Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Hồi Ký, Tuỳ Bút >> Gã tử thần (nhiều tập)

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 219 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Đăng bởi: thithoadinh 13 năm trước
Gã tử thần (nhiều tập)
dinh thi thoa

Gã tử thần (nhiều tập)
Gã Tử Thần



Hỡi Tử Thần!
Chàng là ai!
Mà muôn loài muôn vật
Từ Vua Chúa cao sang
Đến Thần Dân thấp hèn
Đều hãi hùng kinh khiếp!
Khi nhắc đến tên chàng.


Thật vậy, từ muôn thuở những gì là sự sống đều rúng động khi nghe đến tên này.

Để đối phó với hắn, người thì đối diện tìm hiểu, kẻ thì trốn chạy. Đối diện tìm hiểu để rồi một ngày nào đó cũng phải gặp hắn, dù không muốn không ưa, mà lại không biết giờ nào, phút nào hắn đến, đến cách nào, thế nào? Nhiều câu hỏi tại sao? tại sao đặt ra. Thôi thì muôn hình muôn kiểu. Ra đi hạnh phúc với sự hiện diện đông đủ với con cháu, ra đi tức tưởi cô đơn ngoài đường, ngoài chợ, dưới biển, trên rừng… Khi tóc còn xanh, lúc còn ẵm ngửa, đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi thành phần. Không ai là không có một vé cầm sẵn trong tay, chỉ có điều là vé mời này không ghi rõ thời gian, địa điểm mời.

Người may mắn thì “lên đường” đúng thời hạn mà mọi người gọi là “thọ” có nghĩa là tròm trèm tám, chín chục, rất hiếm lên đến một “chăm”, ở “ngưỡng” này mọi người đều tung hô bái phục. Còn thì đôi khi chưa kịp chào đời đã đi, tuổi này cho đến già, cỡ nào cũng có. Đẹp cũng có, xấu cũng có, “rùng rợn” cũng có. Kiểu già, kiểu non, kiểu triền miên trên giường bịnh, kiểu bất ưng, kiểu nguyên vẹn, kiểu tan tành tan nát mỗi nơi một miếng, hoặc làm hai, làm ba, có khi không còn dấu vết. Khô, ướt, nước, lửa…. Kiểu nào cũng khó… ưa.

Phần đông có đến chín phần mười là … “trốn chạy” , không dám nhìn, dám nghe, dám nhắc đến hắn. Cố quên hắn, cố quên sự thực … phũ phàng. Tìm đủ mọi phương cách kéo dài thật dài… ngày đến gặp hắn. Nào là bồi dưỡng tẩm bổ sâm, yến… . Nghe đâu đang điều chế loại thuốc “ cải lão hoàn đồng” chống lão hóa có thể sống được đến hai, ba thế kỷ…. Võ Tắc Thiên muốn đổi nửa giang sơn để kéo dài cuộc sống thêm … ít ngày mà không được. Tần Thủy Hoàng luyện linh đan trường sinh bất tử nhưng cuối cùng vẫn phải… tử.

Làm sao xua đuổi được cái gã đáng ghét này đi để được sống mãi muôn đời… Niềm khát khao cháy bỏng của mọi sinh vật.

Đối diện với hắn để tìm hiểu, để trả lời những câu hỏi “tại sao”. Tại sao không ai tránh khỏi hắn, tại sao có người gặp hắn một cách êm ái, đẹp đẽ. Lại có người, trái lại quá sớm, quá bất ưng, quá mạnh bạo… khốc liệt. Rồi … sau đó … còn gì?

Còn trốn chạy không bao giờ nghĩ đến gã quái ấy vì quá sợ hãi, chỉ cần nhìn thấy trước mắt ngày sống hiện tại, chăm chút nâng cao chất lượng từng giờ, từng ngày. Quên béng hắn đi như chưa bao giờ, không bao giờ có hắn, biết hắn. Để khỏi bị ám ảnh giày vò, cái thân xác này sẽ trở thành vô tri vô giác,… và rồi sẽ thành tro, thành bụi nếu mang… thiêu. Chôn … thì sẽ trương phình … giòi bọ lúc nhúc khi phân hủy. Mà những nỗi kinh hoàng này bất cứ lúc nào cũng có thể… đến.

Quên đi tên “chết tiệt” này, ráo riết tìm tòi những nghiên cứu khoa học phát minh những phương thức “sống mãi không già”. không chết… nhưng thỉnh thoảng … ông “Chời” “thở nhẹ” một cái “đi đứt” vài trăm ngàn mạng, như đàn kiến bị một gáo nước dội vào. Đó chỉ là thở nhẹ! Những người “vô tư” cho là hiện tượng thời tiết ngẫu nhiên nhưng kỳ thực đã được cảnh báo từ trước. Đại lụt Hồng Thủy được nghe nhiều trong quá khứ … hữu ý hay không quyền lực thiên nhiên? Một điều đáng ngạc nhiên là các thú vật hoang dã đều biết trước và tìm nơi trú ẩn (thú vật nuôi bị nhốt lại không kể) nên không hề bị thiệt hại. Chả nhẽ Đấng Tối cao “ưu đãi” thú vật hơn loài người? Hay … loài người không thèm… quan tâm lời Ngài …cảnh báo.

Còn đối diện với gã gọi là Tử thần này, đã hiểu, đã biết nên nhiều cơ quan từ thiện, bác ái, tôn giáo đã có để đưa con người đến Chân lý Thiện Mỹ. Đường nào cũng đến La Mã nhưng đường nào dễ nhất, đúng nhất, gần nhất, nhanh nhất… trong khả năng yếu đuối, nhỏ bé, hạn hẹp của con người.

Việc tìm hiểu đường nào ngắn, dài, dễ, khó, không quá phức tạp như ta nghĩ, hay chỉ vì “khó ưa” cái gã này nên không dám quan tâm đến hắn, hoặc trước mắt chẳng “lợi lộc” gì cả, hoặc có cái nhìn phiến diện nghĩ đến hắn “khó làm ăn”, đến nỗi ai nhắc đến hắn trước mặt xem như phạm vào điều “cấm kỵ” “xui xẻo”, có thể bị xua đuổi, chửi mắng và xem họ như người bịnh hoạn, tâm thần. Điều khó nhất là có chịu đưa lên bàn cân để mổ xẻ, so sánh hay không? Để cùng dìu nhau tới đích.

Dĩ nhiên là ai cũng cho là đường mình đúng, gần nhất… Nhưng hãy “mở rộng tầm nhìn” dù sao thì tri thức có thêm cũng không ... dư. So sánh, tìm hiểu một cách “nô dzích”. Tất cả đều được chứng minh như các công thức toán học, như các kết quả nghiên cứu khoa học được đem ra “trình làng”. Sự thực phải hiển nhiên, rõ ràng như 2 cộng 2 là 4 thì mới được công nhận.

Khởi hành phải có đích đến, đến được hay chưa thì phải có tin tức, kết quả, “nói có sách, mách có chứng”. Còn thì cứ tiếp nối cha ông, ông bà sao mình dzậy! không quan tâm so sánh, tìm hiểu hơn thiệt , con đường nào quanh co, khấp khuỷu, con đường nào ngắn thẳng có thể đưa mình đến chỗ mình cần đến, hay chỉ thực hành theo thói quen kết quả thế nào không cần biết thì thực là … tiếc thay!

Thí dụ rất đơn giản: Một số người từ Sài gòn trên đường về Cần thơ hay có thể nói là số người ngày đã tới ngày, giờ gặp hắn mà người ta gọi là an nghỉ, về cõi vĩnh hằng, hay là an giấc ngàn thu. Sài gòn là dương gian Cần thơ là cõi đời đời hoặc thiên đàng hoặc âm phủ gì gì đó.

Có 2 phương tiện: nhóm thứ Nhất đi đò, nhóm thứ Hai đi xe. Người nhà của nhóm thứ Nhất hoàn toàn không biết tin tức họ hiện đến đâu, ở đâu, vì không có phản hồi, trước đó cũng có nhiều người dùng phương tiện này kết quả cũng như vậy. Người nhà của nhóm thứ Hai được biết kết quả của một số thành viên đến đâu, ở đâu, một đôi khi họ còn cho biết họ cần gì!. Như vậy là có phản hồi.

Nghe có vẻ phi lý khó có thể chấp nhận được nhưng nó lại là sự thực, vì như đã nói ở trên “nói có sách, mách có chứng” . Siêu nhiên và tự nhiên lẫn lộn với nhau không phải là không có. Đến nỗi có nơi chuyện này là chuyện bình thường mang tầm cỡ “quốc gia” cả “nước” đều phải công nhận. Phải chăng “Đấng Tối cao” muốn kêu gọi loài người điều gì đó nên cho những “điềm lạ, dấu lạ”. Những điềm lạ, dấu lạ thì rất nhiều nhưng làm sao để phân biệt những điềm nào do “Ngài” gửi đến.

Đâu là Ánh sáng? đâu là Bóng tối? Chỉ cần có quan tâm là phân biệt được ngay giống như trước những viên kim cương Thiên nhiên và Nhân tạo. Kim cương “thật” chiếu muôn tia sáng rực rỡ đủ màu đỏ, xanh, vàng, lam… lấp lánh… Kim cương tượng trưng cho tình yêu vĩnh cửu, son sắt, thủy chung…như tình nàng Tô Thị kiên trinh bế con chờ chồng, mặc cho mưa nắng phũ phàng chờ đến hóa đá, yêu hoài ngàn năm… như mối tình của Trương Chi, chàng lái đò với Mỵ Nương… mối tình bất diệt… mang xuống tuyền đài chưa tan. Những tia sáng yết ớt, mong manh, giả tạo… của kim cương nhân tạo làm sao có thể bì được khi kề bên “Vua “ các loại đá quí, kiệt tác của thiên nhiên, kết tinh sau cả ngàn năm trong khi “đàng kia” chỉ làm trong một “loáng”, giá trị như hoa sớm nở tối tàn. Chính bản thân kim cương thật đã tự xác định giá trị bản thân thêm vào có gốc gác, tiểu sử, tên tuổi, quá trình sử dụng mà nhiều người đã công nhận và kiểm chứng. Còn “giả” thì… không có tất cả… Người làm ra gán cho tất cả, với những cái tên mỹ miều, sử dụng không kết quả, nhiều khi thay vì “có” lại “mất” “lợi” lại “hại” “lên cao” lại xuống “vực thẳm”

Động tác “chọn” rất đơn giản nhưng giá trị lại rất lớn, không ngôn ngữ có thể diễn đạt được. Dựa vào đâu mà nói những lời này, cũng lại phải có căn cứ, xin cứ theo dõi tiếp. Đừng theo người “nhắm mắt đưa chân” rồi cũng “đưa chân nhắm mắt bắt chước giống người”.

Trốn chạy “che mắt bịt tai” không nghe không nhìn đến gã không mời mà cứ đến không hẹn mà cứ gặp tử thần này tưởng trốn chạy là “thoát” được hắn, trái lại nhiều khi “dễ dàng” gặp hắn hơn, điều dễ hiểu, đi trên một con đường đầy hầm hố, vực thẳm gai chông, nhắm mắt đi thì đương nhiên lủi vào những chỗ không nên vào có thấy đâu mà né!… Bởi thế mới có những tai ương thảm cảnh, có chuyện nhà này có phước, nhà kia vô phước. Không ít những trường hợp sự nghiệp đang lẫy lừng, công danh đang thăng tiến nhưng chỉ một chớp mắt đi đứt tất cả, không mang theo được gì, tài sản, tình yêu, sự nghiệp, cuộc sống này vô phước, cuộc sống sau cũng dzậy, chỉ vì … nhắm mắt làm lơ .

Luôn luôn những nỗi bất an giày xéo tâm tư, trước là sinh, lão, bịnh, tử, tiếp là sao cho biết đủ mọi “mùi” “ngọt ngào” của cuộc sống kẻo mỗi ngày mỗi qua như con thoi, mái tóc từ từ “có màu”, làn da từ từ “có vết”, không dám phí phạm một giây nào “thì giờ là vàng bạc”, tranh thủ thực hiện những “dự án” . Thời hạn để có cái nhà, cái xe, có cái nhà rồi thêm cái nữa, cái nữa… có cái xe rồi thêm cái nữa, cái nữa… có bà vợ rồi, thêm bà nữa, bà nữa … cứ thêm mãi mãi… không bao giờ đủ, khiến ăn không ngon, ngủ không yên, ngày đêm bứt rứt, muốn đủ mọi điều nhưng sức người có hạn, thời gian cũng có hạn như cơn khát khô cổ càng uống càng khát, như rơi vào bãi cát lún, như cá mắc vào lưới càng vùng vẫy càng lún, càng bị siết chặt…

Rất nhiều cánh cửa được mở để mời gọi để giúp đỡ mình đến với bến bờ hạnh phúc nhưng vì quá bận rộn , lo toan cuộc sống hằng ngày , l ngày chỉ có 24 giờ , đời người chỉ có ba vạn sáu ngàn ngày nên không đủ để ôm đồm nhiều việc. Nhỏ thì học hành ăn uống ngủ nghỉ… lớn thì làm việc kiếm sống ngày 8 tiếng có khi 10, l2 tiếng, còn lại thì nghỉ ngơi bồi dưỡng việc cá nhân, việc gia đình… trăm ngàn việc.

Có một việc mình quên không tự hỏi: Tại sao lại có mình hiện diện trên đời này, mục đích gì? Do đâu, vì đâu? Tại sao lúc nào ta cũng cảm thấy có một cặp mắt nghiêm nghị chiếu rọi thấu suốt cả ý nghĩ tâm hồn ta dù là chân tơ kẽ tóc? Tại sao khi làm được một việc tốt, việc thiện, ta cảm thấy vui vẻ, bình an? Trái lại, khi làm một điều gì xấu xa, tội lỗi, ta cảm thấy bất an, áy náy, lo lắng, buồn rầu dù việc này không vi phạm pháp luật. Phải chăng đó là tiếng gọi của lương tâm, là tiếng gọi của cha, Đấng đã tạo nên ta. Đêm ngày lúc nào ta cũng nghe tiếng gọi đó. Có khi ta “vờ” không nghe thấy… những tiếng gọi đó vẫn khẩn thiết, van nài… Có khi tiếng gọi này dằn vặt làm ta mất ăn mất ngủ cho đến khi sửa chữa lỗi lầm mới được yên. Phải chăng lúc nào Ngài cũng ở bên cạnh ta, trong ta, săn sóc ta, chỉ dẫn đường đi, nước bước cho ta… nhưng ta không thèm quan tâm nên không biết, không hay sự hiện diện của Ngài.

Tại sao có không khí cho mình thở, nước sông, nước biển, cá, tôm, heo, gà…cho mình ăn, mình uống… tại sao có ánh sáng mặt trời sưởi ấm cho mình? bốn mùa vận chuyển điều hòa… Nếu thiếu một trong những tiện nghi ấy, như nước, không khí, mặt trời… liệu mình có tồn tại không? Một cử chỉ nhỏ nhặt khi tha nhân làm cho mình như trao ly nước, nhường bước đi… mình nói lời cám ơn . Còn những việc lớn như dzậy! mình có khi nào nghĩ đến không? biết ơn không? mình hiện diện trên cõi đời này chỉ để hưởng thụ cuộc sống cho riêng mình thôi sao?

Khi tạo ra con cái mình mong muốn điều gì ở con? mong con trở thành một người tốt? có ích cho xã hội, hiếu thảo với cha mẹ mong con đáp trả lại tình yêu gắn bó với cha mẹ, gia đình hạnh phúc. Nếu con cái không cần biết đến cha mẹ là ai, không biết đến sự hy sinh, lòng thương yêu của mình cho nó cao cả đến mức nào, vẫn từng giờ, từng phút chờ đợi sự trở về của con trong khi nó vẫn thản nhiên vô cảm, hằng ngày thừa hưởng của cải của cha mẹ, không cần tìm hiểu, thăm hỏi, chăm sóc đến cha me, người từ đó mà nó được sinh ra, chỉ lo o bản thân mình thì cha mẹ đau buồn biết mấy! Hơn nữa lại làm những điều bê tha phóng đãng phá phách của cải của cha mẹ.

Dù con cái hư hỏng đến đâu , cha mẹ vẫn hướng về con với lòng khoan dung vô bờ, chờ đợi sự trở về của con. Tài sản mà nó đang lãng phí có khi là rất nhỏ chỉ là “một cái chấm so với đường dài’ mà cha mẹ đang dành sẵn cho nó nếu nó biết sử dụng của cải thử thách trước mặt. Hướng về con với tấm lòng tan nát khi con bước vào con đường tự hủy diệt. Sẵn sàng hy sinh mạng sống vì con. Súc vật là loài hạ đẳng mà tình yêu đối với con cũng vô cùng cao cả. Không hiếm những trường hợp xả thân cứu con trước nanh vuốt của thú dữ đã phải bỏ mạng. Hai mẹ con heo rừng bị sư tử săn đuổi, heo con bị bắt , heo mẹ từ đằng xa quay trở lại với con, chẳng làm được gì cả, chỉ nộp mạng cùng chết với con. Một chú nghé con bị chủ “làm thịt” trước mặt mẹ, mẹ chú đã lăn đùng ra “sùi bọt mép” dẫy dụa, ngất xỉu vì quá đau đớn. Trước khi rắn con được nở ra, rắn mẹ phải lo “biến” đi kẻo thèm qúa “xơi” mất con mình. Con tim của thú vật còn như vậy vì con mình, loài người thì còn nhiều nhiều hơn như thế nữa huống chi “cha chung loài người “trái tim” của Đấng Tối cao. Tất cả con tim của nhân loại họp lại chỉ như một giọt nước trong biển cả như một con ốc trong đại dương.

Tìm hiểu để làm nên điều kỳ diệu, biến cái tên ác ôn đáng ghét kia thành bạn bè thân thiết, biến đại hung thành đại cát, biến cay đắng nặng nề ra ngọt ngào êm ái dịu dàng, vô thức thành ý thức, biến lộn xộn thành ngăn nắp, thứ tự, biến rối rắm thành suông sẻ, bão táp phong ba thành êm đềm phẳng lặng

Tìm hiểu để cuộc sống sau là Thiên đàng là Niết bàn, cuộc sống hiện tại cũng là Thiên đàng là Niết bàn để quẳng đi những lo âu, nhọc nhằn, đau khổ của bịnh hoạn, tai ương, chết chóc bỏ đi cái câu “đời là bể khổ”. Đối diện để “yêu” cái nên yêu, “ghét” cái nên ghét, chứ không ngược lai.

