người mục sư mềm dẻo kéo tiếp, với một lòng tin lớn dần lên: “Yêu vợ mình, là yêu chính bản thân mình. Không người đàn ông nào căm ghét da thịt mình bao giờ hết cả, ngược lại anh ta nuôi dưỡng và chăm sóc nó, như Christ đã làm với Giáo hội; bởi chúng ta là thành viên của cùng một cơ thể, chúng ta là da thịt của người và xương của người. Chính vì thế người đàn ông tách khỏi bố mẹ mình, và gắn liền với vợ anh ta, hai người sẽ trở thành một thịt da duy nhất. Sự huyền bí này rất vĩ đại, ta khẳng định, đối với Christ và Giáo hội”. Trên thực tế, đó là một cách nói bé xé ra to:
hai người sẽ trở thành một da thịt. Michel suy nghĩ một lúc về triển vọng này, ném một cái nhìn lên Anne: bình thản và tập trung, dường như cô đang nín thở; cô trở nên gần như là đẹp. Có khả năng bị thúc đẩy bởi câu trích dẫn của thánh Paul, viên mục sư tiếp tục với nhiệt tình dâng cao: “Ðức Chúa, hãy hạ cố nhìn người nữ phục vụ Người: vào lúc hợp với chồng cô ấy bằng đám cưới, cô xin Người sự chở che. Hãy để cô ấy sống trong Christ một người vợ chung thủy và đức hạnh, và cầu cho cô luôn theo những tấm gương các nữ thánh; cầu cho cô luôn đáng yêu với người chồng như Rachel, ngoan ngoãn như Rebecca, chung thủy như Sara. Cầu cho cô luôn gắn chặt với lòng tin và với những lời răn; gắn chặt vào người chồng, cầu cho cô tránh được mọi sự liên hệ xấu xa; cầu cho sự kín đáo sẽ khiến cô được coi trọng, sự trong sáng sẽ khiến cô được tôn trọng, cầu cho cô học được những điều của Chúa. Cầu cho cô sinh đẻ dồi dào, cầu cho hai người sẽ thấy được con cái của con cái họ cho đến tận thế hệ thứ ba và thứ tư. Cầu cho họ có được một tuổi già hạnh phúc, và cầu cho họ biết đến sự nghỉ ngơi của những người được bầu chọn vào Vương quốc trên trời. Nhân danh Chúa cha, Chúa con và Thánh thần, Amen.” Michel rẽ đám đông để lại gần ban thờ, khiến những người xung quanh nhìn anh tức giận. Anh dừng lại cách ba hàng ghế, quan sát lễ trao nhẫn cưới từ rất gần. Viên mục sư cầm tay hai vợ chồng trong tay mình, đầu cúi xuống, trong trạng thái tập trung đầy ấn tượng; sự im lặng bên trong nhà thờ là tuyệt đối. Rồi ông ta ngẩng đầu lên và cất cao giọng, một giọng nói vừa đầy ý chí vừa tuyệt vọng, với một loạt nhiều những câu nói đáng sợ, ông ta mạnh bạo tuyên bố: “Cầu cho con người này không tách rời khỏi những gì Chúa đã tập hợp lại.”
Sau đó, Michel tiến lại gần viên mục sư đang thu xếp đồ đạc. “Tôi rất quan tâm đến điều ông vừa nói lúc nãy...”. Người của Chúa mỉm cười xã giao. Khi đó anh đang tiến hành các thí nghiệm của Aspect và nghịch lý EPR: khi hai hạt được tập hợp lại, chúng sẽ tạo ra một thể không thể tách rời, “tôi thấy điều này rất liên quan đến câu chuyện về một da thịt duy nhất.” Nụ cười mỉm của viên mục sư hơi xoắn lại. “Tôi muốn nói”, Michel nói tiếp, sôi nổi lên, “về mặt bản thể luận, chúng ta có thể gắn cho chúng một véc tơ theo hướng duy nhất trong không gian Hilbert. Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ? - Tất nhiên, tất nhiên...”, vị đầy tớ của Chúa lẩm bẩm, nhìn ra xung quanh. “Xin lỗi nhé”, ông ta đột ngột quay sang bố của cô dâu. Họ bắt tay thật lâu, ôm hôn nhau. “Buổi lễ tuyệt lắm, rất tuyệt...”, nhà tài chính xúc cảm nói.
“Em đã không ở lại dự tiệc...”, Bruno nhớ lại. “Cũng hơi phiền, anh chẳng biết ai hết cả, thế nhưng đó lại là đám cưới của anh đấy. Bố anh đến rất muộn, nhưng dù sao cũng là có đến; ông cạo râu không kỹ, ca vát đeo lệch, ông đã hoàn toàn có dáng dấp của một tay chơi về già. Anh tin chắc là bố mẹ Anne thích có một đám khác hơn, nhưng thôi, dân tư sản tin lành cánh tả, dù sao họ cũng có chút kính nể với nghề dạy học của anh. Rồi thì dù gì anh cũng có bằng agrégation, còn cô ấy chỉ có CAPES
[2] . Ðiều khủng khiếp là đứa em gái của cô ấy lại đẹp khủng khiếp. Nó khá giống với cô ấy, ngực cũng to; nhưng mặt nó không vớ vẩn như cô ấy mà lại rất xinh. Mà cũng chỉ một tí tẹo, sự xếp đặt của các đường nét, một chi tiết nào đó. Cũng khó...” Anh thở dài lần nữa và rót rượu vào cốc.