Tìm hiểu để được hạnh phúc vui vẻ, bình an. Đạt được những niềm hạnh phúc lớn lao “Vượt quá sự hiểu biết” mà ai ai cũng được thừa thưởng khi ĐƯỢC sinh ra là một con người. Oi! Nếu hiểu được tài sản mình sẽ được thừa hưởng là gì? Là thế nào? Mình đang có những gì? Thì thật là đại đại trăm trăm ngàn ngàn chữ… đại phúc. Còn nếu không thì … ngược lại

Loài người là sinh vật thượng đẳng Thượng đế trao ban cho bộ não “tuyệt vời” nếu không sử dụng đúng công suất thì quả là lãng phí biết mấy!

oOo



Ai cũng biết Thói quen ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của một con người. Một thói quen xấu sẽ làm cho người ấy trở nên xấu, tốt trở nên tốt. Thói quen xấu như: hút thuốc, uống rượu. Tốt : ngủ dậy sớm tập thể dục. Câu chuyện Thói Quen tiếp theo sẽ là một ví dụ.






Ngày 18 tháng 11 năm 2010

M. Đinh Thị Thoa
ĐT: 3.935.1130 – 0937.346.004











THÓI QUEN




Có một nhà bác học lừng danh, chuyên nghiên cứu những vì sao trên trời, Mộc tinh, Hỏa tinh...

Ông rất cẩn thận, trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày ăn uống tắm rửa. Có một thói quen rất cẩn thận, sau bữa ăn luôn luôn không bao giờ quên rửa miệng.

Thế nhưng, không hiểu vì sao lại bị nổi lên những vết lang đỏ quanh miệng, cằm, ngưa ngứa, đo đỏ...Những vết lang này càng ngày càng rộng, càng ngứa...càng đỏ. Ông phải bôi thuốc ngoài da, lang ben, nấm... nhưng cũng không khỏi. Ngày lại ngày...

Sau đó, vì không thể để những nghiên cứu khoa học mang tầm cỡ thế giới bị ảnh hưởng, ông phải bớt chút thì giờ vô cùng quý báu của ông để đến một vị bác sĩ tầm cỡ về da. Bác sĩ kết luận, da của ông vô cùng nhạy cảm, không thể dùng những loại xà bông bình thường, mà phải dùng loại đặc biệt riêng cho loại da này, và thêm toa thuốc với những loại thuốc đặc trị quý hiếm.

Tiền bạc thì không đáng kể vì ông không thiếu, nhưng còn thời gian... vả lại, cũng rất khó chịu ...Tốn kém công sức nhưng vẫn không kết quả. Bực mình thật.

Mang một khuôn mặt đầy dẫy những vết lang đỏ, ở cằm rồi tới quanh miệng, lan đến hai bên khóe mũi từ từ đang lên tới hai khóe mắt.

Thế này thì làm sao có thể ngoại giao được với những nhân vật quan trọng trong nước, quốc tế. Vết thương nho nhỏ nay thành lơn lớn. Nỗi đau be bé nay thành to to.

Tuy có trở ngại, nhưng niềm đam mê nghiên cứu khoa học của ông không hề giảm sút. Trái lại, nỗi đam mê công việc to lớn này vẫn tăng dần với thời gian.

Song song với công việc, ông vẫn phải chữa trị những danh y căn bịnh trầm kha của ông. Hầu mang lại cho ông một khuôn mặt bình thường như những người bình thường khác. Một niềm khao khát bây giờ không còn là dễ dàng đối với ông.

Những khi cần tiếp xúc với truyền hình, báo chí, nhân vật quan trọng. Ông chọn lọc kỹ lưỡng ngày giờ, không gian, địa điểm. Rồi mới ra quyết định. Sao cho họ không phát hiện những khiếm khuyết ở ông. Gặp càng ít càng tốt . Càng hiếm thì lại càng quý nên cũng không đến nỗi quá bế tắc.

Rồi dến một ngày, một ngày vô cùng quan trọng đối với cuộc đời ông. Ông vỗ đánh đét vào đùi, ôm đầu rên rỉ. “Vậy mà không biết” ông đã tìm được nguyên nhân gây ra căn bệnh chết tiệt quái ác này.

Số là người em út của ông được tặng một chuyến du lịch dài ngày và xa. Chuyến du lịch này, tới một nơi mà ai cũng sẽ tới. Vào cái ngày mà không ai có thể biết được. Món quà này không ai thích cả. Ngay cả chú kiến bé tí tì ti...Nhưng không ai có thể chối từ.

Tản mạn một chút. Mình cẩn thận, làm những chuyến du lịch Phan Rang, Phan Thiết, Vũng Tàu, Long Hải. Xa hơn nữa là Mỹ, Pháp... Mình luôn chuẩn bị hành trang cho chuyến đi, nơi ăn, chốn ở... thời gian, địa điểm. Thậm chí, còn lên lịch chi tiết cho từng giờ, từng phút trong chuyến đi. Thật vậy, còn gì tệ hại hơn, khi không biết ở đâu, ăn cái gì... khi rời xa cái tổ ấm thường ngày, dù chỉ có dăm bữa, nửa tháng. Vậy thì có nên không! Chuẩn bị cho cái chuyến đi thật xa, thật dài bất tận này. Cái tổ ấm mà mỗi người hiện hữu, tồn tại dài lắm là ba, dăm, bẩy chục. Trường hợp hiếm là tám, chín chục năm. Trong khi đấy, cái chỗ ở mà nhân loại gọi là ...Thiên Thu...Vĩnh Hằng...Nghĩa là so với cái ba vạn sáu ngàn ngày kia, một con số vô cực. Nỗi khó khăn không chuẩn bị trước cho chuyến du lịch Phan Rang, Phan Thiết...Khi rời xa tổ ấm chỉ có dăm mười lăm ngày còn khó chịu huống chi sẽ ra sao khi lang thang, vô định mãi mãi...mãi mãi...và mãi mãi.

Cái từ Bác Ái, Từ Thiện, Tu Nhân Tích Đức...mà tổ tiên để lại có phải nghiền ngẫm.

Minh nghĩ “Chếl là Hết”. Vậy mình thử trang bị những vũ khí tối tân, hiện đại nhất. Hoặc thiết kế ở trong một phòng kính dày trong suốt. Công nghệ mới, đặc biệt. Dao đâm không thủng, súng bắn không lủng. Để không có gì có thể xâm hại mình được. Xong, ta được đưa vào một sa mạc mêmh mông...Tăm tối...Xa xa...gần gần...Những người chết đủ kiểu ... nước... lửa... treo...tứ mã... ...bất động...

- “Vớ vẩn” Con kiến bé nhất thấy đồng loại chết cũng phải chạy.

Vậy, quang cảnh vẫn như trên, không có người chết nào cả. Chỉ là sa mạc mênh mông... mênh mông... Bóng tối phủ kín mình trong thế giới ấy! Không một tiếng động dù nhỏ nhất.

- Trong bóng tối mất hết tác dụng của thị giác, bàn cãi làm gì!

Rồi nhé! Bóng tối không còn phủ kín ta nữa. Thay vào đó, ánh sáng vằng vặc của vầng trăng tròn, soi rõ từng hạt cát dưới chân. Chiếu sáng từng đám mây trên trời, bay lượn lờ... lượn lờ vào khoảng không gian, xám ngắt, bao la, vô tận... Không một tiếng động... dù nhỏ nhất.

Một người gan dạ cũng không thể không từng biết những cảm giác... lành lạnh... rờn rởn... rởn tóc gáy... khó tả...

Quay trở lại với căn bệnh của nhà bác học. Sau sự ra đi của người thân. Nỗi thương nhớ day dứt. Những kỷ niệm thời thơ ấu vui buồn. Trong vòng tay ấm áp, mềm mại như nhung của cha mẹ che chở, bao bọc. Ánh mắt, nụ cười, hình dáng của người em luôn phảng phất. Út có để lại những kỷ vật mà Út thường dùng. Trong số kỷ vật này, nhà bác học chọn cái áo mưa màu xanh dương. Nó đã từng ôm ấp, giúp đỡ người em thân thương của ông, tránh được những giọt mưa vô tình ướt át, lạnh lẽo...
Ông nuối tiếc, phải chi lúc Út còn, ông gặp Út nhiều hơn, giao lưu với nhau nhiều hơn. Thật là... Chỉ khi hạnh phúc không còn nữa mới thấm thía được giá trị của nó. Giọt nước mắt chảy ngược vào trong... mằn mặn.

Ngoài những giò rời hành tinh xanh, phóng vào vũ trụ, bay tới sao Hỏa, Mộc, Thổ, Thiên Vương... Lục lọi, tìm hiểu, khám phá, thể rắn, thể khí. Sự sống, sự chết. Tỷ năm, triệu năm...

Ông trở lại trái đất, về căn phòng của ông. Trong cái tủ cũ kỹ, mở ngăn kéo có cái hộp, đựng cái áo mưa xanh xanh. Nâng niu, vuốt ve, trìu mến. Ông tìm hình dáng quen thuộc, yêu quí thằng Út em ông qua nó. Muốn màu xanh của nó được xanh hơn, chất liệu được bóng bẩy hơn, nên ông tự tay giặt, rửa, lau. Những động tác tầm thường mà bác học cao quí không có thì giờ để ý tới. Giặt, rửa, lau... Giặt, rửa, lau...Để vớt vát lại chút dư hương êm đềm ngày nào.

Rồi! Như đã nói ở trên, nhà bác học bật phắt dậy. Động tác GIẶT, RỬA, LAU. Sao mà nó giống giống... Ông tròn mắt, căng mày suy nghĩ...Giống giống động tác với cái miệng của ông. Cùng là động tác RỬA.

Kỷ vật thân yêu này, sau khi giặt, rửa. Ông không thể treo hờ hững đâu đó để phơi khô. Nó quá quý nên vô giá. Ong phải cất ngay vào hộp. Để trong ngăn kéo của một cái tủ. Thật cẩn thận.
Giặt, rửa xong thì phải ướt át, ông lau khô...lau khô...

Cái miệng của ông, với động tác rửa sau khi ăn. Không cần lau. Bởi nó tự khô. Hằng ngày, sau bữa ăn, đã có sẵn một thau nước, gồm khăn lau của rô bốt phục dịch để sẵn sàng. Tất cả phải sẵn sàng. Ông không thể chờ đợi. Dù là một giây…

Ăn xong, ông vớt nước rửa miệng. Không quên xoa vài vòng quanh miệng, râu ria. Rồi nhanh chóng ào vào công việc phi thường của mình. Chính xác từng dem. Không hề có động tác thừa.
Đôi làn môi của ông, khi dùng bữa xong. Còn lưu lại dầu, mỡ, mắm, muối... Hòa cùng với nước, nhanh chóng đi thăm viếng những bạn hữu xung quanh. Râu, ria, các tế bào da. Rồi đăng ký thường trú ở lại.

Ngày lại ngày, tháng lại tháng. Càng ngày càng đông... Quen thuộc mà không vui. Bởi lãnh địa nào, hổ đấy. Râu thì phải ở chỗ của râu. Ria cũng vậy…

Mắm muối, dầu mỡ chỉ được quyền. Thân thiện với các tế bào tôm cá, trâu bò, heo gà. Trở thành một hỗn hợp mà động vật cao cấp nhất ưu ái. Rồi đi qua miệng, thực quản xuống dạ dày. Qua ruột non, già. Ra ngoài…

Gì cũng vậy, trái với quy trình ắt có loạn. Động vật cao cấp là con người. Cùng gia đình, ruột thịt. Chung đụng còn đôi khi rắm rối phức tạp điên cái đầu huống chi!

Các tế bào da quanh miệng. Không thể đội trời chung với các chủng loại này. Chúng chiến đấu mãnh liệt sống còn. Để xua đuổi vị khách tới sai địa chỉ này.

Nhưng không kết quả. Những vị khách này đã thế lại càng đông thêm. Làm bài toán, ba ngày một lần nhân lên. Tối hậu thư khẩn liên tục truyền về bộ chỉ huy trung ương. Nhà bác học khẩn trương rốt ráo giải quyết như đã biết.

Phát hiện được nguyên nhân trên do những cảm xúc đặc biệt từ kỷ vật. Nhà bác học như trút được gánh nặng ngàn cân. Xiềng xích giam hãm tự do cộng lẫn tổn thất sức khỏe lẫn ngoại hình đã được tháo bỏ. Ông bồi hồi hạnh phúc...

Cuộc sống tiếp diễn, những tưởng khó khăn đã được giải tỏa. Ngờ đâu do đã được lập trình sẵn. Nên những động tác của ông cứ lập lại do thói quen không dừng lại được. Tình trạng vẫn tồi tệ như cũ. Thậm chí còn tệ hơn. Vết thương như vết dầu loang không thể ngăn chặn được.

Vợ ông nói:

- Hay là em cài cho anh một cái khăn ở ngực. Gần miệng để khi rửa miệng xong thì anh lau. Ngay trước mặt, anh không thể quên.

- Sao lại thế? Em bé mẫu giáo mới phải như vậy. Còn gì là thể diện.

Nhà bác học cương quyết chối từ, mặc cho vợ khẩn khoản.

Thế là, một mặt cứ vớt nước rửa miệng như cũ. Mặt khác, bôi thuốc, uống thuốc để chữa. Vợ ông công việc cũng không kém ông, nên không thể túc trực nhắc nhở. Có lúc ông quá nhanh tay. Không chộp lại kịp. Hoặc vì quá nhiều việc nên quên để ý.

Sau nhiều ngày suy nghĩ biện pháp giải quyết. Vợ ông mừng rỡ nói với ông:

- Hay là anh vất phăng cái động tác rửa tai hại ấy đi. Cứ để bình thường như trong môi trường thiên nhiên hệ sinh thái tự cân bằng. Ăn xong, anh không cần rửa miệng, tự động dầu mỡ, mắm muối ấy sẽ trôi vào miệng theo những cái liếm môi, mím miệng của anh.

Thế nhưng, bộ não của ông đã được chất chứa đầy dẫy. Ngoài công việc nghiên cứu vũ trụ. Rồi thì Lịch sử, Địa lý, Chính trị, Kinh tế các nước Tây Tầu. Thời khóa biểu của ông kín hết không còn một giây trống. Cái động tác nhỏ nhặt tai hại kia đã trở nên phản xạ, vô thức. Sự suy nghĩ của ông hướng về Bắc cực, Nam cực cùng miệng thì nhai, nhai xong thì nuốt. No rồi rửa miệng. Ông cũng không nhớ được đã rửa lúc nào. Với ông, thì chỉ có thể thêm chứ không có thể bớt dù là động tác tay chân.

Bầu không khí ảm đạm, u uất bao trùm. Tình thế vô cùng tuyệt vọng. Mọi thứ đều ngưng trệ.
Từ một người năng động khỏe mạnh, tràn đầy sinh lực. Ông trở nên lờ đờ, yếu ớt, teo tóp. Mọi cử động đều trở nên hết sức khó khăn, thậm chí phải nằm một chỗ, không còn tí nhựa sống.

Bỗng nhiên, không gian sáng lên.
Mọi việc trở nên tích cực.

Từ khi những vết thương của ông nặng nề dần. Ông đã không ăn được. Phải uống sữa bằng ống hút. Thì cái động tác rửa phá hại kia đã không cần dùng đến nữa. Vì không có cái động tác chết tiệt này. Nên các tế bào quanh vùng miệng mặt không bị thương tổn, bảo nhau tự hồi sinh, không cần một chút gì trợ lực của y họa hiện đại.

Bộ não của ông từ khi nằm liệt giường, không ăn, nên không Hoạt động được. Lịch thời gian trống rỗng. Sự cố lập trình sẵn đã tự động xóa. Không cần một tí tẹo nào chất xám.

Sữa đầy đủ chất dinh dưỡng, rồi cháo thịt bò, heo... thập cẩm. Yến xào, sâm ...Cao cấp nhất được xay nhuyễn. Chuyền vào bao tử qua ống hút. Ông đã chỉ cần mút...mút. Nên ông nhanh chóng hồi phục.

Ông đã đi lại được, khuôn mặt đã trở lại bình thường. Một bộ não hoàn hảo, thời gian biểu trắng tinh. Ông trở nên một con người hoàn toàn mới.



----------oOo---------






Tạo hóa ban cho loài người những con vật đáng yêu, như chó mèo, mà ai cũng biết. Sau đây xin giới thiệu đến bạn đọc CON THẰN LẰN.




Quận3, ngày 25 tháng 7 năm 2009
M. Đinh Thị Thoa


CON THẰN LẰN



Trong cái phòng khoảng 20m2 là chốn bình yên của chàng. Tọa lạc trên lầu một, ban công hướng ra một khoảng sân rộng. Bình minh đến ngập tràn những tia nắng vàng óng ánh, mượt mà ập vào ấm áp thơm nồng, chiều lại, làn gió mát thổi hiu hiu, những cành lá xanh mơn mởn của cây mận bên cạnh nhà, ru xào xạc ngan ngát hương hoa mận, mà thỉnh thoảng cho ra những quả mận hồng hồng, nho nhỏ, xinh xinh, thật ngọt, có vị chan chát nhè nhẹ đặc trưng, khó có thể kiếm được ở những chợ, những quầy hàng...
Một cái bàn màu xanh nhạt, đặt cạnh cửa sổ bên hông. Trên bàn là một tủ kiếng nhỏ, vật liệu là kính trong suốt. Bộ ấm trà, chàng đã sắm cách đây một thập niên rưỡi, được giữ gìn cẩn thận mà mỗi sáng, đều chứa đựng những tách trà hương thơm nồng nàn, quyến rũ. Có những ngày vì bận rộn công việc không được thăm hỏi đến, nó nằm một chỗ mờ mịt hắt hiu.. Cái TV nhỏ cũng cùng độ tuổi, kê trên đầu tủ sát cửa sổ nhìn ra ban công. Bên cạnh là chiếc đi văng, đã có từ lâu từ khi chàng chưa ra đời, tuổi của nó đáng là cha mẹ của hai món đồ kia. Nếu được đổi những phương tiện hiện đại thay thế cho những thứ cũ kỹ này, chàng sẽ từ chối , bởi nó mang nhiều kỷ niệm của những thời gian gần gũi.
Tuy đã ba chục lẻ sáu cái xuân, nhưng vẫn chưa yên nơi yên chỗ, cha mẹ cứ hối thúc và mai mối do những bạn bè của ông bà đưa lại, chàng đủng đỉnh cứ y như là cái xuân nó không có chân. Cũng không phải là chàng vô duyên xấu xí, nhưng mà cứ vì nhửng lý do không đâu rồi lại không đến được với nhau. Thôi thì không có duyên có nợ, chàng tự nhủ và cũng để có cớ trả lời cha mẹ.
Những giờ làm việc ra ngoài lẫn vào cơn lốc xoáy của nhịp sống hối hả. Tiếp xúc với những bộn bề công việc, căng thẳng mệt mỏi. Chàng trở về căn phòng ấm cúng của mình, nghỉ ngơi, thư giãn.
Sáng những ngày nghỉ, chàng dậy sớm. Nhắm mắt, vỗ nhè nhẹ làn nước mát mẻ quanh cổ, trán, mặt. Ngước mặt, hít sâu đón nhận bầu không khí trong lành của buổi sớm mơn man, cùng vài động tác thể dục, hít thở, thong thả ngắm nhìn quang cảnh trời mây, cây lá xung quanh.