“Anh được bổ nhiệm lần đầu tiên hồi năm học 84, ở trường trung học Carnot, Dijon. Anne đã có thai được sáu tháng. Thế đấy, cả hai đều là giáo viên, một đôi vợ chồng giáo viên, và bọn anh sống một cuộc sống bình thường.
Bọn anh thuê một căn hộ ở phố Vannerie, cách trường vài bước chân. Giá cả không đắt như ở Paris, con bé ở văn phòng nhà đất nói thế. Cũng không phải cuộc sống Paris, nhưng ông bà sẽ thấy, mùa hè sẽ rất vui, sẽ có khách du lịch, rất nhiều người trẻ tuổi vào dịp festival âm nhạc ba rốc. “Âm nhạc ba rốc?...
Ngay từ đầu anh đã hiểu mình bị nguyền rủa. Ðó không phải là “cuộc sống Paris”, cái đó anh không quan tâm, anh đã luôn rất bất hạnh ở Paris. Ðơn giản là anh thèm muốn tất cả những người đàn bà, trừ vợ anh. ở Dijon, cũng như ở tất cả các thành phố hàng tỉnh khác, có rất nhiều con bé con, còn tệ hơn cả ở Paris nữa. Những năm đó, mốt trang phục ngày càng trở nên gợi dục hơn. Thật không chịu đựng nổi, bọn con gái với cái dáng vẻ tỉnh khô, những cái váy bé xíu và những nụ cười hững hờ. Anh thấy chúng trong ngày, buổi trưa anh thấy chúng ở
Penalty, quán bar gần trường trung học, chúng trò chuyện với những thằng con trai; anh về ăn trưa cùng vợ. Anh gặp lại chúng vào chiều thứ Bảy trên những phố thương mại của thành phố, chúng mua quần áo và đĩa hát. Anh ở đó cùng với Anne, cô ta xem quần áo trẻ con; cái thai thuận, cô ta sung sướng đến khó tin được. Cô ta ngủ rất nhiều, ăn tất cả những gì cô ta muốn; bọn anh không làm tình nữa; nhưng anh nghĩ thậm chí cô ta cũng chẳng để ý đến điều đó. Trong nhiều buổi chuẩn bị cho việc đẻ cô ta thân thiết với nhiều người đàn bà khác; cô ta rất dễ gần, dễ gần và dễ mến, đó là một người đàn bà rất dễ sống. Khi anh biết là cô ta sẽ đẻ một thằng con trai anh cảm thấy một cú sốc khủng khiếp. Ngay lập tức đó đã là điều tồi tệ nhất, nó sẽ phải trải qua những gì tồi tệ nhất anh đã sống qua. Nhẽ ra anh nên sung sướng; anh mới chỉ hai mươi tám tuổi và anh đã cảm thấy mình chết rồi.
Victor sinh ra vào tháng Chạp; anh nhớ buổi lễ rửa tội của nó ở nhà thờ Saint-Michel, thật là náo động. “Những đứa trẻ được làm lễ rửa tội trở thành những viên đá sống động để xây dựng một công trình tinh thần, cho một quách quan tài thánh”, linh mục nói. Victor đỏ hỏn và nhăn nheo, trong cái áo dài nhỏ có đăng ten trắng. Ðó là một buổi lễ rửa tội tập thể, như là ở Nhà thờ nguyên thủy, có khoảng một chục gia đình. “Lễ rửa tội liên kết với Giáo hội, linh mục nói, nó khiến chúng ta trở thành da thịt của Christ”. Anne bế nó trên tay, nó phải nặng đến bốn kí lô. Nó rất ngoan, không hề la hét tí nào. “Ngay từ đó, linh mục nói, không phải chúng ta là da thịt của nhau ư?” Các bậc bố mẹ nhìn nhau, dường như có một sự nghi ngờ nào đó. Rồi linh mục rỏ nước rửa tội, ba lần, lên đầu thằng con anh; sau đó ông xức dầu thánh cho thằng bé. Thứ dầu thơm này, do giám mục cho, biểu tượng cho món quà của Ðức Thánh, linh mục nói. Nó hướng thẳng về Người. “Victor, linh mục nói, giờ đây con đã trở thành một con chiên. Bằng thứ dầu của Ðức Thánh này con đã nhập vào người Christ. Từ nay con tham gia vào sứ mệnh tiên tri, hài quách và hoàng gia.” Ðiều này làm anh thấy ấn tượng đến mức anh đã đăng ký vào một nhóm
Niềm tin và Cuộc sống họp hành vào tất cả các thứ Tư. ở đó có một cô gái Hàn Quốc rất trẻ, rất xinh, ngay lập tức anh đã muốn nhảy lên người cô ấy. Thật là tế nhị, cô ấy biết là anh đã lấy vợ. Anne tiếp đón nhóm vào một thứ Bảy ở nhà bọn anh, cô gái Hàn Quốc ngồi trên đi văng, cô mặc một chiếc váy ngắn; anh ngắm nhìn đôi chân của cô ấy cả buổi chiều, nhưng không ai nhận thấy điều gì hết cả.