Khi thì tản bộ vài trăm mét, đến một quán phở trong một con hẻm nhưng lúc nào cũng đông vui, thưởng thức một tô nóng sốt nghi ngút, cay xè, với những cọng húng, hành...béo bổ. Lúc thì vào một tiệm bánh mì nóng dòn, những mảnh dòn rào rạo...quên thôi. Lại còn những đòn bánh tét gói lá chuối, những củ khoai lang luộc từ quê mang lên, của nhười phụ nữ được một nhà giàu cho bán nép trước hiên nhà, vẫn còn đọng lại những giọt mồ hôi lấm tấm trong bịch xốp trắng..

Ngày nào cũng thế, lúc nào cũng vậy, không bao giờ trước khi ăn chàng quên...



Tủ kiếng trong trên bàn, được kê lệch vào độ dăm phân với cửa sổ. Hé một khe nhỏ tỏa nhẹ những niềm vui thoảng man mác. Tủ này có hai ngăn. Chân là hai thanh kiếng trong dày cao khoảng hơn một phân. Khi tiếp xúc với mặt bàn tạo một khoảng trống có thể lùa chiếc đũa vào. Mặt bàn vẫn được nhìn xuyên suốt.
Đó là chỗ trú ngụ của cặp vợ chồng thằn lằn, theo chàng nghĩ vì có một mảnh mai trắng trẻo hơn. Không như những cô chú khác sậm màu loang lổ, cặp này thanh tao nho nhã, chung sống với nhau rất vui vẻ hòa bình, không bao giờ thấy mâu thuẫn, tranh chấp. Thoạt đầu, chàng chỉ thấy thoắt một cái là biến mất, sau khe cửa hoặc núp dưới bình trà, tách ... dưới khoảng trống của mặt bàn và tủ kiếng.
Không như những anh kiến chị dán, cô chuột... phiền hà, mất vệ sinh. Cố gắng lục lọi, tìm tòi. phá phách thức ăn, quần áo. Các vị thằn lằn này vô hại. Chỉ ăn những thức ăn rơi vãi hoặc ruồi muỗi. Không có nó mình vẫn phải “chó treo mèo đậy” mà! Chúng chỉ ở những nơi cao ráo sạch sẽ.
Trước kia, thường thường lúc nào chàng cũng có một, hai thú cưng bên cạnh. Có bản tính cực đáng yêu mà tạo hóa đã trao tặng cho loài người như chú chó Lucky, Lulu, hoặc thể hình mềm mại, ẻo lả, uyển chuyển như nàng Miu đỏng đảnh Nhà không nhiều không gian mà anh chàng Lucky lại “cẩn tắc vô...” luôn đi thăm chừng lãnh địa khắp nơi, ngõ ngách, mỗi nơi đánh dấu một tí. Còn nàng Miu che dấu rất kỹ lưỡng, nhưng dân gian ví “chua như... mèo”.. Vả lại, đến mùa yêu đương thì chúng san bằng mọi rào cản đi theo tiếng gọi của con tim. Rồi thì vẫn thiếu cái vẫy đuôi mừng rỡ, cọ xát nũng nịu, thiếu bước chân luôn theo sát, tia mắt không ngừng dõi theo buồn vui của chủ cả khi lim dim vào giấc ngủ.
Số là, chàng nhìn thật kỹ trong khe cửa, khoảng trống nhỏ, thấy cặp mắt nhỏ xíu hau háu theo dõi những tác động ngoại cảnh. Không có chó mèo thì thằn lằn vậy. Chàng liền bấu mẩu bánh mì, một vài hột cơm búng vào khe cửa. Lâu dần thành thói quen không bao giờ quên. Thằn lằn luôn giữ một khoảng cách an toàn, khó nhìn được đầy đủ ngoại hình trong tầm tay. Chỉ những giờ nghỉ ngơi, không làm việc như buổi tối sáng sớm đùa giỡn trên trần nhà, vách tường trên cao.
Có lần, chàng thử dùng cái dĩa dành riêng cho chúng trong để chút thức ăn. Sau đó ngồi đi văng xem TV theo dõi diễn biến. Lúc đầu hắn từ từ bò ra, nửa phần thân trước ngóc lên cạnh đĩa nghe ngóng, hai tiếng đồng hồ qua đi nó chỉ làm vài động tác, quay đầu nhìn, quay lưng bò vào, ngửi thức ăn.
- Sao không đớp đại miếng mồi, chạy vào chỗ trú ẩn nhai nuốt, chừng mấy lần là no bụng, khỏi tốn công sức thì giờ.
Chàng lẩm bẩm.

Điểm đặc biệt, là giống này rất cẩn thận về sinh hoạt ăn uống ngủ nghỉ, đi lại. Có khi chàng cho chúng vài mẩu thức ăn, rồi ra ngoài hơn tiếng đồng hồ về vẫn thấy ở tư thế cũ thăm dò an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngay cả việc sinh đẻ hình như cũng có kế hoạch. Chàng chưa thấy hiện diện trong một căn phòng số lượng quá nửa đầu ngón tay .
Thế mà thỉnh thoảng thấy xác khô của một hai chú ở kẹt cửa, góc nhà có lẽ hay trụ ở khe cửa kín đáo vô tình gió ập tới hoặc ai đó đóng mở cửa nên rủi ro xảy ra. Một lần chàng nghe tiếng “bẹp” nhỏ dưới chân, nhìn xuống một con bị chàng đạp phải, chỉ biết chép miệng kêu khổ cấp cứu ra chỗ an toàn. Đúng là không thể quản hết mọi việc cố cẩn thận tối đa, còn rủi ro thì chỉ biết trông cậy vào... trời.
Qua khe hở nhỏ đó, giờ điểm tâm, giờ cơm...
Quảng cách an toàn thu ngắn lại, không còn núp sâu trong khe cửa, mà lộ hẳn toàn thân đối diện chàng. Không biết có phải chúng thông tin cho nhau hay không, mà mấy con ở phòng dưới nhà cũng thân thiện với chàng như vậy.
Tính tình của chúng thật đáng trân trọng. Không vồ vập khi ăn uống, không nạp bừa bãi thức ăn vào cơ thể. Bởi thế không có con nào bị béo phì, thì chắc tim mạch tốt, tiểu đường cũng không, ít bịnh hoạn. Chúng chậm rãi quan sát chung quanh nên xác suất an toàn lao động cao.
Đôi bên giao lưu với nhau, ngày lại ngày, trở nên quen thuộc. Tới giờ họ lại gặp nhau ở khe hở nhỏ đó.
Hôm nay chàng phải đi công tác xa nhà hơn tuần lễ.
Quay quắt với công việc, chàng trở lại căn phòng của mình. Chợt nghe một tiếng tách. Trước mặt chàng cách vài gang tay, ngay khung cửa sổ, con thằn lắn nhảy ra miệng tặc lưỡi liên tục, đuôi ngoe nguẩy.
Nó mừng chàng đã về.

Ngày 23 tháng 8 năm 2009
Đinh Thị Thoa













HAI CHỊ EM



Đang làm việc, vào khoảng 15g. Tôi nhận được một cuộc điện thoại của Thắng, con trai hỏi “mẹ đó hả” “cứ ở tại đó, con sẽ đến”. Tiếp theo, một cuộc khác, từ quê cách Thành phố 130 cây số, chỗ cha mẹ tôi ở của một cô láng giềng báo tin, một tin mà con trai không dám báo qua điện thoại “mẹ chị đã qua đời, vì tai nạn”, như một cú sét giáng xuống đầu, tôi bật kêu lên, khóc giữa công ty, quỵ xuống, mấy người bạn phải dìu vào phòng trống, an ủi. Không bất ngờ sao được vì bà rất khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tuy ngoài 70 nhưng minh mẫn, tháo vát hơn cả những người trẻ tuổi. Tôi mới gặp mẹ cách đó 10 ngày, khi bà về Thành phố dự đám tang của người em gái kế bà tức dì ruột của tôi mất vì bị bịnh viêm gan siêu vi c.

Sự “ra đi “ của dì Thanh nhẹ nhàng, êm ái vì dì được “chuẩn bị” trước nhiều ngày. Trên giường bịnh, những ngày chót dì vẫn vui vẻ, vẫn chuyện trò, đôi khi xen vào những câu nói khôi hài cám ơn sự giúp đỡ chăm sóc của con cháu. Chịu đựng những đau đớn thể xác nội tạng bên trong, lở loét bên ngoài vì nằm một chỗ không xoay sở được. Họ hàng, con cháu qui tụ đông đủ, cầu kinh suốt ngày đêm cùng với các Hội nhóm đạo đức, Hội Bà mẹ Công giáo, Dòng Ba Đa minh, Cát minh, Nhóm Kinh thánh… của Giáo xứ thường xuyên thăm viếng, hỏi han, đọc kinh, cầu xin. Giúp đỡ cho dì trên đường về quê với Cha trên trời được “xuôi buồm thuận gió”.

Những ngày này, dì rất bình thản, tươi tỉnh. Lúc đương thời, dì là người con hiếu thảo với mẹ dưới đất tức bà ngoại, còn cha thì mất sớm.

Dì là út, tôi thường nghe người lớn kể lúc còn nhỏ, dì ở tuổi đã chạy chơi khắp nơi, nhưng vẫn còn “bú tí”, cứ chạy chơi, thỉnh thoảng lại chạy về “bú mẹ”, có lẽ nhờ “sữa mẹ tốt” lại “bú dài hạn” nên dì cao, to, khỏe mạnh hơn người bình thường. Vào những năm 80, lúc dì hơn bốn mươi, đi buôn hàng chuyến trên một chuyến xe lam. Xe bị lật, đè gọn lỏn lên dì , dì khỏe mạnh đến đỗi, nằm dưới gầm xe, hai tay chống xe lên gọi ơi ới. Mọi người nâng xe lên, kéo dì ra. Dì không bị thương tích trầm trọng, chỉ bị máu bầm tụ ở một bên đùi, nhưng chỗ đau này lại là nguyên nhân của căn bịnh viêm gan do dùng quá nhiều thuốc tây chữa trị.

Ngoại gắn bó với dì mật thiết hơn với những người con khác, dễ hiểu cô Út mà. Sau này khi ngoại mất, mấy chục năm sau, nhắc đến ngoại dì vẫn khóc, trong mọi chuyện, dì là người mau nước mắt.

Khi ngoại sắp mãn phần, gia đình bàn bạc và cũng là ý ngoại, ngoại phải về quê ở với bác trai để thuận tình, thuận lý khi ma chay. Những năm tháng này, thỉnh thoảng ngoại “nhớ” cô Út khóc lóc. Thế là cô Út “chạy chọt” xe cộ để đưa ngoại về Thành phố. Trong thời gian này, xe cộ rất khó khăn, mà chỉ dành riêng cho một mình ngoại. Về Thành phố, ít hôm ngoại lại đòi về con trai, cô Út lại “tất tưởi” lo xe cho mẹ về con trai. Về con trai, lại nhớ “cô Út” cứ thế... cứ thế, cho tới khi ngoại mất, trở thành giai thoại trong gia đình.

Ngày giải phóng, mọi người tìm cách di tản, chồng dì làm việc cho nước ngoài nên gia đình được cho đi khẩn cấp, không tiền nong gì cả, mà gia đình dì cũng chẳng có tiền, vì chi tiêu rộng rãi, có tới đâu, hết tới đó nhưng dì không đi, đối với dì, tình cảm là trên hết, bỏ lại anh em ruột thịt là chuyện không thể, trong khi đó nhiều người đánh đổi tất cả, dù đi một mình, dù ngay cả tính mạng….

Có lẽ, niềm thương nhớ ngoại ấp ủ nhiều năm từ khi ngoại mất, nên những ngày cuối đời, dì tươi tỉnh, vui vẻ, bình thản chờ đợi ngày ra đi, vì dì sẽ được gặp lại người mẹ yêu dấu. Thêm nữa nào là anh, là chị, là con cháu đã đi trước, dì cũng không lúc nào quên. Những người mà khi còn sống, dì luôn luôn khi thì gạo, khi thì tiền, quần áo, thuốc men,… Nhất là vào những dịp lễ, tết khi dì về quê. Nhà họ hàng, người làng, nhà nào dì cũng vào bánh trái, tiền nong phân phát…

Còn với “Cha trên trời” dì còn hiếu thảo nhiều nhiều hơn, thường xuyên “đến với Cha”, “thăm viếng”, “chuyện trò”… lắng nghe lời Cha “dạy bảo”… yêu thương, chia xẻ, đùm bọc anh em, tất cả mọi người cùng là con một “Cha trên trời”. Lại nữa dì cũng có “chân” trong Hội đồng mục vụ Giáo xứ, dì gắn bó với Giáo xứ rất mật thiết. Con cháu dì cũng sinh hoạt trong Ca đoàn.

Dì quan tâm yêu thương, giúp đỡ họ hàng, con cháu và mọi người nên khi dì ngã bịnh, rất đông đủ gia đình, họ hàng, bạn bè Giáo Xứ.

Thăm dì về vài ngày sau, vào buổi tối khoảng 21g tôi bị chảy máu cam, một chuyện hiếm có, từ rất lâu, rất lâu, tôi có bị một, vài lần lúc hai, ba tuổi tức là cách đó hơn năm mươi năm. Lúc sau, được tin dì mất. Sao lại có sự trùng hợp như vậy! chỉ biết ghi nhận và nhớ trong lòng.

Bố tôi, tức anh rể của dì, ngủ lại nhà dì sau đám tang của dì. Ông kể, đêm ông nhận thấy có bàn tay vỗ vào vai, ông nói tiếp “đúng là dì, vì khi sống, dì hay có cử chỉ ấy. Con gái dì, định cư bên Mỹ, cũng nghe tiếng dì bên tai lúc dì mới mất. Có người xem tới đây cảm thấy hơi rờn rợn, hoặc sợ hãi. Nhóm người “trốn chạy” có cảm giác đó. Còn nhóm người “đối diện tìm hiểu” sau khi hiểu thì không có một điều gì có thể làm họ sợ hãi.

Trong cuộc sống, không ai không có lầm lỗi, thiếu sót, nên những ngày mới mất dì được “Cha” cho về để nhắc nhở, và xin lời cầu nguyện từ những người thân, để dì mau hưởng phúc được “gặp” cha cùng những người thân thương của dì.

Trở lại chuyện của tôi, lúc nghe tin mẹ mất, ruột gan như bị muối xát, những tưởng mẹ sống lâu trăm tuổi để mình được trả hiếu, vì chưa làm được điều gì cho mẹ vui.

Tôi rất hạnh phúc, mẹ mạnh khỏe nhiều so với những người cùng tuổi, luôn mong mỏi, kinh tế tốt hơn để có thể đỡ đần mẹ khỏi vất vả bôn ba, với tuổi mẹ mà vẫn phải ngồi chợ, dãi dầu mưa nắng.

Mẹ lớn hơn dì khoảng vài ba tuổi, mẹ không sôi nổi, sắc sảo như dì, có phần có hơi hướng của người miền quê, thiệt thà như đếm, thẳng như mực tàu. Mẹ rất nhiệt tình sinh hoạt Giáo xứ, hai chị em có lẽ không thua kém nhau về mặt này. Bà tham gia các Hội Nhóm cầu nguyện đạo đức, thăm viếng người bịnh, neo đơn, kẻ liệt. Ít thấy bà rảnh rỗi.

Sáng sớm 4, 5g dậy đi lễ, sau đó ra chợ, bà ky cóp thu nhặt những đồng tiền buôn bán được, phần lớn làm việc bác ái và dâng vào nhà “cha” để xây dựng, sửa chữa.

Cuộc sống của bà thanh đạm, siêng năng, không nề hà vất vả, cực khổ khi phụng sự cha cộng thêm những đau khổ thường ngày do sự “trái tính, trái nết” của cha chị.

Ở mẹ, có một điểm sáng ngời, mẹ yêu bố luôn luôn như nhất, cuộc hôn nhân của mẹ do người lớn quyết định, không phải ông bà tự tìm đến với nhau. Ông bà mới tổ chức kỷ niệm đám cưới ngọc. Suốt cuộc đời sống chung, hương vị ngọt ngào, cay đắng. Mẹ yêu những tính tốt của ông, đồng thời hứng chịu những “trái khoáy” của ông mà nhiều người cho rằng “không chịu nổi”. Những năm ông bắt đầu đứng tuổi , “già đổi tính” càng ngày càng tăng cường độ. Mẹ vẫn cam lòng… cam lòng chịu đựng, không than van, oán trách… cho đến khi mẹ mất.

Chu toàn bổn phận làm vợ, làm mẹ, dù chồng, dù con có làm bà khốn khổ, vẫn giữ tròn lời dạy của Cha.

Các con chỉ biết nuốt nước mắt, ngậm ngùi nhìn những sự đau khổ của mẹ mà không thể chia xẻ, tất cả đã có gia đình riêng chỉ còn hai ông bà sống với nhau. Thí dụ ông đòi vốn nuôi cá, cá giống bỏ xuống ao, cá lớn ăn cá bé, rắn rết ăn hết sạch, nhưng ông vẫn kiên trì không chịu thua. Các con cũng có lúc làm mẹ buồn.

Những năm tháng còn nhỏ, tối nào bà cũng “xua” chồng con lại “đọc kinh gia đình”. Luôn luôn nhắc nhở con, sau này thêm cháu… giờ lễ, giờ kinh, giáo lý. Có lúc bà phải “khóc” vì sự “nguội lạnh” của một , vài thành viên trong gia đình

Ngồi chợ tới trưa, về cơm nước xong vội vàng đi nhà thờ cầu kinh, hoặc cùng các ông bà trong Hội Nhóm đạo đức thăm viếng các gia đình người đau ốm… như đã nói ở trên. Me đông con hơn dì nên cuộc sống bôn ba hơn, vất vả hơn. Bà hiền lành, đạo đức, tôi không nghĩ mẹ mất sớm mà lại bất ưng như thế. Ở mẹ dù vui, dù buồn lúc nào cũng toát ra bình an của sự trông cậy, sự phó thác vào Cha.

Mẹ giống bà ngoại cũng là người mẹ rất đạo đức, lại rất “thọ”.