Vào kỳ nghỉ tháng Hai, Anne đi cùng Victor về nhà bố mẹ cô ấy, còn anh ở lại Dijon. Anh lại có ý định trở thành tín đồ Thiên chúa; nằm dài trên chiếc đệm lò xo của mình anh đọc “Thần tích các đức Thánh Vô tội” và uống rượu anis. Thật là đẹp, Péguy
[3] ấy, thật tuyệt vời; nhưng rút cục điều đó lại khiến anh bị trầm uất hoàn toàn. Tất cả những câu chuyện về tội lỗi và tha thứ tội lỗi đó, và Chúa sung sướng với sự trở lại của một người tội lỗi hơn là lời chúc phúc của một nghìn người chính trực... nhẽ ra anh phải yêu một người tội lỗi, nhưng anh không làm được. Anh có cảm giác người ta đã đánh cắp mất tuổi trẻ của anh. Tất cả những gì anh muốn là được một con điếm trẻ môi dày mút cu trong sàn nhảy, và trong khi Anne đi vắng anh đã nhiều lần đến
Slow Rock và
Ðịa ngục; nhưng bọn chúng thường đi chơi với những kẻ khác, chúng mút những cái dương vật khác chứ không phải của anh; anh không thể chịu được điều đó. Ðó là thời điểm bùng nổ Minitel hồng, quanh nó nảy sinh cả một sự điên loạn, anh đã nối mạng hàng đêm liền. Victor ngủ trong phòng bọn anh, nhưng nó ngủ rất ngoan và không có vấn đề gì hết. Anh rất sợ khi hóa đơn điện thoại được gửi đến, anh đã lấy nó trong hộp thư và mở phong bì trên đường đến trường: mười bốn nghìn franc. May mà anh vẫn còn một sổ tiết kiệm trong Caisse d’Epargne
[4] từ hồi còn là sinh viên, anh đã chuyển hết vào tài khoản của bọn anh, và Anne không biết gì hết cả.
Khả năng sống bắt đầu trong một cái nhìn của người khác. Dần dần anh nhận ra là đồng nghiệp của anh, những người dạy ở trường trung học Carnot, nhìn anh với cái nhìn ít hằn học ghét bỏ. Họ không cần phải cạnh tranh với anh; bọn anh cùng làm một nhiệm vụ, anh là
một người trong số họ. Họ dạy anh ý nghĩa thông thường của mọi thứ. Anh đi thi lấy bằng lái đầu tiên và bắt đầu quan tâm đến các catalogue của Camif
[5] . Mùa xuân tới, buổi chiều bọn anh đến bãi cỏ của nhà Guilmard. Họ sống trong một ngôi nhà khá xấu ở Fontaine-les-Dijon, nhưng ở đó có một bãi cỏ khá dễ chịu, có trồng cây. Guilmard là giáo viên dạy toán, bọn anh dạy chung nhiều lớp. Anh ta cao, gầy, lưng gù, tóc đỏ rối, một hàng ria mép chỉ xuống; anh ta hơi giống với một kế toán viên người Ðức. Anh ta chuẩn bị nướng thịt cùng với vợ mình. Buổi chiều, bọn anh nói về kỳ nghỉ, cũng hơi nổ một chút; thường thì ở đó có khoảng bốn hoặc năm cặp vợ chồng giáo viên. Vợ của Guilmard là y tá, cô ta có tiếng là cực kỳ dâm đãng; quả thật, khi cô ta ngồi trên bãi cỏ, có thể thấy ngay là cô ta không mặc gì trong cái váy cả. Họ vừa đi nghỉ ở Cap d’Agde, bãi tắm tiên. Anh cũng tin là bọn họ đã đi tắm hơi ở một chỗ dành cho các cặp vợ chồng, quảng trường Bossuet - là cái mà anh cũng chỉ nghe nói thôi. Anh không bao giờ dám nói điều đó với Anne nhưng anh thấy họ rất đáng mến, họ có khuynh hướng xã hội - dân chủ - không phải là giới hippie vẫn quanh quẩn quanh mẹ những năm bảy mươi. Guilmard là một thầy giáo giỏi, anh ta không bao giờ do dự ở lại sau giờ học để giúp đỡ một học sinh kém. Anh nghĩ anh ta còn dạy học cho những người tàn tật.”
Bruno đột ngột ngừng lời. Vài phút sau Michel đứng dậy, mở cánh cửa sổ chấm đất và bước ra ban công hít thở không khí buổi đêm. Phần lớn những người mà anh biết đều có cuộc đời tương tự Bruno. Không tính đến một số bộ phận ở cấp quá cao như quảng cáo hoặc thời trang, quả thật tương đối dễ dàng hơn được chấp nhận về mặt tình dục trong môi trường công việc, ở đó
mã trang phục được giảm bớt và không bị nói trắng ra. Sau vài năm làm việc, ham muốn tình dục biến mất, người ta tập trung vào nghệ thuật ẩm thực và rượu vang; một số đồng nghiệp của anh, trẻ hơn anh rất nhiều, đã xây hầm rượu ở nhà. Bruno thì không thế, anh hoàn toàn không quan tâm đến rượu vang - Vieux Papes giá 11,95 fr. Gần như quên mất sự có mặt của người anh trai, Michel nhìn các tòa nhà xung quanh, dựa người vào dãy lan can. Giờ đây đêm đã xuống; gần như tất cả các ngọn đèn đều đã tắt. Ðang là buổi tối cuối cùng của đợt cuối tuần 15 tháng Tám. Anh quay trở vào với Bruno, ngồi gần anh; hai đầu gối rất gần nhau. Có thể coi Bruno là một cá nhân không? Sự thối rữa của các cơ quan cơ thể thuộc về anh, nghĩa là với tư cách cá nhân anh biết đến sự xuống dốc của cơ thể và cái chết. Từ một khía cạnh khác, cái nhìn hoan lạc chủ nghĩa về cuộc đời của anh, các loại sức lực cấu tạo nên ý thức và các ham muốn của anh thuộc về tổng thể thế hệ anh. Cũng giống như sự thiết lập một chuẩn bị mang tính thực nghiệm và lựa chọn một hay nhiều những thứ có thể quan sát cho phép tiến đến việc gán cho một hệ thống nguyên tử một tập tính cho trước - khi có tính hạt, khi có tính sóng - cũng vậy, Bruno có thể là một cá nhân, nhưng từ một quan điểm khác anh chỉ là một nhân tố thụ động trong diễn tiến của một chuyển động lịch sử. Các động lực, giá trị, ham muốn của anh: không gì trong số đó có thể làm anh trở nên khác biệt, dù chỉ rất ít, với những người cùng thời với anh. Phản ứng đầu tiên của một con thú bị trêu tức thường là dùng toàn bộ sức lực tìm cách đạt đến con mồi của mình. Chẳng hạn nếu đặt đĩa thức ăn trước một con gà đang đói (
Gallus domesticus), nhưng lại ngăn lại bằng một cái lồng sắt, con gà sẽ cố hết sức lực, ngày càng điên rồ hơn, tìm cách với đến thức ăn qua cái lồng đó. Tuy vậy, dần dần tập tính này sẽ được thay thế bằng một tập tính khác, bề ngoài có vẻ không có mục đích. Cũng vậy, chim bồ câu (
Columba livia) thường cọ mỏ xuống đất khi chúng không thể tóm được con mồi mà chúng muốn, trong khi mặt đất không có gì ăn được hết cả. Chúng không chỉ làm cái động tác quệt mỏ vô ích đó, mà còn thường xuyên trượt cánh xuống đó; một tập tính như thế không hiểu được, thường thấy trong các tình huống có dính dáng đến một sự tước đoạt hay một cuộc đánh nhau, được gọi là
hành động thay thế. Ðầu năm 1986, không lâu sau khi ba mươi tuổi, Bruno bắt đầu viết.
13. “Không một dịch chuyển siêu hình nào, Djerzinski sẽ ghi chép nhiều năm về sau, lại hoàn thành mà không được thông báo, được chuẩn bị và dễ dàng hóa bởi một tập hợp những di chuyển nhỏ hơn, thường diễn ra mà không ai phát hiện ở thời điểm lịch sử của nó. Tôi tự coi mình như là một trong những sự di chuyển bé nhỏ đó.”
Lang thang giữa những con người của châu Âu, Djerzinski ít được người ta hiểu khi ông còn sống. Một suy tư được phát triển không có sự có mặt của một người tra vấn hữu ích, Hubczejack nhấn mạnh trong lời nói đầu cho tập
Clifden Notes, đôi khi có thể tránh được những cạm bẫy của sự đặc ứng hoặc hoang tưởng; nhưng cùng lúc nó không có cơ hội được biện bác để đào sâu. Người ta có thể nói thêm là Djerzinski cho đến cuối vẫn tự coi mình trước hết là một nhà khoa học; cốt lõi của đóng góp của ông cho sự phát triển của nhân loại dường như được tạo nên từ những bài viết về lý-sinh - rất thường xuyên được xếp theo các tiêu chí thông thường về tính chặt chẽ và khả năng bị bác bỏ. Hai nhân tố mang nhiều tính triết học nhất chứa đựng trong những viết lách cuối cùng chỉ xuất hiện trước mắt người đọc như là những đề nghị tình cờ, thậm chí hơi điên rồ, ít được chứng minh bằng một tiến trình lô gích hơn là những động lực thuần túy cá nhân.