Lúc sắp mất, ngoại ngày càng nhỏ lại, chỉ còn xương với da, ngoại không bịnh gì hết chỉ mất vì già. Sinh thời, ngoại ăn uống rất kỹ lưỡng, không ăn thịt bò, gà, đồ biển… chỉ ăn chút nạc heo, cá đồng… có lẽ vì vậy mà ngoại sống lâu tròm trèm một thế kỷ, trước lúc đi ít ngày, vẫn khỏe mạnh, minh mẫn, con cháu ngoại nhớ tên từng đứa . Đông đủ con cháu xa gần trong giờ phút cuối cùng.

Mẹ … thì lại khác… không ngờ… thật đúng không ngờ. Bà không phiền hà con cháu một ngày, giờ nào phải chăm sóc, thuốc thang. Gia đình và họ hàng không lo lắng nhiều về mặt “thiêng liêng” của bà vì đi đột ngột như vậy, không lãnh được các bí tích cuối cùng trước giờ lâm chung, không “rước” được” “thần lương” trên đường về quê. Ngày nào bà cũng “thăm” Cha hai lần sáng, chiều, viếng cha nhiều giờ. Chắc hẳn Cha đã cất bà theo kế hoạch của cha. Cha thực hiện những gì tốt nhất cho con cái của Ngài, nhất lại là những đứa con hiếu thảo. Trí óc của con người sao hiều hết được những bí nhiệm của Ngài.

Vào ngày giỗ đầu của bà, người thân ở Thành phố về dự lễ cầu nguyện cho bà, lễ cử hành lúc 5g sáng nên phải về trước một hôm nghỉ lại.

Trước giờ lễ, người chị dâu của tôi và hai, ba người họ hàng, trong giấc ngủ chập chờn, thấp thoáng được bà gọi dậy đi lễ. Họ cùng nhìn thấy bóng dáng của bà, với trang phục áo dài trắng, trong bóng đêm mờ mờ. Về phần ngoại, sau khi ngoại mất một thời gian, người con rể, chồng của dì, dì Út kể trên, cũng được nhìn thấy ngoại, trong một giấc ngủ với áo dài trắng, ông nói “bà đẹp lắm” . Màu trắng cho biết tội lỗi đã được thanh tẩy, đồng thời thông báo một tin vui hạnh phúc vĩnh cửu.

Bà ngoại, mẹ, dì… đều được “Cha” cho “về” bằng cách này cách khác, hoặc báo tin vui, hoặc nhắc nhở người thân, con cháu nhớ đến để thường xuyên cần nguyện, xin lễ, ăn chay, hãm mình… giúp đỡ cho họ nhanh được hưởng phúc đời đời







Ngày 30 tháng 11 năm 2010
M.Đinh Thị Thoa


















CHA TÔI




Thuở nhỏ, cha tôi nhà rất nghèo, bố mất sớm. Mấy mẹ con sống trong một cái bè trên sông, bằng nghề đánh bắt cá. Tuy nghèo, ông được thiên phú rât thông minh, đĩnh ngộ. Điểm nổi bật ở ông, lòng thương người và yêu thương súc vật. Các con ông, chúng tôi cũng được thừa hưởng ít, nhiều tính chất này. Học hành không nhiều, nhưng thông minh, lại siêng năng cần cù, nên ông rất tháo vát. Không làm nghề sửa xe, mà ông có thể tháo tung chiếc “ếch bà” của ông ra vào như cơm bữa. Xe hơi cũng sửa được. Thậm chí, ông tự xây một cái nhà một tầng lầu cho vợ con ở, vào những ngày, giờ nghỉ việc. Đánh máy như mưa rào, sổ sách kế toán…

Vì công việc, gia đình thường xuyên thay đổi chỗ ở, mỗi chỗ vài năm từ Quảng Trị dài vào trong Nam. Được hòa lẫn nhiều với thiên nhiên, sông Hương Núi Ngự, miền đồng bằng sông Cửu long, biển Qui Nhơn, Vũng Tàu . Chúng tôi được tám anh em, cách nhau hai, ba năm. Gia đình tổng cộng mười, nhưng bây giờ chỉ còn năm Cha mẹ, người anh cả, người em thứ tư và thứ sáu đã ra đi mãi mãi. Anh cả lúc năm hai, cậu tư lúc bốn chục. Dì sáu lúc lên năm, mẹ lúc bảy bốn, cha lúc tám chục.

Những năm cuối đời, cha tôi vẫn rất khỏe mạnh, đầu óc minh mẫn, nhưng tính khí thay đổi, trở nên nói nhìều và độc tài, chứ không trầm tĩnh, hiền hòa như trước. Miệt mài lao động vẫn không giảm sút. Những công việc chuyên môn lúc còn trẻ, cộng tác với cộng đồng xã hội, không còn phù hợp với tuổi tác nữa, mà chỉ còn làm những việc thu vén trong gia đình, chăm sóc cái thổ cư. Thổ cư có lẫn nhà, khoảng gần một công đất, đằng sau có một con suối chạy qua, trồng trọt, chăn nuôi nho nhỏ.

Ông nuôi gà, đàn gà sinh sôi nẩy nở, nhưng chẳng dám ăn con nào vì … thương. Đám chuột lang trắng, nâu, vàng chạy tung tăng trong vườn. Chăn nuôi nhưng chẳng được ăn con gì.

Có lần cô em mua một cái trứng vịt lộn về ăn, chưa kịp ăn, trứng nở ra con vịt, cô mang sang cho ông nuôi. Con vịt cũng lớn, ông đi đâu nó theo sau. Vịt ăn, ngủ rất đúng giờ, nhà sẵn ao, vịt ta bơi lội thỏa thích. Đúng 12 giờ trưa, lên lạch bạch vào nhà nghỉ ngơi. Ai đến nhà, nó chạy đến cắn mổ vào chân.

Ông rất quí con vịt, ngồi làm việc chẻ tre, đan lưới… vừa làm, vừa ngắm nghía … vịt. Một mình một ao, vịt tung tăng bay nhảy, nên màu sắc của nó sặc sỡ, đặc biệt hơn những con vịt được bán ngoài chợ. Màu đen tuyền trên đầu biêng biếc xanh e, nó đã trở thành một con vịt trời. Ai đến nhà cũng phải giật mình, vì dưới chân bị con gì mổ mổ, nhìn xuống là con vịt, nó cạp vào chân kéo ra rất tích cực, dữ dằn, mắt long lên sòng sọc. Cứ thấy vịt ta ở dưới ao đi lên, là biết đúng trưa hoặc 6 giờ chiều.

Thế mà kẻ trộm, có lẽ mấy tay ăn nhậu cũng rình bắt mất. Ông buồn bã đi tìm suốt mấy ngày, nhưng nào có thấy. Ông viết một tấm bảng rao mất vịt, ai tìm thấy xin chuộc, cắm ngay trước cửa nhà, ai qua lại cũng chỉ trỏ. Có đứa trẻ nói nhìn thấy vịt, ông vội vàng đưa tiền trước nhưng vịt không thấy tiền cũng mất. Còn đâu nữa, bị… chén rồi. Ông ngẩn ngơ…

Bên cạnh nhà có con suối chảy ngang, ông có nghề bắt cá từ nhỏ, giăng một cái lưới ngang suối, không con cá nào thoát, mùa mưa nước lớn, bắt được cả gánh cá mỗi lần cá đi, khi thì toàn cá lóc, khi thì cá trê… tha hồ ăn, còn mang chợ bán. Thuở ấy, người ở thưa thớt, về sau, ngay từ đầu nguồn đã bị bắt sạch.

Cuộc sống càng khó khăn, tính khí ông cũng thay đổi theo nên cũng… mệt cho mẹ và các con. Còn trẻ, làm việc chuyên môn quen tay, việc càng ngày càng sắc sảo. Lương công chức đều đều nâng bậc, cuộc sống nhẹ nhàng, êm đềm.

Về già, không làm chuyên môn, bắt cá, trồng trọt chăn nuôi. Cá không còn để bắt, ông nghĩ cách nuôi, nuôi mãi không thành công. Ông đi bán thuốc gia truyền , nghề kinh doanh buôn bán đâu có thạo. Thuốc mang đi bao nhiêu cũng hết, nhưng tiền chẳng thu được, vì thương, bán uống trước lấy tiền sau, khỏi bệnh, không có tiền trả, ông… cho luôn.

Có lần nghe bà bán quần áo cũ mời chào, ông mua hết hàng của bà, mang về, giăng tới, giăng lui đầy nhà. Sau cùng … mang cho.

Khỏe mạnh lại siêng năng, bản tính cố hữu nên ông không chịu ngồi yên, nghĩ làm công việc này, công việc nọ… càng làm thì mẹ con … càng mệt. Con cái đã lớn, ông bà có tuổi, ăn uống chẳng hao tốn bao nhiêu, các con phụ giúp ông không phải bôn ba vất vả gì. Nhưng “Ngài” không thể ngồi yên, làm cả nhà cũng … không yên theo ông. Mấy mẹ con chỉ mong mỏi, cầu nguyện xin ông đừng làm gì cả. Chỉ cần ông hướng về “Cha trên trời” dọn mình sốt sắng “phòng khi Cha gọi” ông cũng đã cao niên rồi. Một việc cần thiết cho tất cả mọi người.

Ngày mẹ mất, ông về Sài Gòn sống với tôi, con gái lớn. Anh cả đã mất, những người con khác ông không hợp bằng. Ông “yên ắng” được một thời gian nửa năm, lại “sôi” lên “làm ăn”, bay về Phương Lâm, bay ra Vũng Tàu, nơi người em trai kế ở.

Tôi luôn luôn cầu nguyện, xin ơn trên ban cho ông được bình an trên đường đi, tuổi gần tám mươi, dọc đường, dọc xá, làm sao biết được. Lời cầu nguyện được chấp nhận, ông bình an trên những lần bay đi, bay về. Sau bốn năm, tôi được tin, cô em báo ông bị ngã, có lẽ không qua được. Lúc đầu, còn nói trọ trẹ. Sau đó từ từ hôn mê. Được một đêm, một ngày.

Ông qua đời, được lãnh tương đối đầy đủ các bí tích cuối cùng. Trước linh cữu ông, tôi lâm râm khấn ông xin phép “Cha” cho tôi biết “tin tức” của ông.

Về lại Sài Gòn một, vài ngày sau. Qua một đêm ngủ ngon giấc . Khoảng 4, 5 giờ sáng. Tôi tỉnh dậy, chợp mắt ngủ lại. Trong giấc ngủ chập chờn. Tôi thấy ông bước vào, y phục thường ngày ông vẫn mặc đi lễ, áo sơ mi trắng, quần tây đen”đóng thùng” lịch sự. Đầu đội mũ tây, ông hay đội, tay phải cầm dù, mở cửa bước vào, tay trái dở mũ. Mặt từ từ ngước mắt nhìn lên. Một nét mặt chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Chỉ một thoáng 2 giây, hình ảnh biến mất, nhưng những chi tiết rất rõ ràng.

Trưa hôm sau, trong giấc ngủ trưa, văng vẳng bên tai, tiếng nói của mẹ “dọn dẹp nhà cửa đọc kinh cho thầy”. Tôi gọi bố tôi là thầy, một tiếng xưng hô của người Bắc. Giọng nói rất rõ ràng.

Lúc còn sống bản tính ông sôi sục như thế, hẳn khi mất đi không ít thiếu sót, lầm lỗi, cần phải được xin Cha tha thứ, điều mà ít ai tránh khỏi.

Lần kế tiếp, tôi và người bạn đêm đang ngủ đều nhận thấy có người gõ ngón tay vào chân mình cùng một lúc. Những ngày này tôi có linh cảm ông luôn luôn ở bên cạnh tôi. Những sự trùng hợp kỳ lạ, nhiều lần, bước ra cửa đã có người chờ sẵn, tìm tôi trong những công việc thường ngày. Họ chưa kịp gọi, hoặc chuông bị mất điện. Ông tạo ra những cái vấp chân, hoặc những vết thương nho nhỏ trên tay, chân, nhắc nhở tôi đừng để lỗi đạo với Cha trên trời.

Chị bạn thân, chị cùng ở chung, thường ngày đi làm về khoảng 19 giờ.

Một buổi chiều, tôi đang ngồi trước máy vi tính. Lúc 16 giờ có tiếng bước chân chị về. Trong nhà, mỗi người có một nét đặc trưng riêng trong bước chân đi, không cần nhìn, cũng biết ai về. Con dâu bước chân nặng, chậm. Con trai bước chân đều đều, chị chủ nhà bước chân nhẹ, nhanh, lẫn với tiếng tằng hắng nhẹ, chào, gọi người trong nhà.

Chị về, nhưng tôi vẫn mải miết với màn hình vi tính, chỉ ngước nhìn đồng hồ lẩm bẩm “sao hôm nay chị về sớm quá mới 16 giờ”. Tiếng chân đi lên, đi xuống cầu thang hai, ba lần, cộng tiếng tằng hắng lần sau chót, từ trên lầu chạy xuống ngang phòng tôi, xuống cầu thang đi ra ngoài. Tôi nghĩ bụng “lại đi đâu nữa” .

Đúng 17 giờ tôi lên phòng trên lầu sửa soạn đi lễ, ghé qua phòng chị, mọi đồ đạc không hề xê dịch, êm ắng. “ủa, chị về rồi mà”. Tôi thầm nghĩ “lạ thật”. Suy nghĩ. Chưa bao giờ chị về nhà lại đi như vậy, vậy tiếng ai đi lên, đi xuống mấy lần từ nẫy, cách đây một giờ. Tôi hỏi con dâu có khách đến lúc 16g không? Con dâu đáp “dạ không” .

Trên đường đi lễ, tôi băn khoăn không hiểu có chuyện gì, nóng lòng chờ 19g chị về để hỏi. Trong bụng nghĩ dại “hay chị có chuyện gì về báo tin”. 19 giờ chị chủ nhà về, xác định bây giờ mới về, 16g không biết gì hết.

Thì ra ông được phép Cha cho về đánh động tôi. Nhìn lên đồng hồ để xác nhận giờ, và tiếng chân đó và tiếng tằng hắng không ai khác là của ông, tiếng chân thật rõ ràng, tiếng ho thật rõ ràng, động tác nhìn đồng hồ thật rõ ràng. Tuy nhiên có một cái gì chôn chân tại chỗ, không cho tôi đứng chạy ra nhìn, ngồi bất động cảm nhận…

Vả lại, lúc sinh tiền ông cũng rất quý chị bạn của tôi. Qua những “nhắc nhở” ấy tôi mau mắn” lãnh bí tích “hòa giải” để cầu nguyện cho ông.

Trước khi dâng lễ cầu nguyện, phải thanh tẩy tâm hồn, sám hối, dốc lòng chừa những tính hư, tật xấu dù nhỏ nhất, vì Cha là đấng cực thanh, cực sạch. Của lễ dâng lên với tấm lòng ô uế ngài không nhận.

Em gái, trai , anh trai, mẹ, cha… đã ra đi… khiến tôi không còn “cột chặt” với thế gian như trước nữa. Thật mỏng manh, ngắn ngủi, một kiếp người. Bố nói ông sẽ đi vào tuổi 80, một cách nhanh chóng, có lẽ cha nhân từ nhận lời theo ước nguyện của ông. Còn người em gái ra đi chỉ mới bốn, năm tuổi.

Vào một ngày tháng 11,, tháng của các linh hồn. Tôi được tặng một cuốn sách về luyện ngục, nơi thanh tẩy những người đã ra đi, nói về những cơ cực các linh hồn phải chịu, các linh hồn được cha cho phép về để xin trợ giúp.

Cuốn sách đã thay đổi cuộc đời tôi. Tôi tích cực tìm hiểu thêm những sách nổi tiếng khác, cũng nói về thế giới sau của nước ngoài được dịch ra. Cụ thể là bà Maria Simma nổi tiếng ở Châu Âu, được Cha cho có khả năng tiếp xúc với các linh hồn, hiện nay còn sống. Cuốn sách cho tôi hiểu hết, những thắc mắc trong tôi suốt cả cuộc đời.

Ôi! Có những việc ở ngay trước mắt, nhưng không biết chỉ vì vô tâm… Cha trên trời cũng khao khát, cứu các linh hồn như chính các linh hồn. Ngài kêu gọi… khẩn thiết.

Nói về những cơ hội, của những người còn sống được có, để cứu các linh hồn, mà bây giờ họ không còn cơ hội lập công, thế là tôi lại càng ráo riết: Dâng lễ Misa, lần tràng hạt Mân côi, lòng thương xót Chúa… thêm chay tịnh, hãm mình đền tội, cầu cho bản thân mình, cho người thân, cho toàn thể mọi người, vô tín, mọi linh hồn… cho hòa bình…

Luôn giữ mình, không để tính hư, tật xấu theo bám bằng cách kêu xin sự trợ giúp của Cha, qua lời chuyển cầu của mẹ Maria và các Thánh.

Bản thân xác thịt yếu đuối, cộng thêm sự thúc đẩy của Bóng Tối, nên không thể tự mình làm được điều gì. Tội lỗi kéo ta ra xa cha nên những giờ cầu nguyện việc trước tiên là phải sám hối. Luôn luôn tỉnh thức và cảnh giác, kẻ thù lúc nào cũng rình rập, sẵn sàng bằng mọi âm mưu xảo quyệt. Nếu có sự chiến đấu, thì phần thắng luôn thuộc về mình.

Chay tịnh, cầu nguyện làm cho linh hồn tôi được sáng sủa, của lễ dâng lên cha được tinh tuyền. Không thể đến với cha với một tâm hồn kiêu căng, ích kỷ, ghen ghét, của lễ ấy cha không nhận.

Trong thời gian này, sau mỗi lần khấn, xin biết về tình trạng của bố tôi: một lần thấy ông trong một căn phòng, mặc chỉ một cái quần đùi, ngồi trước một bức tường trắng. Sau này, tôi được xem một cuốn sách, nói y như điều tôi đã thấy, của những người đã qua đời, phải trải qua trước một bức tường trắng, cho thấy những gì đã làm, trong lúc còn sống, và tôi lại được cho thấy lỗi ông đã phạm. Ông nói “ở đây buồn lắm” rõ mồn một. Những lấn ấy rất giống nhau, chỉ vài giây, rất rõ ràng chi tiết.

Bẵng đi mấy tháng, tôi cố gắng tập trung, hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, dâng của lễ lên cha. Qua sách Thánh, qua chiêm nghiệm, tôi cảm thấy cha sẽ nhận lời, vì sự kêu xin khẩn thiết của tôi, tôi tin vào lòng nhân từ, thấu hiểu của cha. Một sự an bình, thanh thản, tràn ngập tâm hồn. Vào một buổi trưa, giờ nguyện kinh, tôi xin cha cho biết tình trạng của bố. Tuy hỏi, nhưng tôi vẫn an tâm, là ông đã được cha nhận lời, đã được hưởng phúc đời đời.