Anh hơi buồn ngủ; trăng đang trườn đi phía trên thành phố say ngủ. Qua một lời nói của anh trai, anh biết Bruno sẽ tỉnh dậy, sẽ mặc áo khoác và biến vào thang máy; ở La Motte-Picquet lúc nào cũng có thể tìm được taxi. Xem xét các sự kiện hiện tại trong cuộc đời chúng ta, chúng ta dao động không ngừng giữa niềm tin vào cái tình cờ và sự hiển nhiên của quyết định luận. Tuy nhiên, khi đó là quá khứ, chúng ta không thể nghi ngờ gì được nữa: rõ ràng là toàn bộ diễn tiến theo cách theo đó tất cả, quả thực, phải diễn ra. ảo tưởng về trực giác đó, gắn liền với một bản thể luận về vật chất và đặc tính, liên đới với trạng thái khách quan cao độ. Djerzinski có ảo tưởng đó ở một mức độ quá đà; chắc chắn vì lý do đó mà anh không nói ra, những câu bình thường và quen thuộc, để an ủi con người đau khổ nhàu nát đó, người gắn chặt với anh bởi nguồn gốc mang tính di truyền chung, người mà tối nay, nằm ngửa bụng trên đi văng, từ lâu đã vượt qua các giới hạn của lịch sự được yêu cầu một cách kín đáo trong khuôn khổ một cuộc trò chuyện của con người. Tuy nhiên anh không hề cảm thấy cảm thông lẫn kính trọng; tuy vậy trong anh vẫn có một trực giác yếu đu»i và không thể tranh cãi nào đó: qua câu chuyện bi thảm và ngoắt ngoéo của Bruno lần này đã thấy lấp ló một thông điệp; những câu nói có lẽ - lần đầu tiên - có được một ý nghĩa quyết định. Anh đứng dậy, đi vào toa lét. Rất kín đáo, không tạo ra tí tiếng động nào, anh nôn ọe. Rồi sau khi dấp một ít nước lên mặt, anh quay trở lại phòng khách.
“Em không thuộc về loài người”, Bruno dịu dàng nói, giương mắt lên nhìn anh. “Anh đã cảm thấy điều đó ngay từ đầu, khi nhìn thấy em đối xử với Annabelle như thế nào. Tuy nhiên, em là người đối thoại mà cuộc đời đã trao cho anh. Anh cho là em đã không ngạc nhiên mấy, thời đó ấy, khi nhận được những bài viết của anh về Jean-Paul II.”
“Mọi nền văn minh...”, Michel buồn bã nói, “mọi nền văn minh đều phải đối mặt với cái nhu cầu đưa ra lời chứng minh cho sự hy sinh liên quan đến bố mẹ. Quan sát những hoàn cảnh lịch sử, anh sẽ không có lựa chọn nào khác đâu.”
“Anh đã ngưỡng mộ Jean-Paul II thực sự!” Bruno phản đối. “Anh còn nhớ đó là năm 1986. Cũng những năm đó kênh Canal+ và M6 bắt đầu phát sóng,
Globe được tung ra, mở các quán ăn nhân đạo. Jean-Paul II là người duy nhất, thực sự là người duy nhất hiểu điều gì đang diễn ra ở Tây phương. Anh đã kinh ngạc khi thấy bài viết của anh không được đón tiếp mặn mà lắm ở nhóm
Niềm tin và Cuộc sống ở Dijon; họ đã chỉ trích giáo hoàng về các vấn đề phá thai, bao cao su, tất cả những thứ ngu ngốc đó. Tốt, đúng thôi, thực ra anh cũng không thực sự cố gắng lắm để hiểu họ. Anh còn nhớ, những cuộc họp đã diễn ra ở nhiều nhà khác nhau, cứ lần lượt xoay vòng; người ta mang đến một món xa lát thập cẩm, một ít taboulé
[6] , một chiếc bánh ngọt. Những tối đó anh ngồi mỉm cười ngu ngốc, lúc lắc cái đầu, uống cạn những chai rượu vang; anh hoàn toàn không nghe gì hết những điều họ nói. Anne thì ngược lại rất hào hứng, cô ta đã ghi tên vào một nhóm chống nạn mù chữ. Những tối đó anh thêm một ít thuốc ngủ vào bình sữa của Victor, rồi anh vừa thủ dâm vừa vào Minitel hồng; nhưng anh không bao giờ hẹn gặp được ai từ trên đó cả.
Sinh nhật Anne vào tháng Tư, anh mua tặng cô ấy một cái quần lót điểm bạc. Cô ấy hơi phản đối, rồi đã chấp nhận mặc nó. Trong khi cô ta cố cài khóa móc, anh uống nốt chỗ rượu sâm banh. Rồi anh nghe giọng cô ta, yếu ớt và hơi run: “Em sẵn sàng rồi...” Khi đi vào phòng ngay lập tức anh nhận thấy là không xong rồi. Mông cô ta rũ xuống, mấy cái tất cao thít chặt lấy; ngực cô ta không chống cự lại được với việc cho con bú. Cần phải có liposuccion, cần tiêm silicon vào đó, cả một công trường... cô ta sẽ không bao giờ chấp nhận hết cả. Anh nhắm mắt thò một ngón tay vào trong quần lót cô ta, anh vẫn mềm oặt. Vào lúc đó, trong phòng bên cạnh, Victor hét toáng lên - những tiếng hét dài, lanh lảnh, không thể chịu được. Cô ta quấn khăn tắm vào người và chạy về phòng. Khi cô ta trở lại, anh chỉ đòi cô ta thổi kèn một lúc. Cô ta mút rất dở, răng cọ hết cả vào; nhưng anh đã nhắm mắt và hình dung đó là miệng một con bé học trò lớp mười, một đứa con gái người Ghana. Tưởng tượng thấy cái lưỡi hồng hồng và hơi ráp của nó, anh đã có thể phóng tinh vào trong miệng vợ được. Anh chưa bao giờ có ý định có thêm con cái. Ngày hôm sau anh bắt tay viết bài về gia đình, sau đó nó đã được đăng.”