Sau giờ nguyện kinh, về nhà, trong giấc ngủ trưa. Tôi thấy đang đứng trước cánh đồng tối mênh mông, xa xa là biển lửa.

Bố tôi là một bóng mờ đen, tóc tai rũ rượi, chập choạng tiến về phía tôi. Chỉ thoàng vài giây, tôi bừng mắt ra giật mình hốt hoảng kêu: “như vậy là bố vẫn còn chịu tội, không như con nghĩ, con phải làm gì đây. Con xin chịu tất cả để đền tội cho bố”.

Tôi bình tĩnh, nhắm mắt hồi tưởng lại từng chi tiết được thấy trong giấc mơ: Bố tôi chập choạng tiến về phía tôi, đứng đối diện trong bóng tối, với biển lửa ở chân trời. Cách khoảng vài thước, tôi như một cục nam châm, hút một cục sắt là ông. Ông bị hút, chập mạnh vào tôi, đồng thời những tia lửa tung tóe văng ra, xung quanh ông như những tia chớp, cùng lúc, tôi choàng tỉnh. Như thế là kết quả không phải như trên. Không dám kết luận, chỉ ghi nhận.

Ít hôm sau, vẫn miệt mài trong cầu nguyện. Ngước mắt nhìn lên cha, tôi than thở: con chỉ biết cầu nguyện, cầu nguyện… và cầu nguyện. Ngoài ra không biết gì hơn.

Đáp lời than thở ấy. Cũng sau giờ nguyện, về nhà, trong giấc ngủ trưa tôi thấy: mình đang ngồi trong nhà, nhìn ra cửa. Mẹ tôi, trẻ đẹp chỉ hơn ba mươi, y phục áo dài trắng. Bố tôi cũng trẻ đẹp lớn hơn mẹ một chút khoảng dưới bốn mươi, y phục ông vẫn mặc vào tuổi ấy, đi cùng ba nữ tu bước vào nhà. Ông nói: “vào thăm con đi”. Cùng lúc đó, có một dây giăng ngang trong nhà bị cháy: ông bảo:” con dập tắt đi”, tôi dùng nước dập tắt lửa. Tới đó kết thúc, cũng chỉ vài giây.

Việc cầu nguyện của tôi đã có kết quả. Cha mẹ đã được gặp nhau. Tôi đã dập tắt được lửa cho bố.

Tất cả những giấc mơ trên, dù buổi trưa, hoặc tối, đều xảy ra sau khi đã tròn giấc ngủ, một giấc ngủ rất ngon, sâu. Nếu đầu giấc ngủ, ta sẽ không thể ngủ được cả đêm, cả buổi trưa, cha nhân từ không muốn như vậy. Chỉ vài giây, rất chi tiết, rất rõ ràng, để phân biệt với những giấc mơ khác, dài dòng, lộn xộn, mơ hồ…

Nét mặt ông bà tràn ngập sự bình an, hạnh phúc của cuộc sống vĩnh cửu







Ngày 15 tháng 12 năm 2010
M. Đinh Thị Thoa


















HỌ VỀ ĐÂU


Hành tinh xanh của chúng ta thực là xinh đẹp, Mặt trời tỏa sáng chiếu ấm nơi nơi, bốn mùa thuận hòa mưa nắng. Vô số các loại chim trời to nhỏ, các loại cá biển nhỏ to, các loại cá sông lớn bé…. Trên rừng, thú dữ ăn thịt, thú hiền ăn cỏ…. Các loại cây cỏ, hoa lá muôn muôn màu. Tất cả đều được sắp xếp một cách hài hòa, thứ tự, cực kỳ chính xác, không sai chạy một dzem ly: hệ sinh thái điều hòa!

Ông “Chời”, hay Thượng đế, hay Tạo hóa tùy theo mỗi người gọi, đã “cho” chúng ta tất cả những “thứ” này, ngay cả bản thân, thân xác, tâm hồn chúng ta cũng được “Ngài” tặng. Và chúng ta cũng có một cái tên giống như hoa Lan, hoa Phượng, con Chim, con Cá… tên chúng ta là loài “Người”. Người Mỹ, người Pháp, người Tàu. Người Việt Nam trên 130 quốc gia, chưa kể người dân tộc thí dụ riêng người dân tộc Việt Nam, người Thượng, người Tày. Mường, Nùng, Mán, Thổ… đã trên 50. Cùng tên, cùng loại, cùng một “Lò” sản xuất ra, tất cùng một cha, là Thượng đế, hay Tạo hóa hay ông Chời. Như vậy, tất cả chúng ta đều là anh em, “Tứ hải giai huynh đệ”, không thể có hai, ba ông Chời, hai, ba Thượng đế…

Thế “cha” tạo ra mình để làm gì dzậy? Để cai quản muôn loài muôn vật. Cái này thì đúng. Bò. Lừa. Heo, Khỉ, ngay cả Cá Heo thông minh nhất cũng không thể qua con “Người”. Sao lại sinh ra mình rồi cho cai quản hết các “thứ”? Đơn giản thôi! Một cặp vợ chồng giàu có, tiền của ê hề, lai không con, buồn không? Sự vinh quang và hạnh phúc của ông Chời thì không thể diễn tả. Bởi thế Ngài mới tạo ra con người để cùng hưởng hạnh phúc với Ngài.

Làm kiếp người nào là sinh, lão. bịnh, tử thì đâu có gì là hạnh phúc?... Từ khởi nguyên, loài người là Eve đã “phản bội” nên bị án phạt, bị đuổi ra khỏi vườn Địa đàng hay Thiên đàng hay Niết bàn… tùy theo mỗi người gọi, không còn được “gặp” Ngài chiều chiều đến chuyện vãn nữa. Từ đó Thiên đàng “đóng cửa”. Loài người phải chịu đau khổ, bịnh tật, chết chóc.

Trời đất tuyệt giao. Tuy nhiên, Thượng đế vẫn yêu thương loài người vô cùng nên hứa cho Thái Tử, con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu độ thế gian. Mà thế gian cũng vì Thái Tử mà Ngài tạo dựng.

Nhắc lại, để bạn đọc tiện theo dõi Ngài dùng miệng các Ngôn sứ, các Tiên tri để thông báo tin vui này. Qua cả ngàn năm, loan báo tin vui và thế gian đã chờ đợi. Thái Tử đã giáng thế. Ngày nay, hàng năm vào ngày 24 tháng 12 cả nhân loại vui mừng chào đón kỷ niệm ngày sinh nhật Thái Tử: lễ Giáng Sinh hay Noel. Đúng là chuyện Thần Tiên nhưng chuyện Thần Tiên này lại là sự thực hiển nhiên. Cả Thế giới dùng năm sinh của Thái Tử làm cột mốc cho Dương Lịch. Năm nay, Thái Tử giáng sinh đã được 2010 năm. Chuyện giống như MƠ lại là THỰC. Thế là thiên đàng nhờ Thái Tử đã được mở cửa. Trời Đất lại giao hòa.

Thiên đàng hay Niết bàn đã được mở cửa, nhưng làm sao để được vào. Đó là điều thắc mắc lớn của loài người. Nhiều giả thuyết, nhiều tưởng tượng đã được nghĩ ra….

Đơn giản thôi! Thái Tử là người mở cửa cứ BÁM theo Thái Tử là …xong ngay!
“Gái có công chồng không phụ”. Thái Tử có công nên Thượng Đế giao toàn vũ trụ cho con cai trị.

Ngày nay, có một số người có khả năng tiếp xúc với những người quá cố, những người quá cố này “được phép” về để “xin” những điều họ cần, giải quyết những gì họ bị vướng mắc. Đó là ân sủng của Thượng Đế và cũng là Thái Tử, Ngài cũng muốn cho nhân loại biết Đường cần để đi đến. Trường hợp của Những Nhà Ngoại Cảm là một thí dụ.

Qua Thái Tử, một số người được biết, cuộc sống sau rất rõ ràng, chi tiết, không phải là ít người, không phải là một thời gian ngắn mà kéo dài từ lúc Ngài giáng trần mãi cho tới ngày nay. Được ghi chép lại qua sự kiểm chứng của nhiều người, nhiều quốc gia được dịch ra nhiều thứ tiếng phát hành rộng rãi trên khắp thế giới. Nếu để ý một chút, chỉ riêng Ngài, và một mình Ngài mới có những thông tin này.

Thế giới sau sẽ chỉ có hai chứ không đa dạng như thế giới này: Một là Ánh Sáng và hai là Bóng Tối.

Cẩn thận kẻo bị những thông tin giả mạo.
Muốn vào nhà thì phải gõ cửa đúng chủ nhà.
Hãy tìm hiểu xem, những người thân đã ra đi của mình đang ở đâu cần gì, muốn gì!

Khi tạo ra loài người, Thượng Đế ban cho con người được tự do, tự do đến với Ngài, tự do chối bỏ Ngài. Tình yêu chỉ có giá trị khi tự nguyện dâng hiến. Ngài cho phép Bóng Tối hoạt động. Thử thách càng nhiều, phần thưởng càng cao. Phần thưởng kho báu hạnh phúc vĩnh cửu được cất dấu, chứ không để khơi khơi trước mắt, phải nỗ lực tìm kiếm con đường để đến đó, không có thử thách nào của cuộc sống này xứng được với hạnh phúc đó.

Tự do được trao tặng Ngài chỉ “can thiệp” khi có sự yêu cầu, nhưng luôn chờ đợi… chờ đợi. Một lời kêu cứu, kêu gọi nhỏ nhất Ngài cũng nghe thấy và rất xem trọng.

Trái lại, Bóng Tối tự tìm đến mọi người, mọi nơi, mọi chỗ, lôi kéo, đủ mọi mánh khóe giả tạo, lường gạt chiếm hữu làm nô bộc cho chúng, cùng chịu những hình phạt với chúng cho có bạn.

Trong Vương quốc Hạnh phúc Vĩnh cửu. Tình yêu ngự trị, mọi người cùng chung một thân thể, thương yêu nhau như chính bản thân mình, cái “tôi” không còn hiện diện. Niềm hạnh phúc luôn luôn đổi mới vô biên, vô hạn… ngôn ngữ loài người không không thể diễn tả.

Những bộ óc của các nhà thông thái nhất cũng không thể hiểu nổi, tình yêu điên cuồng của Thượng Đế đối với loài người, đến độ ban tặng con Một yêu dấu của Ngài cho thế gian. Thiên Tử cũng yêu dấu loài người điên cuồng, và vâng lời cha ,bỏ “Ngai vàng” xuống trần, mặc xác phàm ở chung với loài người, để chia xẻ thân phận yếu đuối, mỏng manh, vui, buồn, sướng, khổ của một kiếp người và cũng để làm gương cho nhân loại noi theo: yêu thương mọi người ngay cả kẻ thù, khiêm nhường, quảng đại, hy sinh, tha thứ….

Hiến dâng mạng sống làm giá chuộc tội cho nhân loại, để được làm lành với cha trên trời. Một cái chết nhục nhã, đau thương, đau đớn nhất trong lịch sử nhân loại. Trong xác phàm, mọi cảm nhận đều như chúng ta, nhưng trong Ánh sáng Thiên tính, từ lúc lọt lòng cho tới khi thực hiện công cuộc cứu độ Ngài thấu suốt hết những gì mình sẽ phải gánh chịu. Một sự đau khổ, kinh hãi triền miên từ lúc sinh cho tới lúc mất.

Thiên quốc được mở cửa. Hàng hàng, lớp lớp những người công chính quá cố phải ở một nơi gọi là lâm bô, đã được Ngài đưa lên Thiên quốc ngay khi việc cứu độ hoàn tất. Máu Ngài đổ ra đã giao hòa đất trời. Ân sủng của Ngài đổ tràn đầy xuống nhân loại, xuống những người tìm kiếm, cậy nhờ Ngài. Chỉ có máu của Ngài mới rửa sạch được lỗi lầm mà ta đã phạm, chỉ có Ngài mới có thể đưa ta vào được “nhà Ngài”. Nơi Ngài đã được cha giao toàn quyền cai trị. Từ chối Ngài là từ chối Ánh Sáng, chấp nhận Bóng Tối. Ngài vẫn luôn mong mỏi, với lòng yêu thương ngập tràn vô hạn, mọi người đến để Ngài ấp ủ, chữa lành những thương tích và đưa vào Vương quốc tình yêu của Ngài.

Muôn muôn, ngàn ngàn những người đã ra đi đang vất vưởng mọi nơi, trên rừng, dưới biển, ngoài đường, ngoài chợ… như ta đã từng biết qua các nhà “Ngoại Cảm”.

Họ đã giã từ trần gian, đã mất cơ hội để lập công, làm việc công đức, sám hối… Người nhẹ tội thì được ở với gia đình, hoặc tại nơi họ đi, nặng tội hơn thì phải đi chịu phạt, nặng hơn nữa, không cứu vãn được, đời đời kiếp kiếp phải chịu trầm luân những hình phạt vô cùng khủng khiếp. Luật công bằng của Thượng Đế. Kết quả của những việc đã làm khi còn sống.

Những người nhẹ tội hoặc vẫn còn có thể cứu vãn được, nếu gia đình, người còn sống biết chạy đến cùng Đấng Cứu thế, Ngài sẽ dùng công nghiệp của Ngài, máu của Ngài đã đổ ra để thanh tẩy thì họ sẽ mau được về “quê thật” nơi mà họ hằng khao khát, lòng khao khát cháy bỏng đến độ trong lòng họ phát sinh ra lửa nung, thiêu đốt họ….

Chỉ khi này, họ mới cảm nhận được lòng nhân từ, yêu thương của Thượng Đế, cảm nhận được hạnh phúc vĩnh cửu, cảm nhận được sự vô tâm, vô ơn của họ khi còn sống, nhưng đã muộn rồi. họ chỉ còn biết trông chờ người sống. Còn không thì lang thang khắp nơi, tìm kiếm những lời kinh cầu rơi rớt. Rất nhiều, rất nhiều những người bị bỏ quên, hoặc người nhà còn sống không biết gõ cửa ở đâu!.... Họ được gọi là … cô hồn… hoặc linh hồn mồ côi. Họ chỉ cần được về “quê trời” không cần ăn, uống, mặc… như khi còn sống mà một số người lầm tưởng.

Có những linh hồn được phép về đánh động người thân còn sống. Họ chỉ được phép trong quyền hạn. ngoài ra người sống phải tự tìm hiểu, phần thưởng phải có sự nỗ lực. Nếu không gõ đúng cửa, không xin đúng người có quyền hạn, xin người không có quyền thì nào có gì để cho. Những linh hồn này sẽ chịu hình khổ, án phạt của sự công bằng, phải trả cho hết đồng xu cuối cùng.

Nếu người thân thấu hiểu được sự đau khổ, đau đớn lớn lao của ông bà, cha mẹ, anh em mình, những người đã ra đi trước, thì họ sẽ không dám lơ là trong việc giúp đỡ, đưa người nhà họ mau về quê thật, khi họ còn cơ hội. Không có sự đầu thai kiếp hai, ba. Nếu có, chỉ là một, vài trường hợp bịa đặt, giả tạo của Bóng Tối, hoặc sự tưởng tượng của một vài cá nhân không kiểm nghiệm, không kiểm chứng.

Tất cả, tất cả hoàn toàn mù tịt về cuộc sống sau, ngoại trừ những người chạy đến với Đấng Cứu Thế. Với quyền hạn “Độc nhất vô nhị” mà cha đã trao ban “Vua Vũ Trụ” Ngài cho nhân loại rất nhiều thông tin, dấu lạ qua Mẹ Ngài. Một nữ Đồng Trinh được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà ngài đã nhập thể giáng trần bằng máu rất trong sạch của bà làm thành thân xác Ngài. Qua những người trong chúng ta, yêu mến Ngài một cách đặc biệt, trải dài 20 thế kỷ với đầy đủ tên tuổi hình ảnh tiểu sử của các Thánh nhân này.

Tình yêu mà Ngài và Mẹ, dành cho mỗi người chúng ta như nhau là vô hạn, vô biên. Sự sống vĩnh cửu của mỗi người đối với các Ngài quan trọng biết bao.

Ngài muốn ơn cứu độ của Ngài đến được với mọi người.

Chỉ bây giờ họ mới hiểu sự “ô uế” của họ, tự họ không dám đến gặp Thượng Đế nếu chưa được “thanh tẩy”. Ngài là Đấng cực thanh, cực sạch, cực thánh thiện, cực nhân từ. Ngôn ngữ của cả loài người dưới đất, cùng với cả Triều thần Thiên Quốc, ca tụng Ngài cũng không thừa. Những việc làm của họ khi còn sống dù nhỏ nhất cũng được ghi dấu lại, kết quả thưởng phạt tùy theo công tội. Chỉ bây giờ họ mới hiểu, họ đã phí phạm biết bao thời gian quý báu nơi dương thế, nơi chỉ để thử thách, để nhận lãnh kết quả thưởng phạt cho cuộc sống này, cuộc sống không biết đến cái chết, một cuộc sống mãi mãi đời đời.

Biết bao hạnh phúc Thượng Đế dành sẵn cho những người con hiếu thảo của Ngài. Hành tinh xanh chỉ là “tạm” mà còn “đẹp” như thế. Mấy trăm triệu loài động vật, thực vật. Chỉ là “tạm”, chúng ta phải sống bao nhiêu kiếp người cũng không khám phá hết được những kỳ diệu của thiên nhiên.

Hai vợ chồng nhà nghiên cứu về động vật hoang dã sống trong rừng cả cuộc đời chỉ để tìm hiểu đời sống tình cảm xã hội, tôn ti trật tự của một loại chó rừng có trách nhiệm cao cả, biết từ bỏ chính mình cùng chung sức với cha mẹ săn mồi nuôi các em, và có một tình cảm đặc biệt với các em. Như vậy “mấy trăm triệu kiếp người” có khám phá được hết nổi động vật, thực vật thấy được, chưa kể vũ trụ trên trời, các vì tinh tú, dãy thiên hà…. Những loại không thể nhìn thấy bằng mắt thường, phải qua kính hiển vi điện tử…

Một kiếp người nhỏ bé biết bao trong bàn tay của Tạo Hóa, mà họ lại “quên” mất Ngài. Đấng tạo thành vũ trụ, quyền năng vô biên, tự có, cai quản cả vũ trụ. Đấng bảo vệ và điều khiển mọi sự.

Ngài lại yêu thương họ đến không tiếc điều gì, ngay cả máu thịt, mạng sống của Ngài. Lúc nào cũng ấp ủ họ trong trái tim Ngài. Ôi phải chi họ không từ chối và biết lắng nghe lời Ngài dạy, bước theo chân Ngài dẫn dắt, ban sức mạnh vượt qua những thử thách. Trong xác phàm, Ngài thông cảm và thấu hiểu những yếu đuối của một kiếp người, đã ban những ân sủng để tăng sức mạnh trong cuộc lữ hành “về quê” mà chỉ một mình Ngài vì “công nghiệp cứu độ” mà Cha đã trao ban. Ngài và Cha là một, những gì Cha có là Ngài có.