“Em vẫn còn nó ở đây...” Michel chen vào. Anh đứng dậy, đi tìm tờ tạp chí trong tủ sách. Hơi ngạc nhiên, Bruno giở tờ tạp chí ra và tìm được trang đó.
Có những gia đình, ở mức độ nào đó
(Những lóe sáng giữa những kẻ vô đạo
Những lóe sáng tình yêu ở tận cùng sự buồn nôn),
Không thể biết
Những lóe sáng đó lóe lên như thế nào.
Những kẻ nô lệ trong công việc của những tổ chức không thể hiểu
Khả năng thực hiện duy nhất của chúng ta là sống, là tình dục
(Và chỉ liên quan đến những người được phép của tình dục
Những người có thể với tới tình dục.)
Ðám cưới và sự thủy chung ngày nay cắt đứt chúng ta khỏi khả năng tồn tại,
Không phải trong văn phòng, trong lớp học mà chúng ta có thể tìm lại được sức lực trong ta đòi hỏi cuộc chơi, ánh sáng và nhảy nhót;
Và chúng ta cố nhập số vận của mình thông qua những tình yêu ngày càng khó khăn hơn
Chúng ta cố bán cái cơ thể ngày càng thêm kiệt sức, hay chống cự, bướng bỉnh
Và chúng ta biến đi
Trong bóng tối nỗi buồn
Ðến tuyệt vọng thật sự,
Chúng ta đi xuống theo con đường cô độc cho đến nơi tất cả màu đen,
Không con cái không vợ,
Chúng ta đi vào cái hồ
Giữa đêm khuya
(Và nước thật lạnh lẽo trên da thịt chúng ta)
Viết xong bài thơ này, Bruno liền rơi vào một trạng thái gần như tê liệt đờ đẫn. Hai giờ sau anh mới tỉnh vì những tiếng hét của thằng con. Từ hai đến bốn tuổi, bọn trẻ con bắt đầu có ý thức tăng dần về bản ngã của chúng, điều đó kích thích ở chúng những cơn khủng hoảng duy ngã. Mục đích của chúng khi đó là biến môi trường xã hội xung quanh mình (thường do bố mẹ chúng tạo nên) thành toàn những nô lệ phải thuần phục trước mỗi cái vẫy của những ham muốn của chúng; sự ích kỷ của chúng không còn giới hạn nữa; đó là hậu quả của sự tồn tại của con người. Bruno đứng lên khỏi tấm nệm mềm của chiếc ghế; những tiếng rú rít tăng thêm, thể hiện một cơn giận dữ điên người. Anh nghiền hai viên Lexomil vào một ít mứt, đi về hướng phòng Victor. Thằng bé đã ỉa đùn. Anne đang làm cái quái gì thế nhỉ? Những buổi học xóa mù cho bọn đen ngày càng kết thúc muộn hơn. Anh cầm lấy cái đống bẩn thỉu, quẳng nó lên một cái hộp, mùi hôi thối thật là khủng khiếp. Ðứa trẻ ngốn ngấu mẩu mứt và cứng người lại, như vừa chịu một phát đánh. Bruno choàng áo và bước về phía
Madison, một quán bar buổi đêm ở phố Chaudronnerie. Trả tiền bằng thẻ tín dụng, anh mua một chai Dom Pérignon giá ba nghìn franc rồi mời một cô gái tóc vàng rất xinh đẹp; trong một căn phòng trên tầng cô gái rất nhiệt tình thổi kèn cho anh rất lâu, đôi lúc dừng lại nguồn cảm khoái. Cô ta tên là Hélène, gốc gác trong vùng và đang học ngành du lịch; cô ta mười chín tuổi. Vào lúc anh đi vào cô ta, cô ta thắt âm đạo lại - ít nhất anh có được đến ba phút hạnh phúc hoàn toàn. Khi đi Bruno hôn lên môi cô ta, nhất định đòi đưa cho cô ta tiền boa - anh còn ba trăm franc tiền mặt.