Ân sủng đầy tràn, dạt dào như biển cả, chờ đợi, chờ đợi… để trao ban, trao ban… Lời cầu nguyện, chay tịnh, hãm mình, hy sinh của các tín hữu, tu sĩ nam nữ, giúp đỡ rất nhiều cho những người vô tín vô tâm, còn sống hoặc đã qua đời, họ được thoát khỏi án phạt đời đời,

Ngài không muốn để ai phải hư mất, ngoại trừ họ luôn mãi từ chối sự mời gọi của Ngài. Tự lao xuống bể trầm luân một cách có ý thức. Mọi người cùng một Cha trên trời, cùng liên đới chịu trách nhiệm lẫn nhau, yêu thương giúp đỡ nhau vì thế thế giới này mới còn tồn tại.

Triều thần Thiên Quốc cầu nguyện cho đoàn lữ hành trần gian.

Đoàn lữ hành trần gian độc quyền làm việc công đức, bác ái, lập công… cứu giúp bản thân, anh em còn sống hoặc qua đời.

Triều thần Thiên Quốc luôn luôn theo dõi chờ đợi sự kêu cầu của đoàn lữ hành từng giây phút để hỗ trợ trên đường về quê. phải gọi đúng tên các ngài, mỗi vị đều có tiểu sử, chức vụ, kêu gọi một nhân vật tưởng tượng thì không có ai trả lời. Nếu không có sự kêu cứu thì các vị không thể, không có quyền can thiệp vì tôn trọng sự tự do mà Cha đã trao ban. Thế nên mới có những cái chết gọi là “oan”, “tai nạn” “chưa tới số” do Bóng Tối đưa đẩy, xui khiến vì không cầu cứu Thiên Quốc.

Hướng về Cha, dâng hết mọi sự lên Ngài, với lòng hoàn toàn Tin, Cậy, Mến thì không còn gì phải lo ngại trên đường về. Chỉ cần muốn và hé mở cửa lòng để Ngài vào, mọi sự còn lại Ngài sẽ lo liệu. Nhiều thánh nhân, tín hữu có những cái chết rất đau thương, đó là sự tự nguyện để cùng chia xẻ công cuộc cứu độ với Đấng Cứu Thế, Đấng mà họ yêu và đền đáp lại tình yêu của Ngài. Công cuộc cứu độ đã, đang và vẫn tiếp diễn.

Thí dụ đơn giản, gia đình có 5 anh em, có 2 người hư hỏng, 3 người kia phải ra sức cứu 2 người này đó là trách nhiệm.

Những linh hồn ở nơi thanh tẩy, sẽ cầu nguyện và xin phù trợ để đáp đền công ơn người đã cứu giúp họ thoát khỏi ngục hình nhiều nhiều hơn những gì đã giúp họ. Những ngày còn ở dương thế cơ hội rất lớn cứu mình và cứu những người khác.


Ngày 7 tháng 12 năm 2010
M. Đinh Thị Thoa









THẾ GIỚI ẤY



Thế giới ấy…
Không có người thứ ba,
Chỉ tôi và Người,
Chỉ Người và tôi.

Bình minh rồi chiều tà…
Chiều tà lại bình minh…
Người với tôi,
Tôi với Người.

Người không xa vời vợi…
Chín tầng trời thăm thẳm…
Nhưng Người lại rất gần,
Ngày thường trong cuộc sống
Như có thể sờ… như có thể ôm…

Trong ánh sáng ngập tràn…
Giữa chiều tím miên man…
Như mẹ hiền…
Người vỗ về giấc ngủ…
Như bạn lòng…
Người lau lệ đọng mi…
Như cha yêu…
Người nghiêm khắc sửa dạy.

Cùng vui khi tôi vui…
Cùng buồn khi tôi buồn…

Như thai nhi trong cung lòng mẹ,
Được bảo vệ giữ gìn,
Người lắng nghe từng hơi thở…
Người đếm từng nhịp tim…

Trong bóng đêm mờ mịt…
Người soi dẫn bước chân…
Trong ánh sáng chan hòa…
Quyện bước chân múa nhẩy…

Tôi có Người,
Không chỉ bằng linh hồn,
Mà cả bằng thân xác,
Khi trái tim vẫn đập,
Khi hơi thở vẫn còn,
Giác quan vẫn hoạt động.

Không những trong giấc ngủ,
Mà mọi lúc mọi nơi…
Vào những công việc làm…
Trong những giờ nguyện ngẫm…

Có những lúc lười ăn,
Người gọi dậy con ơi!
Làm việc không ngăn nắp,
Người mắng không được vậy!

Mặc áo dài chạy xe,
Cẩn thận kẻo vướng áo!
Chậm chân đến giờ lễ,
Mau lên kẻo muộn rồi!

Phải chăng là tưởng tượng?
Có phải như thế không?
Nhưng trong tôi được biết,
Không một chút mơ hồ!
Không tí nào mộng mị!

Trong trái tim Người, tôi được ấp ủ…
Như gà con, nằm trong cánh mẹ…
Như con ngươi, trong mắt Người…
Trời nóng, Người quạt mát,
Trời lạnh, Người ủ ấm…

Một vết thương trên tôi,
Nhỏ nhất…khó nhìn…
Người cũng nhìn… chữa lành
Vết thương này
Bắt buộc,
Lớn dần… lớn dần…
Đau…mới lành,
Nếu tay Người
không chạm đến

Một sai lầm, dù rất nhỏ,
Làm tim Người,
cũng thắt lại…

Ngay trần gian, tôi đã được…
Có Thiên Đàng…
Một Thiên Đàng,
Trong có Người…
Cả vũ trụ …
trong tim tôi.


Tôi tìm Người
Tôi muốn giống Người,
Và tôi được Người

Thượng Đế của tôi…
Nghe thật xa…
Nhưng thật gần,
Trong mắt tôi…
Trong tai tôi…
Trong tim tôi…

Còn tìm đâu, ở đâu?
Con tìm gì, nơi nào?

Người yêu nào?
Tình yêu nào?
Quý báu hơn!
Cao trọng hơn!

Vua cả vũ trụ…
Ôm tôi vào lòng…


Bao phủ, che chở,
thương yêu…

Còn sợ gì? Còn lo gì?
Biển gầm. sóng gào…
bão táp, trời lở, đất long….
Bóng tối, vực thẳm,
đau thương…

Tinh tú là của Người…
Biển khơi là của người…









Núi non là của Người…
Vũ trụ, của Người…

Từ đời đời tới nay…
Bao tỷ, tỷ con người…
Thế nhưng, trong mỗi một,
Người thấu suốt kẽ tóc, chân tơ.

Trong tay Người,
Tất cả chỉ là,
Một hột cát,

Thế mà…
Người lại
ghé mắt…đến tôi
Vực thẳm hư vô… đớn hèn…

Tình yêu Người, biển cả…
Tình yêu tôi, giọt nước,
Tình yêu Người, sa mạc…
Tình yêu tôi, hạt cát,
Giọt nước, biển cả…
Hạt cát, sa mạc…
Hòa quyện.
Không biên giới…

Các bạn của tôi!
Hãy để người…
Đến với bạn


Gọi tên… Người
Đức Giêsu!






Ngày 10 tháng 12 năm 2010
M. Đinh Thị Thoa





TRÁCH NHIỆM



Thế giới quả thật mênh mông, rộng lớn. Một cá nhân nhỏ bé biết bao! Phải nghĩ gì? phải làm gì? cho xứng đáng là một con người, cho xứng đáng một kiếp người. Chỉ ăn thôi ư? Chỉ ngủ thôi ư? Ăn... thật dễ, ngủ… cũng thật dễ, hưởng thụ, quá dễ, lo cho một mình bản thân mình sung sướng, không cần nhìn đến xung quanh, ai sao mặc họ, nào cha, nào mẹ, nào anh em, bạn bè, thân thuộc, những người hàng xóm, những người chưa quen biết, nhưng cũng cùng chung một kiếp người, thì nào có gì là khó, chỉ có một cái khó duy nhất, là xua đuổi cái gã luơng tâm đi đừng để hắn cắn rứt, khi hắn biến được rồi thì… thoải mái.

Khó chăng là. ăn một miếng ngon, nghĩ đến người không có ăn. Mặc cái áo ấm, nghĩ đến người không có áo mặc. Sống trong hạnh phúc, nghĩ đến những người đang đau khổ. Đau khổ thì có quá nhiều loại đau khổ, trăm ngàn loại. Vì tình, tiền, danh vọng, vì bệnh tật…vì đói khát… cơ man kể sao xiết! Chỉ một cá nhân, làm được gì, muối bỏ biển?...

Câu “nhiều giọt nước làm thành biển cả” nghe cũ rích mà thấy có lý. Thôi thì có sao … làm vậy, không chờ làm những việc lớn lao. Một câu an ủi người đau buồn, động viên người thất vọng, khuyến khích người thất bại, cũng là hành động tương thân tương ái, trong khả năng. Chia xẻ một bát cơm, một manh áo, như vẫn thường nghe các cơ quan từ thiện kêu gọi…

Từ nhỏ, tôi rất thích đọc sách, nhưng tiền bạc hạn chế, cha mẹ lại không thuộc tầng lớp trí thức nên tuy thích nhưng cũng bị nhiều giới hạn. Những điều xem được trong sách thường là không gian tham, gian ác, làm lành, lánh dữ. Đừng để tiền bạc làm mờ lý trí, sống cho ngay thẳng…Nhất là những câu danh ngôn của các bậc hiền triết… tôi thuộc nằm lòng và mang ra áp dụng, như “những điều gì mình không muốn người ta làm cho mình thì đừng làm cho người”, “lấy lửa thử vàng, lấy vàng thử đàn bà, lấy đàn bà thử đàn ông”, tôi là nữ, tôi quyết không ham vàng “một lời nói bảy ngựa khó đuổi theo”…

Nhờ sách báo mà kiến thức được mở rộng, nhiều người không được đến trường nhiều, nhưng ham thích đọc bổ khuyết được nhiều thiếu sót cho trí tuệ.

Hồi còn nhỏ, tôi cũng hung dữ, ai đụng đến là không chịu nhịn, ăn thua đủ ngay, mồm năm miệng mười, ăn miếng trả miếng. Nhưng những “lời hay ý đẹp” , “một sự nhịn chín sự lành”, “chín bỏ làm mười”, “ở hiền gặp lành” mà tôi đã học thuộc, lởn vởn trong đầu, khiến tôi “tốp” bớt lại từ từ. Cộng thêm mỗi ngày mỗi tiếp thu cái hay, mới, cải thiện từ từ. Mỗi khi hành động một điều gì. Tối ngủ, vắt tay lên trán, suy nghĩ lại xem, điều đó làm đúng hay sai, tốt hay xấu.

Tôi “tập” thương yêu mọi người, bằng cách trước một người, tôi tưởng tượng họ là ruột thịt của tôi, là anh, em, cha, mẹ mình.

Tôi “tập” tha thứ, cho những xúc phạm, làm tổn thương mình, làm mình đau khổ, bằng cách tự đặt vị trí mình vào họ, và mình không làm như vậy, vì kềm hãm được, do có luyện tập. Tha thứ là tìm an bình cho bản thân. Hận thù giữ trong lòng làm trái tim bị “ung lên”, mất ăn, mất ngủ. Tự mình làm hại mình. Kẻ thù chưa biết, mình chết trước.

Dầu sao, hoa trái cha mẹ để lại cũng là một yếu tố.

Tôi tập đứng trước tiền bạc, không bị lung lay vì suy nghĩ “tư cách của một con người, được xác định trước mãnh lực của đồng tiền”

Nhờ ham đọc, hay suy gẫm, mà tôi không ăn gian nói dối, nói điều gì cũng uốn lưỡi kẻo làm tổn thương đến người khác, không gian tham, biết thương cảm khi nhìn thấy những người khốn khổ, thiếu thốn xung quanh mình, suy nghĩ phải làm sao để giúp đỡ những người hoạn nạn. Trái tim cũng biết se thắt, nước mắt cũng chảy theo, khi nhìn những giọt nước mắt của đồng loại. Tiền bạc không nhiều, thì mình giúp đỡ bằng nhiều cách khác: dắt người già qua đường, nhường chỗ ngồi cho phụ nữ có thai, bế em bé, trên xe buýt, lắng nghe người đau khổ tâm sự rồi an ủi…

Không giúp đỡ được vật chất, thì giúp đỡ tinh thần, những kiến thức tích lũy được qua xã hội, kinh nghiệm sống, đâu cần phải làm việc gì to tát… chu toàn những việc nhỏ nhất trước.

Đường đời vạn nẻo, biên giới của sự đúng, sai rất gần nhau. Có những lúc vấp ngã, chấn chỉnh kịp thời, đứng lên, để không bị lún sâu trong sai phạm, nhưng không phải vì thế mà không sai phạm nữa. Triền miên vì “không có cái dại nào giống cái dại nào”. Cho đến khi xuống mồ cũng vẫn còn dại. Quyết không để tình trạng “trót đã nhúng chàm” mà “sai là sửa”, “sai là sửa” hoài hoài…

Không bao giờ từ chối một yêu cầu giúp đỡ, nếu trong khả năng. Có một lần, một bà bạn già tuổi đáng mẹ tôi, chúng tôi rất thân thiết, giới thiệu một người con gái nuôi mang thai, nhưng bố đứa bé vì lý do nào đó không gặp nhau, tôi cho ở nhờ từ lúc ba tháng cho đến khi sanh, không cần kiêng cử, sợ xui xẻo khó làm ăn của một vài lời khuyên, không cả chi phí ăn ở, vì chị ta cũng không có tiền, dĩ nhiên là tôi cũng không dư giả gì. Lần nữa, mở quán, tôi mướn một người bán hàng bị tàn tật, điều mà thật không nên nhưng thôi cũng… kệ.

Đâu đâu cũng thấy đau khổ, về thể xác về tâm hồn, làm sao để giúp được nhiều, trong khi khả năng mình lại quá giới hạn. Tin tức thế giới, thiên tai, chiến tranh chết chóc, đói khát ở Châu Phi, hình ảnh của những em bé gầy gò như que củi, mặt gần như bất động vì đói…

Vì lý do chính trị, cá nhân, một số người bị giết một cách rùng rợn, man rợ. Tim tôi bồi hồi “đồng loại với nhau” sao có thể làm vậy. Ăn thịt một con gà còn sống cũng khó, mà xử với nhau như vậy. Tôi thầm an ủi, đó là tác động của Ma Quỉ, thế giới Bóng Tối chứ Người không thể đối xử với đồng loại như vậy. Những hình ảnh này day dứt tôi mãi không nguôi. Một nỗi buồn sâu lắng…

Rồi, có những người xấu, hành động trộm cắp, tại sao không lo làm ăn, chờ người ta làm sẵn đánh cắp. Mãi dâm, dùng cơ thể mình để kinh doanh, giống như con rắn nuôi mình, bằng cách nuốt chính cái đuôi của mình. Lại nghĩ, thôi thì cũng là do … hắn xui khiến.

Làm sao để được nhìn thấy, một thế giới yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau, không còn hận thù, giết chóc, đau khổ. Không nhìn thấy những giọt nước mắt, lăn trên má, nét mặt nhăn nhúm vì đau khổ. Một thế giới đầy ánh sáng, mọi người cùng một thân thể, rộn rã tiếng cười, tràn đầy yêu thương, chứa chan hạnh phúc. Không còn kiêu căng, ích kỷ, ghen tỵ, cái ác hoành hành.

Chu toàn bổn phận với gia đình là quá khó rồi, làm sao có thể giúp đỡ người khác. Cứ cố gắng hết khả năng, tôi tâm niệm như thế.

Cũng có những trường hợp lấy ân báo oán, nhưng không sao, những trường hợp ấy, tôi đã nghĩ đến trước, nên khi xảy ra, tôi không ngạc nhiên. Như trường cô giúp việc tàn tật kể trên, cô ta bị sốt tê liệt từ nhỏ, dáng đi bị xiêu vẹo. Cô ta dùng cây để đánh tôi, khi tôi không chịu mướn người làm mà cô giới thiệu...cô ta phá phách tôi cho bõ ghét, cứ chờ tới lúc cửa hàng đông là tới quậy phá…

Một lần khác, giúp một chị đồng nghiệp. Thấy chị ta làm việc cứ phải nhịn đói, không có cơm ăn. Tôi nói chị góp gạo, tôi nấu cơm cùng ăn, mất mấy tháng, chị ta chỉ góp gạo, còn thức ăn thì không. Tới bữa chỉ cần ăn. Không kham nổi, tôi ngưng. Chị ta đi tố cáo ngay với cấp trên một tội mà tôi không hề phạm…

Có một thời, tôi đi bỏ mối hàng, thường thường, giao hàng trước, bán xong mới lấy tiền. Có nhiều bạn hàng, bán xong, xù luôn. Tôi cũng … tặng luôn. Không hề làm dữ để đòi. Muốn đòi thì họ cũng trả, chỉ cần… đánh thức lương tâm họ dậy là họ trả, phải có thời gian. Có một người bạn hàng, nói một câu: “nếu tôi còn bán hàng, thì dì bỏ hàng tôi sẽ lấy hàng của dì mãi mãi”.

Tôi quen một ông bạn già đồng nghiệp, ông lớn tuổi hơn bố tôi. Tôi đưa cho ông một số tiền để tạo điều kiện làm việc chung. Sau nhiều lần kiếm ông, ông cứ nói quanh co mãi, hóa ra ông đánh đề hết rồi. Tôi không nỡ nói nặng một câu.

Cứ giúp trong khả năng, còn người đối xử với mình ra sao … kệ. Không chờ đợi sự đền đáp, cũng do học thuộc câu “thi ân bất cầu báo”. Cứ nở nụ cười với mọi người, rồi sẽ nhận lại nụ cười.

Trong cuộc sống, có người nọ, người kia. Chẳng lẽ tất cả đều là người xấu. Ai sao cũng không nao núng…

Dù bận bịu với công việc mưu sinh, nhưng ám ảnh những nỗi thống khổ, của kiếp con người lúc nào cũng vương vướng trong tâm hồn tôi, cứ muốn làm, điều gì nhiều nhiều hơn những gì bé nhỏ tôi đã làm. Lúc còn nhỏ, mơ ước xa vời, mình sẽ học thật giỏi, kiếm được nhiều tiền, xây dựng cô nhi viện, viện dưỡng lão để nuôi những em bé mồ côi, người già…ước mơ đó như …chuyện chú cuội chị hằng, như bọt xà phòng tan biến.