Tuần sau đó anh quyết định đưa cho một đồng nghiệp xem bài thơ - đó là một thày giáo dạy văn học khoảng năm mươi tuổi, theo chủ nghĩa Marx, rất tinh tế, có tiếng là đồng tính luyến ái. Jajardie đã rất ngạc nhiên một cách thích thú. “Ảnh hưởng của Claudel
[7] ... hoặc có thể đúng hơn là của Péguy, Péguy của thơ tự do... Nhưng đúng là rất độc đáo, đó là một thứ rất ít khi gặp...” Những bước tiếp theo, không còn nghi ngờ gì nữa: “Tờ
L’
Infini. Ðó là nơi tạo ra văn học ngày nay. Phải gửi bài thơ này cho Sollers
[8] .” Hơi ngạc nhiên, Bruno bảo ông nhắc lại cái tên - và thấy là mình nhầm với tên một loại nệm giường, rồi gửi bài thơ đi. Ba tuần sau anh gọi điện đến nhà xuất bản Denoël; anh rất ngạc nhiên khi thấy chính Sollers nhấc máy trả lời, hẹn gặp anh. Anh không có giờ vào thứ Tư nên rất dễ dàng lên Paris và trở về trong ngày. Trên tàu anh thử cố đọc
Một sự cô độc đáng tò mò, nhưng phải bỏ khá nhanh, nhưng dù sao cũng đọc được vài trang của
Ðàn bà - nhất là những đoạn về bộ phận sinh dục.
Họ hẹn gặp nhau tại một quán cà phê trên phố Ðại học. Nhà xuất bản đến muộn mười phút, vung vẩy chiếc đót hút thuốc đã làm nên sự nổi tiếng của ông. “Anh từ tỉnh lên à? Tệ thật đấy. Phải lên sống ở Paris đi, lên ngay đi. Anh có tài đấy.” Ông thông báo với Bruno là sẽ đăng bài viết về Jean-Paul II trên số
L’
Infini tới. Bruno ngồi đó ngây dại; anh không biết là Sollers đang ở giữa giai đoạn “chống cải cách tôn giáo”, và đang tung ra tới tấp những lời tuyên bố hào hứng ủng hộ giáo hoàng. “Péguy, cái đó làm tôi nổ tung!» Nhà xuất bản kêu to lên. «Và Sade
[9] ! Sade! Nhất là hãy đọc Sade đi!...»
«Bài thơ về gia đình của tôi...»
«Phải, cũng hay lắm. Anh là một người phản động. Tất cả các nhà văn lớn đều là phản động tuốt. Balzac, Flaubert, Baudelaire, Dostoievski: toàn những tay phản động hết cả. Nhưng cũng phải làm tình nữa đúng không nào? Phải làm tình tập thể. Quan trọng đấy.»
Sollers bỏ Bruno lại sau năm phút, đang ở trạng thái hơi say say tự thích thú bản thân mình. Anh dần bình tĩnh lại trên đường về. Philippe Sollers dường như là một nhà văn nổi tiếng; tuy nhiên, đọc
Ðàn bà anh thấy rõ ràng ông ấy chỉ có thể cua được những con điếm già trong giới văn nghệ thôi; những cô gái trẻ, rõ ràng, thích các ca sĩ hơn. Trong những điều kiện đó, xuất bản những bài thơ chó chết trong một tạp chí cứt đái thì có lợi ích gì?
«Khi nó được in», Bruno nói tiếp, «dù sao anh cũng mua năm số
L’Infini. Thật may mắn, họ đã không in bài viết về Jean-Paul II. Anh thở phào. Ðó quả là một bài kém... Em còn rượu không?»
«Em còn một chai.» Michel đi vào bếp mang ra chai thứ sáu và cũng là chai cuối cùng của hộp Vieux Papes; anh bắt đầu cảm thấy thực sự mệt mỏi. “Ngày mai anh có phải đi làm không?” anh hỏi. Bruno không trả lời. Anh quan sát một điểm nào đó xác định trên hộp rượu, nhưng ở chỗ đó trên hộp chẳng có gì hết, chẳng có gì cụ thể hết cả; chỉ có một vài cục mỡ đông. Tuy nhiên anh cảm thấy sống động lên khi nghe tiếng lách cách của nắp chai, và chìa cốc của mình ra. Anh uống từ từ, từng ngụm một; cái nhìn của anh giờ đây hướng về và nhảy nhót trên chiếc lò sưởi; anh hoàn toàn không muốn tiếp tục. Michel do dự, rồi bật vô tuyến: có một chương trình động vật về thỏ. Anh tắt tiếng. Có thể không phải thỏ thường mà là thỏ rừng - anh nhầm chúng với nhau. Anh ngạc nhiên khi nghe giọng Bruno lại cất lên.
«Anh đang cố nhớ anh ở Dijon bao lâu. Bốn năm? Năm năm? Một khi đã bước vào thế giới công việc tất cả các năm đều giống nhau hết cả. Suốt ngày chỉ thuốc thang - và những đứa trẻ con lớn lên. Victor lớn lên; nó gọi anh là “bố”.
Ðột nhiên, anh bật khóc. Thu lu trên chiếc đi văng anh khóc nức lên, sụt sùi. Michel nhìn đồng hồ tay, đã hơn bốn giờ. Trên màn hình, một con mèo rừng đang ngoạm xác một con thỏ trong miệng.
Bruno rút một chiếc khăn giấy ra chùi khóe mắt. Nước mắt anh tiếp tục rơi. Anh nghĩ đến thằng con của mình. Victor bé nhỏ tội nghiệp, nó đã từng vẽ
Strange và nó từng yêu anh. Nó đã từng cho anh ít giây phút hạnh phúc đến vậy, ít giây phút yêu thương đến vậy - và giờ đây nó sắp mười lăm tuổi, và quãng thời gian hạnh phúc với anh đã chấm dứt.
“Anne thường thích có con nữa, bản chất cô ấy rất hợp với việc làm mẹ. Chính anh đã đẩy cô ấy về ở vùng Paris để xin một chỗ làm. Tất nhiên, cô ấy không dám từ chối - người phụ nữ cần tự khẳng định mình qua nghề nghiệp, đó là những gì người ta vẫn nghĩ hoặc làm ra vẻ nghĩ về giai đoạn đó; cô ta lúc nào cũng muốn nghĩ giống mọi người hơn là tất cả những người khác. Trong tâm can anh nhận ra bọn anh về Paris chỉ là để ly hôn cho nó êm đẹp. ở tỉnh dù sao mọi người vẫn gặp nhau, nói chuyện với nhau; và anh không phải quan tâm đến việc cuộc ly hôn của mình trở thành đề tài bàn tán của mọi người, dù trong đó có sự cảm thông đi nữa. Mùa hè năm 89 bọn anh đi nghỉ với câu lạc bộ Med, đó là kỳ nghỉ chung cuối cùng. Anh còn nhớ những trò chơi trong bữa ăn rất ngu xuẩn và nhiều giờ trôi qua trên bãi biển để tán tỉnh những con bé con; Anne nói chuyện với những bà mẹ khác. Khi cô ta nằm thấp xuống, có thể thấy rõ xenlutit của cô ta; khi cô ta nằm ngửa thì thấy rõ vết rạn ở bụng do chửa đẻ. Hồi đó ở Ma rốc, dân Ả rập rất khó chịu và hiếu chiến, mặt trời thì quá nóng. Không đáng để mắc căn bệnh ung thư da nếu cứ suốt ngày ru rú trong lều để thủ dâm. Victor đã nhanh chóng lợi dụng chuyến đi, nó chơi rất vui ở Mini Club...” Giọng của Bruno lại vỡ ra.
«Anh là một thằng chó chết; anh đã biết anh là một thằng chó chết. Bình thường bố mẹ phải hy sịnh, đó là lẽ thường. Anh không sao chịu đựng được kết cục tuổi trẻ của anh; chịu đựng ý nghĩ con trai anh sẽ lớn lên, sẽ trẻ trung thay vào chỗ của anh, sẽ thành công trong cuộc đời của nó trong khi anh thì đã bỏ lỡ tất cả. Anh muốn quay trở lại làm một cá nhân.»
«Một đơn tử...», Michel dịu dàng nói.
Bruno không đứng dậy, uống cạn cốc rượu của mình. “Hết rượu rồi”, anh nhận xét, giọng hơi lạc đi. Anh đứng dậy, quàng áo khoác lên người. Michel đưa anh ra đến ngưỡng cửa. “Anh yêu con trai anh, Bruno vẫn nói. Nếu nó gặp tai nạn, nếu nó gặp chuyện gì bất hạnh, anh sẽ không thể chịu đựng được. Anh yêu thằng bé đó hơn tất cả. Tuy vậy, không bao giờ anh có thể chấp nhận sự tồn tại của nó được.” Michel nhất trí. Bruno đi về phía thang máy.
Michel quay trở lại bàn làm việc, viết lên một tờ giấy: “Ghi chép một cái gì đó về máu”; rồi anh nằm xuống, cảm thấy nhu cầu suy nghĩ, nhưng anh đã thiếp đi gần như ngay lập tức sau đó. Vài ngày sau anh xem lại mẩu giấy, viết ngay xuống dưới: “Quy luật dòng máu”, và suy tư khoảng mười phút.
[1]BCBG : (Bon chic bon genre): thành ngữ, chỉ những ngườii phong cách, thời thượng, đúng mốt.
[2]Ðể được phép dạy học (trở thành công chức Nhà nước), sinh viên Pháp phải trải qua các kỳ thi sư phạm. Agrégation khó hơn CAPES rất nhiều, nên Bruno tự coi mình cao hơn Anne, vợ của anh.
[3]Charles Péguy (1873 - 1914), nhà thơ, nhà chính trị Pháp.
[4]Caisse d’Epargne: một ngân hàng lớn của Pháp.
[5]Camif: một loại cửa hàng chuyên bán đồ nội thất.
[6]Taboulé: món cơm Arập rất phổ biến ở Pháp.
[7]Paul Claudel (1868 - 1955), nhà thơ Pháp.
[8]Philippe Sollers: nhà văn hiện đại nổi tiếng của Pháp, phụ trách tờ L’Infini.
[9]Hầu tước de Sade (1740 - 1814), nhà văn Pháp chuyên viết về tình dục.