Có những năm tháng buồn, tôi về ở một mình, một nơi tương đối còn thưa thớt dân cư, đất ruộng mới mở đường. Yêu súc vật, gia cầm, gia súc. Tôi nuôi vài chục vịt. Quanh quẩn với đàn vịt, suốt ngày, suốt đêm. Cho ăn, tắm. Khi chúng lớn, tôi không biết làm sao giải quyết, chỉ mong chúng đi đâu mất.Cho chúng lang thang, tôi về thành phố cả ngày, để khỏi phải bắt trói, mang đi bán cho con buôn, nhưng chúng không đi mất, bán cho con buôn mà nước mắt dòng dòng, vì tiếng kêu thảm thiết của chúng. Nào là Con Bắt Ruồi, Con Lang Thang, Con Còi… tôi đặt tên cho những con đặc biệt. Tiếng kêu khóc của nó làm tôi buồn cả tháng… Nào có biết mùi vị thịt của chúng, vội vàng vừa bán vừa cho. Công vất vả mấy tháng trời, ngày vớt mấy bao bèo, rồi cám, rồi đào …giun…

Rồi nào là nuôi mèo. Sao mà đẹp, dáng điệu mềm mại, uyển chuyển. Con gái tôi cũng thương yêu súc vật một cách kỳ lạ. Lúc ba tuổi gặp một con chuột chết nhỏ ngoài đường, ngồi xuống khóc nhất định phải bắt con chuột này về, phải dỗ mãi mới chịu đi.

Nó nhặt về một con mèo hoang nhỏ tí, chưa dứt sữa mẹ, khoảng hơn một lạng. nhà có nuôi sẵn một chị chó Nhật, tên là Lucky, Lucky chưa một lần yêu, làm mẹ. Nó cũng giống chủ, thương yêu em bé mèo đặc biệt, mèo ta nhỏ tí, tìm mẹ, cứ rúc vào lòng Lucky tìm vú mẹ và bú. Lucky cũng cho bú. Thế mà, mèo cứ mút mãi, vú Lucky lại ra sữa, thế là Lucky thành mẹ của mèo. Lớn lên do dòng sữa của mẹ Lucky. Tới lớn, cũng cứ rúc vào lòng mẹ chó để bú. Mẹ con gần bằng nhau. Lucky thương con lắm. Liếm láp rất âu yếm. Ai nói mèo chó ghét nhau.

Ngày tháng cứ trôi, tuổi đời chồng chất, bản thân cũng long đong, nếm đủ mọi nỗi khổ của cuộc đời. Đếm thời gian qua, tôi chép miệng… “chỉ có thế thôi sao? Cuộc đời tôi”…

Lúc tôi còn nhỏ, khoảng năm, bảy tuổi, nghĩa là cách đây khoảng hơn 50 năm, thời tiết, khí hậu còn phân biệt bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Gần về tết, mùa Giáng Sinh được hưởng hương vị không khí lành lạnh, êm đềm biết bao. Rồi từ từ, bốn mùa không còn phân biệt rõ ràng nữa. Lên Đà Lạt, Bảo Lộc còn được thưởng thức không khí lạnh của cao nguyên. Bây giờ nó cũng na ná Sài Gòn chỉ khác chút xíu. Môi trường càng ngày càng bị phá hủy. Trước đó, làm gì mà có cái nóng, kinh khủng như bây giờ vào tháng tư, tháng năm. Rồi nào lũ lụt, thiên tai, sóng thần…

Làm sao để được hưởng lại hương vị không khí của những tháng năm cũ. Nghe có vẻ đơn giản nhưng lại là chuyện không tưởng. Thế giới kêu gào bảo vệ môi trường, bảo vệ hành tinh xanh, chỗ mọi người ở, nhưng tiếng kêu hình như bị chìm khuất đâu đâu. Không khí cứ càng ngày càng nóng lên, thiên tai, bão lũ, mỗi năm một tăng cường độ. Những dòng sông, dòng kênh cứ mỗi ngày một đen thêm vì rác, vì hóa chất. Đúng là văn minh càng lên cao, thì tuổi thọ quả đất càng đi xuống.

Tóc tai, mặt mũi đã nhuốm màu thời gian. Người ta nói tuổi già thời gian qua chậm, phải tìm cách giết thời gian bằng cách này cách nọ. Riêng tôi, tôi thấy thời gian bay nhanh như tên bắn, nhanh gấp mấy lần khi còn trẻ. Bây giờ, tôi đã tìm được con đường để đi, lý tưởng để sống, tôi quý từng năm phút. Lý tưởng của tôi bạn đọc đã biết ở trên. Tuy rằng muộn, nhưng vẫn không muộn.

Một ngày tôi “làm việc” mười hai, mười ba tiếng, có khi lên đến mười lăm, mười tám tiếng đồng hồ cho lý tưởng của tôi, bạn đọc sẽ biết, nếu không chê theo dõi. Tôi đã đạt được kết quả, một kết quả mà trong cuộc đời tôi chưa từng bao giờ tưởng tượng đến, dám nghĩ đến, không thể ngờ… sự thực là vậy, không khoa ngôn. Hẹn gặp lại kỳ tới…

13 tháng 12 năm 2010
M. Đinh thị Thoa


TRÁCH NHIỆM
(tt)



Từ ngày bố tôi mất, tôi đối diện với sự thật để tìm hiểu về Tử Thần, tìm hiểu về cuộc sống khi qua “bên ấy”. Một thế giới mà vẫn còn nằm trong bí ẩn của hầu hết mọi người. Đã đi là đi luôn có ai “sống” lại đâu mà biết. Có tôn giáo thì cho là phải sống qua nhiều kiếp người, tùy theo kết quả của kiếp trước tốt, xấu. Có khi còn đầu thai, làm trâu làm chó, để trả nợ cho kiếp trước.

Trước đó, không phải là không biết theo tôn giáo của tôi, nhưng chưa biết thật rõ ràng như hai cộng hai là bốn, vì mải miết bôn ba kiếm sống. Nay nhiều người thân lần lượt ra đi, nay mai cũng đến mình. Tìm hiểu xem người thân mình bây giờ ở đâu, tình trạng ra sao…

Tôi nghe người chị dâu kể, bên xóm của chị, có một bà già ốm yếu, bệnh hoạn, gần như… tiêu. Rồi bỗng dưng có một ngày bà ta tỉnh dậy, khỏe mạnh, ăn gấp năm, gấp bảy, bình thường. Chung quanh kết luận không phải “hồn” của bà ta nữa.

Chị cũng kể mẹ của chị, mất khi năm đứa con còn nhỏ dại, đứa nhỏ nhất còn bú sữa, khoảng mấy tháng tuổi. Trước khi mất, bà kêu lên, bà bị ếm. Sau khi chết, đêm khuya, bà về thăm con, than thở ông chồng ham chơi không lo cho con, thường bóp cổ ông kêu ơi ới.

Một người chị họ trên Bảo Lộc, kể bố chị, tôi đã từng gặp ông khi còn sống. Sau khi chết, trong giấc ngủ chị thấy ông về báo cho chị biết, ông bị một cái cây xuyên qua tim, rất đau, chị vội về Thành Phố ra mộ của ông thấy một cái cây mọc xuyên từ trong mộ của ông ra, chị nhanh chóng nhổ cái cây đi.

Cũng chị này, có người em trai ngủ một đêm, sáng dậy người nhà phát hiện ra đã chết từ lúc nào, anh này lúc mới chết, hay về thăm đứa con nhỏ, thằng bé cứ nhìn vào khoảng không, gọi “ba, ba” và nô đùa.

Một người bạn rất thân của tôi kể, mẹ anh mất được ba ngày, nhà vắng vẻ, anh đưa một người bạn về ngủ. Đêm khuya, có tiếng dép của bà mẹ, đi từ dưới nhà lên phòng, y hệt khi còn sống. Anh đang ngủ mở mắt ra, thấy bà đứng bên cạnh mắng: “mới đi có mấy ngày đã đưa người về nhà”. Bà lay đuổi người bạn “dậy, đi chỗ khác”. Người bạn anh, sáng dậy nói “đêm qua, tôi bị mẹ anh về đuổi”. Bà còn đuổi một người thuê nhà khác trong nhà không cho ở nữa.

Cậu em trai kế tôi, đi lính canh gác trong rừng, nhìn thấy bóng đen đi lại cộp cộp trước mặt.
Bố tôi khi còn trẻ. Ông chú ngoại đưa ông một số tiền nhờ ông cất hộ. Vì giúp việc ở nhà thờ, nên có thể chôn giấu tiền dưới bàn thờ. Về nhà không thể ngủ được vì những cơn đau tức ngực. Sau đó, phải lấy số tiền lên, liền khỏi cơn đau tức ngực.

Những người rất thân thiết này của tôi kể lại, ngoại trừ bố, họ vẫn sống bên cạnh tôi. Chẳng có lý do gì để bịa.

Lúc còn nhỏ, nghe những câu chuyện tương tự, trong lòng rất kinh hãi, tưởng tượng nếu mình là đối tượng có lẽ ngất xỉu tại trận, trong lòng hoang mang không hiểu thực hư, tại sao lại có hiện tượng đó. Trên đây là những câu chuyện của người trong gia đình kể, còn rất nhiều những câu chuyện với nội dung như thế, đi đến đâu cũng gặp.

Thế mà nhiều người vẫn cho là “chết là hết”, không hề quan tâm hay suy nghĩ về đề tài này.

Có thời gian. Vì kiếm sống, tôi đi nhiều nơi, đến nhiều nhà, gặp nhiều người. Có những vùng, dân cư ở đó rất hiền hòa, họ sống gần gũi, thân thiện, những phong tục, tập quán giống nhau. Họ cùng tôn giáo. Từ ngoài Bắc vào, ở chung với nhau sau 75. Người con gái nào đi lấy chồng, cũng có một cỗ tràng hạt bằng bạc, làm của hồi môn.

Cũng những người ngoài Bắc vào sau năm 75, ở một vùng khác, vùng này tập hợp những người nhiều nơi, có vẻ không thân thiện, không hiền hòa như những người ở vùng trên.

Đi sâu vào vùng sâu, vùng xa, là người dân tộc, Mường, Nùng, Mán, Thổ, Thượng ít tiếp xúc với văn minh hơn người Kinh, họ cư xử với nhau. Nghe một cô gái Thượng kể chuyện, người Kinh ghét nhau thì chỉ đấm đá l vài cái là xong, còn người Thượng thì … ghê lắm. Tôn giáo của họ có phần … khó hiểu. Những câu chuyện huyền bí ở những nơi này nhiều hơn ở chỗ khác. Có lần vào một vùng người Mường, tôi được biết một nhà do có người chỉ, nhà này biết thư ếm, có người gặp … tử thần.

Vùng Bảo Lộc, có một linh mục chuyên môn chữa cho những người bị ma quỷ ám. Vùng này có lẽ đồi núi âm u nên trường hợp này tương đối nhiều.

Dưới Bảo Lộc, Ma La Gui, có một ông thầy thuốc nam chữa được bịnh xơ gan cổ trướng của một người đàn ông nhà thương chê cho về chờ chết. Bây giờ khỏi vẫn bán phở phụ vợ ở Phương Lâm.

Đến một vùng nào đó, chỉ một lúc ngồi nói chuyện với một, vài gia đình là tôi có thể biết phong tục, tập quán, của người dân ở đó. Mỗi vùng họ đều giống nhau.

Vùng dân hiền hòa tôi nói ở trên, người dân rất đáng yêu, ăn ngủ lại ở nhà họ, cực kỳ an tâm, giống như trong gia đình mình. Còn những chỗ khác, cái gáy lành lạnh khi vừa bước vào.

Kỷ niệm của những ngày xa xưa, vào những năm 80, đi nhiều, gặp nhiều kiếp người. Có lần, vào buổi trưa, tôi bước vào một cái chòi vắng, xiêu vẹo, toang toác ở giữa đồi, im ắng, không tiếng động, một người đàn bà Thượng mới sinh, nằm với đứa con đỏ hỏn, khoảng 30 tuổi, tôi hỏi “bố nó đâu”, chị nói trọ trẹ, giọng chầm chập của một người mới đẻ “nó đi mãi chẳng về”.

Một bà già gầy gò lưng còng, tóc bạc lưa thưa, xách xô nước bước đi xiêu vẹo, cố gắng làm để cô con dâu đừng chê là vô dụng. Giọng của cô con dâu dài ra “thôi bà cứ để đấy đi”.

Cặp vợ chồng ông bà cụ, ông trăm tuổi có lẻ, bà ngót nghét trăm, con cháu thiếu thốn, không có khả năng lo đầy đủ cho ông bà, tôi thỉnh thoảng ghé vào, khi thì biếu con cá khô, khi thì cái bánh.

Ông Công, khá giả, nhưng không chịu ở nhà tận hưởng, thường xuyên đi thăm viếng kẻ liệt. Nhất là những người sắp chết. Ông kề cận người sắp chết suốt ngày đêm, đọc kinh, giúp đỡ họ những việc trong giờ phút cuối. Khi họ qua đời, ông lại tắm rửa lo thủ tục ma chay. Không cần thù lao tiền bạc. Nếu người nhà cho ông đồ đạc gì, ông lại đem cho những người thiếu thốn khác. Cứ hết người này đến người kia. Đám ma nào cũng có mặt ông.

Đi với ông có một cậu bé, cậu này cũng là một nhân vật lạ, mà ông quen trên đường “công tác” của ông. Tuy cậu 30, nhưng trông như chưa tới 20. Người nào mất cậu cũng lại gần linh cữu kêu khóc thảm thiết, nước mắt, nước mũi chảy đầm đìa. Đám tang bố tôi, cậu ta nhào xuống huyệt khóc la “bố ơi”. Vài người nhà ở Thành phố về, đang khóc thấy người lạ ngưng lại hỏi “ai vậy” rồi phải phì cười. Cậu ta lăn lộn đến nỗi người nhà phải “an ủi” thôi đừng khóc nữa.

Về miền biển, mùi cá, mùi nước mắm, thoang thoảng. Đứng trước biển cả mênh mông, gió biển bay phần phật.

Chào đón gió biển, hương biển mằn mặn. Biển xanh mây trắng, gió lồng lộng. Phóng tầm mắt ra xa, tít chân trời, những cánh buồm thấp thoáng. Cả người tôi thấm đẫm hương vị biển. Nhắm mắt, hồi tưởng lại chuyện xa xưa:

Năm ấy, tôi 18 tuổi, học lớp 10, tôi học muộn vì cha mẹ hay thuyên chuyển, thay đổi chỗ ở. Nhà trường tổ chức đi chơi Vũng Tàu. Tới biển, người chỉ huy chạy trước, cả bọn ào xuống theo. Nước chỉ tới mắt cá chân, nhưng sao lạ, chỉ một cái chớp mắt, đã vụt dâng cao, những sóng lớn ào ạt đưa vào đã cao như những tòa nhà, cuốn mấy chục học sinh ra khơi. Cảm giác của tôi khi đứng trước những con sóng to như vậy, vì chạy sau nên chưa bị sóng cuốn đi, nhưng có một cái gì thôi thúc “bơi ra đi, bơi ra đi cứu bạn” dồn dập, dồn dập. Chỉ một cô gái nhỏ, làm được gì. Tàu thuyền còn không giá trị. Có người đẩy tôi vào tôi mới vào. Bóng tối muốn đưa đẩy mình.

Đoàn cứu hộ cứu được một số. Có bạn hôn mê mấy ngày mới tỉnh. Ba nam mất tích, trong đó có hai là con trai một, một người chỉ một mẹ, một con, không họ hàng thân thuộc. Anh chàng này tên Ngọc, ngồi sau lưng tôi. Bạn Ngọc ít nói, hay cười, trắng trẻo. Có một nốt ruồi duyên lớn giữa cánh mũi và miệng chệch ra gần má. Mẹ Ngọc dáng người đầm đậm, chất phát. Khóc lóc thảm thiết, xỉu lên, xỉu xuống. Mấy ngày không tìm được xác.

Bà từ Sài Gòn ra biển đứng gọi con “con ơi, hãy về với mẹ, để mẹ lo chôn cất cho con. Thế mà, lạ thật bạn Ngọc nổi lên, tấp vào. Đám tang của Ngọc. Tôi đến nhà với một nhóm bạn. Hai mẹ con ở trong một căn nhà nhỏ, tổ ấm của hai mẹ con, đơn sơ ở một xóm nhỏ. Mẹ Ngọc luôn kêu khóc bi thương. Cái đồng hồ tự nhiên kêu “reng reng”. Bà vừa khóc vừa gào lên “nó đấy, nó đấy”. Rồi lại cái đàn của Ngọc treo trên vách thỉnh thoảng kêu “tằng tăng”. Bà cũng gào lên “nó về đấy, nó về đấy”. Còn hai người kia mất tích. Người con trai một là em cô bạn tôi.

Sáng tờ mờ, 6 giờ sáng là tôi đã đi, đi từng nhà, Trưa nghỉ một chút. Đi mãi đến chiều tối. Vào mỗi nhà, ngồi chơi uống ly nước. Người ở tỉnh rất hiếu khách, không vào nhà uống ly nước là không được. Mỗi lần đứng lên đi là phải cố gắng, họ cứ tâm sự mãi, mình không nỡ dứt ra. Người Đà lạt hiền hòa, ăn mặc lịch sự vì là xứ lạnh, nói năng nhỏ nhẹ. Người miền Tây mộc mạc, chân chất, miền Bắc khéo léo, tế nhị. Miền Trung siêng năng cần mẫn. Mỗi miền đều có ưu điểm riêng.

Đăc biệt những người Bắc, họ sống đoàn kết, tổ chức trật tự, nên cộng đồng này hiếm có tệ nạn trộm cắp, mãi dâm. Yêu thương giúp đỡ nhau. Những người khó khăn, neo đơn, đều được cộng đồng quan tâm chăm sóc. Nhà nào cũng biết nhau, nên kẻ lạ vào là biết ngay. Thế nên tệ nạn khó hoạt động. Khó có tổ chức nào chặt chẽ như vậy. Vợ chồng lấy nhau chỉ một lần. Linh mục không làm phép lần thứ hai, ngoại trừ một người chết. Nhà cửa xây dựng ngay hàng thẳng lối. Tín hữu được học “ăn ngay ở lành” ngay từ thuở nhỏ lên ba và cứ tiếp tục như vậy cho đến suốt đời

Bảo Lộc, Gia Kiệm, Hố Tai chạy dọc về Ông tạ, Những khu người Bắc ấy, họ sống rất đồng đều, không kẻ quá nghèo, người quá giàu, mà cùng giúp nhau tiến bộ. Nhà cửa khang trang, ngăn nắp. Người người hiền hòa, nói năng lịch sự. Con gái con trai, hầu hết rất chung thủy. Tôi có người quen thân Việt Kiều về Việt Nam lấy vợ, tìm cho được người con gái trong khu này. Anh ta đạo ông bà. Rất yên tâm, hiếm có cô nào bỏ chồng vì lý do tiền bạc, đua đòi. Trừ phi anh chồng “quậy” quá sức chịu đựng, say sưa, chơi bời, đánh đập, vô trách nhiệm, cùng một lúc có đầy đủ các “chứng”. Còn thì, “chỉ có cái chết mới chia lìa”. Và chị chủ nhà của tôi đạo Phật, nhưng cho mướn nhà hoặc sang lại một căn phòng chị cần sang, “điều kiện” là phải người Bắc ở trong khu này. Chị yên tâm không sợ “lươn lẹo”.

Về miền Tây, xuôi miền Rạch Giá, Cái Sắn. Mấy chục con kênh đào, dài hàng trên chục cây số, đi đâu cũng gặp nước. hai bên bờ cũng toàn người Bắc. Họ dắt dìu, đi đâu cũng ở với nhau thành làng thành xóm, từ thời ông bà tổ tiên.

Tới nơi này, có một con kênh, toàn là người làng của cha mẹ tôi từ ngoài Bắc.

Những vùng này trù phú hơn những vùng dân sống trơ trụi, riêng lẻ, lộn xộn…

Có một vùng miền Tây tôi biết. Con gái đi lấy chồng làng xóm gặp nhau chỉ hỏi thăm “thằng rể giàu hay nghèo, nó cho được mấy chục triệu”, “bao giờ xây được nhà” Vướng phải vợ vùng này thì khốn khổ. Mọi thứ đều đo bằng tiền.

Một bà ở Tùng Nghĩa, chỉ có một mẹ một con trai, định cư ở nước ngoài. Qua bên đó với con trai và con dâu một thời gian. Bà về đây, làm một cái chòi nhỏ, ở một mình trong tuổi già, cô quạnh, hẩm hiu, buồn lắng…

Ở đây, tôi đang đi, một cái đập vào mặt như trời giáng nhớ đời. Thì ra một anh mù, hai tay xách hai thùng nước đầy, loại mà người ta phải gánh. Nhìn anh như một người bình thường. Tôi không biết nên gặp anh, đứng lại trước mặt chờ, nghĩ anh ta sẽ cùng “né” với mình. Nào ngờ cứ thế anh ta “tiến thẳng”. Đầu anh ta đập thẵng vào mặt tôi thật mạnh vì anh ta xách nặng lại đi nhanh. Tôi choáng váng, lảo đảo…

Rồi một lần, “mò” lên Ban Mê Thuột, trong làng một người Mường, ở được ít ngày, bị ngã nước, phải về với một thân hình tiều tụy sau cả tuần bị bịnh.

Đứng trên đồi cao, ngan ngát hương trà của Bảo lộc. không khí lành lạnh. Tầm mắt không bị che khuất, nhìn xuống những vườn trà chập chùng. Đi trên đèo Bảo Lộc, vào những ngày sương mù, cùng với những bụi mưa bay lất phất, chỉ nhìn thấy cảnh vật trong vòng một thước.

Về miền đồng bằng sông nước Cửu Long, gạo trắng nước trong, chỗ nào cũng nước. Đi lại thường bằng phương tiện thuyền bè.

Miền biển không khí trong lành. Biển rộng bao la, nhấp nhô, với những con sóng bạc đầu.Cá, tôm, mực ê hề…

Ngắm nhìn tất cả, rồi lại ngẫm nghĩ đến số phận của một con người, của từng người mình đã gặp. Đọng lại trong tôi những ký ức khó phai.


20 tháng 12 năm 2010
M. Đinh thị Thoa




































TRÁCH NHIỆM
ttt




Có những tối, thả bộ dọc theo bãi biển. Bên trái, lấp lánh những ánh đèn của thành phố biển, bên phải thi thoảng vài ánh đèn, trước mặt là biển cả trong bóng tối. Sóng nước chập chùng, gió thổi rì rào. Chỉ nghe tiếng sóng vỗ, tiếng gió thổi.

Biển mênh mông tựa như cuộc sống, ta là những đoàn lữ hành. Bên kia, là bến bờ hạnh phúc, đích đến của mọi người. Có hai chọn lựa: bơi qua hoặc chìm xuống đáy biển. Khi vượt biển, chỉ cần mang những hành lý gọn, nhẹ, có lợi cho chuyến đi. Đồ dùng cá nhân, lương thực đủ dùng, càng đơn giản càng tốt. Mỗi người phải tự bơi trong sóng nước.

Bên cạnh được có những tàu cứu hộ, tự do chọn lựa. Chọn được đúng tàu trang bị đầy đủ phương tiện vượt biển. Tàu lớn, có thể chống chọi với sóng gió, la bàn để biết phương hướng, thuốc men trợ giúp người bơi… Ngược lại với người bơi phải gọn, nhẹ, thì tàu càng trang bị càng đầy đủ càng tốt. Chọn được tàu này khả năng vượt biển thành công cao.

Sao có thể biết được tàu nào có khả năng trên. Đơn giản đến mức không thể ngờ, chỉ cần dùng mắt thường quan sát, như so sánh một cái xe đạp và một cái xe hơi: nhìn hình thể, cấu tạo, tổ chức, những kết quả tàu đó đã đạt. Nó đưa người đến bến, và quay trở lại giúp những người tiếp theo. Trong trường hợp này nên bỏ những ôm ấp thủ cựu từ nhiều đời, cho rằng “kệ” vì xưa đến nay vẫn thế.

Trong đời sống, thể xác và tinh thần đều cần đến tri thức, như cá với nước, như không khí đối với mọi sinh vật. Đời sống tâm linh của một số người sống theo thói quen, nối tiếp kế thừa, tri thức bị vất bỏ, không sử dụng đến bộ não mà Thượng Đế đã trao ban. Chỉ cần làm những hành động rất đơn giản “quan sát” và “so sánh” nhưng lại không.

Nhan nhãn trước mắt những phương tiện hiện đại, tổ chức liên kết chặt chẽ, để giúp đỡ mình, mà mình không màng chỉ ôm lấy những cái cũ kỹ. Cái chữ “đua đòi” trong trường hợp này mà “sử dụng” thì tốt biết bao!

Thượng Đế trao ban cho cặp mắt, nhìn tất cả mọi sự vật và so sánh tìm hiểu, giác quan khác cũng vậy. Chính bản thân mình được thừa hưởng những thành quả của sự quan sát ấy. Kéo theo những người thân yêu của mình, vợ, chồng, con, cháu, những dòng dõi kế tiếp của mình cũng được hưởng thành quả ấy. NHÌN và SO SÁNH khó gì đâu!

Đời sống bình thường di chuyển từ Bến Thành tới Chợ Lớn: phương tiện là xe đạp, xe bus, taxi tùy theo túi tiền của từng người. Còn trong đời sống tâm linh. “lựa”


phương tiện nào TỐT nhất: xe đạp, xe bus, taxi, máy bay hoàn toàn miễn phi. Máy bay, tai sao không!

Đời sống bình thường này chỉ “dài” so với cuộc sống kia là con số không. Cứ nhắm mắt đạp cái xe đạp cũ kỹ, hư tới hư lui, xẹp lốp, gẫy căm, không được đến đâu. Máy bay miễn phí sao không sử dụng. Từ phương tiện tốt này, kéo theo những cái tốt khác, tốt ngay cả hiện tại, ngay cả cái thể xác đang sống này

Xe đạp làm y phục tơi tả, tan tác. Máy bay, được nhân viên trang bị y phục mới phù hợp với phương tiện hiện đại. Như vậy, tốt cả hai mặt, trên đường lữ hành tới điểm đến.

Các giác quan mắt, mũi, miệng , tai… không sử dụng cho đồng đều thì … thật là không công bằng.

Toàn thể mọi người đều phát xuất từ tạo hóa, thế nên cùng là anh em, muốn chối bỏ cũng không được. Người kỹ sư, bác sĩ, người nông dân, người dạy học…. Ai cũng bác sĩ gạo, rau, củ sao có mà ăn. Ai cũng nông dân, sao mà chữa bệnh. Vậy cùng một thân thể, Thượng Đế là đầu. Mỗi người trong ta là một bộ phận mắt, tai, mũi, miệng….

Muốn phủ nhận cũng không thể. Như cha mẹ sinh ra ta, bất hiếu không muốn nhận là con, cũng vẫn là con. Tách ra, là những tế bào chết. như cánh tay, chân… bị cắt lìa sẽ thối rữa…. Cùng một thân thể, thì phải lắng nghe chỉ thị từ “trung ương” để cùng “phối hợp” cho nhịp nhàng. Trung ương không thể cùng một lúc chỉ thị hai lệnh “mâu thuẫn” nhau. Đã là “trung ương” thì phải “tầm cỡ” , “bề thế”, “to”…. Nói chung, tất cả đều phải nhất về mọi nghĩa.

Tạo hóa đã sinh ra ta, Cha không bỏ mặc ta như những đứa con hoang, ta không “nhìn” thấy Ngài do “vô tâm”. Cha ban cho ta sự “tự do” . Tự do nhìn nhận, tự do chối bỏ Ngài, tự do vô ơn… nhưng Ngài vẫn ngày đêm lo cho ta từng chút. Trái đất vẫn quay, mưa nắng bốn mùa vẩn vận chuyển. Chỉ cần một “trục trặc” nhỏ là tất cả chúng ta … tiêu.

Cha tạo ra ta để cùng hưởng hạnh phúc với Ngài, nhưng vì Nguyên tổ “bất phục tòng” phản bội…. Không vâng lời Ngài, “ăn trái cấm”. Nên loài người đã phải chịu “sinh, lão, bịnh, tử”. Nhưng Cha vẫn thương, cho con Một của Ngài xuống trần gian chịu khổ hình “đền tội’ cho ta. Ngày 24 tháng 12 hằng năm nhân loại vẫn kỷ niệm ngày “Thái Tử “ giáng trần còn gọi là Noel.

Càng chất chứa nhiều kiêu căng, ganh tị, tham lam thể hiện cho Bóng Tối thì chúng ta càng “khó nhìn” thấy Ngài. Tinh tuyền, trong sạch thì chúng ta gần Cha, nghe rõ được tiếng Cha. Cha vẫn ngày đêm kêu gọi sự “trở về” của con cái. Ta “yêu” con cái của mình như thế nào, với trái tim của một con “Người”. Thì Cha “yêu” con cái của cha với trái tim của một “Thượng Đế” có nghĩa không ngôn ngữ để diễn tả. Ta có thể tạm “so sánh” một hạt sương với cả một bầu trời, một giọt nước với cả ngàn trùng dương bao la…

Cha “cho phép” Bóng Tối hoạt động để “chọn lựa” những đứa con hiếu thảo biết “san bằng” trở ngại để đến với cha. Thế gian đầy bóng tối bao phủ, đầy những thử

thách mà Cha muốn các con Cha phải vượt qua. Lấy lại những gì đã mất do tội Nguyên Tổ mà nhờ “Con Một Cha đã xuống thế chuộc lại”.

Tuy đầy thử thách nhưng Cha ban rất nhiều “đặc ân”, “trợ giúp” ta đến được với Cha. Ta chỉ cần “mở mắt” quan sát như đã nói ở trên. Đầy đủ tất cả các phương tiện cần thiết để nhận biết Ngài, qua những tiếng kêu gọi của Cha trong đầu, mà ta vẫn gọi là “lương tâm”. Qua các ngôn sứ, tiên tri, kinh sách…. Ngôn sứ, tiên tri là những người trong chúng ta , những vị này hướng về Cha, với trọn vẹn con tim nên được ban thưởng những ân sủng đặc biệt. Những dấu lạ từ trời xuống, Những dấu lạ từ những đứa con hiếu thảo của Cha.

Trăm phương ngàn cách cha dùng để “cứu” chúng ta. Chỉ khi nào ta từ chối Cha một cách tự nguyện và “ý thức” Ngài đành chịu. Tự lao vào bể trầm luân đời đời, lãnh hình phạt mà ta tự chuốc lấy. Ngài rất đau đớn khi bị hư mất mỗi người trong chúng ta, nhưng đó là sự công bằng Cha không thể làm đảo lộn trật tự. “Công thưởng, tội đền”

Một trong những đặc ân của Cha. Anh em có trách nhiệm liên đới với nhau. Có thể giúp nhau một cách tích cực, bằng cách kêu gọi, cầu nguyện, đền tội thay, người biết khai trí cho những người không biết. Thế nên mới có những dòng tu, chuyên ăn chay, hãm mình, hy sinh đền tội cho anh em mình. Thế giới còn tồn tại nhờ những tâm hồn ưu tuyển này, thiên tai, chiến tranh được giảm bớt, cũng nhờ những tâm hồn này cầu xin mà Cha dựa vào đó để cứu.

Hiện tượng mặt trời, tự nhiên tách ra khỏi bầu trời, quay, bay lượn nhảy múa, ngoằn ngoèo một cách kỳ lạ, khủng khiếp bắn ra nhiều màu sặc sỡ ngày 13 tháng 10 năm 1917, tại đồi Cova Da Iria, Fatima Bồ Đào Nha gồm nhiều phóng viên của những tờ báo lớn Bồ Đào Nha. Hàng trăm ngàn người chứng kiến là một trong những dấu lạ, và nhiều vô số những dấu lạ khác sẽ đề cập sau, để dẫn dắt nhân loại đến với Ngài.

Rất rất nhiều chỉ cần quan tâm, sẽ thấy ngay chính lộ. Đi không đúng đường sẽ mãi không đến được bến. Chúng ta yếu đuối cần phải có sự nâng đỡ, dẫn dắt. Số người đến được bến không bằng chính lộ rất ít, vì họ phải rất mạnh mẽ, và phi thường. Không ràng buộc với thế gian, tội lỗi họ không chạm đến. Họ sẽ đến được với Thượng Đế nhờ chay tịnh, hãm mình, sám hối, đánh tội… Từ bỏ hỉ, nộ, ái, ố, tham, sân, si…. Bao nhiêu triệu người mới có được vài người như vậy, mấy ai tu được như họ.

Chính vì Cha biết được sự yếu hèn của các con, nên trên đường lữ thứ, cha ban những ân sủng để giúp đỡ mọi người đến với Cha. Cha không muốn một người nào hư mất, chứ không chỉ một, vài người ít ỏi như vậy.

Rồi từ vài người tu thành chánh quả, đắc đạo. Một số người đã tạc tượng các vị này để thờ phượng, lập thành tôn giáo này, tôn giáo nọ. Những vị này thành những Giáo Chủ bất đắc dĩ. Trên Niết Bàn các ngài không thể về để từ chối ngôi vị như ý muốn khi còn sống. Vì muốn về cũng phải được “ký phép”.

Chính những vị cũng không muốn ai thờ thượng họ. Trước khi viên tịch các vị cũng đã dặn dò các môn đệ điều này và chỉ hướng dẫn cách sống để thoát ra khỏi vòng trầm luân. Các vị cũng chỉ là người phàm như chúng ta do Thượng Đế tạo ra. Họ chẳng có một quyền năng gì để ban phát cho chúng ta. Kể cả khi họ đã lên chốn Bồng Lai, hay Niết Bàn hay Thiên Đàng.

Mọi sự chúng ta có, chúng ta hưởng, đều do Thượng Đế trao tặng. Ngài đã phán qua miệng các ngôn sứ, tiên tri, “các ngươi chỉ thờ lạy một mình ta, chính ta là Thượng Đế” và nhiều lời dạy dỗ khác của Ngài. Ngài luôn luôn theo dõi, nhắc nhở, dạy dỗ.


Kế hoạch của Cha luôn chính xác từ nhiều ngàn năm trước, được lần lượt xảy ra theo đúng lời tiên tri loan báo trước. Tiên tri thật thì lời nói của các vị sẽ được ứng nghiệm, tiên tri giả ngược lại và họ bị trừng phạt vì sự dối trá của họ. Tất cả đều được ghi chép lại.

Ngoài Thượng Đế là đấng tự hữu tự có. Chín phẩm thiên thần cũng còn gọi là Thiên Tướng do Ngài tạo ra và ban cho quyền phép. Bóng Tối là Satan tức Luy Xi Phe. Y là một Tổng Lãnh Thiên Thần. Quyền phép Ngài ban cho hắn chỉ dưới Ngài. Y ta phạm tội kiêu ngạo muốn bằng Thượng Đế. Ngài “tống” hắn xuống Hỏa ngục lãnh hình phạt đời đời. Cha cho phép hắn “hoạt động” khi Cha muốn. Vua Bóng Tối khi được phép hoạt động hắn dùng quyền phép Cha ban cho trước kia để phỉnh lừa mọi người. Không cảnh giác mắc mưu hắn, thì sẽ cùng vào Hỏa ngục với hắn lãnh án phạt đời đời kiếp kiếp. Bởi thế mới có những tôn giáo gọi là “Ma Đạo” nếu hiểu thực chất. Tôn giáo này dạy người ta làm những điều trái luân thường đạo lý như thư, yếm, bùa, ngải …hoặc mở cửa hàng đi xin “phép” bán cho đông khách… một loại hình mà rất nhiều người mắc phải. Những linh hồn này đã thuộc về hắn. Bất cứ lúc nào hắn cũng có thể mang đi nếu hắn muốn.

Cha trao tặng sự Tự Do. Ta có thể chọn Ánh Sáng hoặc Bóng Tối tùy ý. Một mặt Cha cho phép Satan hoạt động. Phần thưởng Thiên Đàng không thể tự nhiên mà có. Ngay trên trần gian cũng vậy không có gì “tự trên trời rơi xuống”.

Bóng tối phủ kín thế gian, Nhưng nếu để ý, ân sủng của Cha tràn đầy giúp ta thoát ra khỏi Bóng Tối đó. Điều quan trọng là muốn hay không.

Mỗi người trong chúng ta Cha đều ban cho một Thiên thần bổn mạng hay Hộ Thủ hay còn gọi là Ông Thiện dù người này nhận Cha hay chối bỏ Cha. Ông Thiện luôn bên ta ngày đêm bảo vệ, nhắc nhở việc tốt xấu, các Ông Thiện đều có tên giống như chúng ta. Mặt khác, Cha tích cực chiếu Ánh Sáng trên ta những đường ngay lẽ phải. Khả năng nhận biết tốt, xấu này sẽ giảm dần hoặc tăng dần tùy theo sự chọn lựa của ta. Vô lương tâm hay thánh thiện. Càng gần Bóng Tối thì càng xa Cha, Càng gần Ánh Sáng thì càng gần Cha… cả vể thể lý lẫn tâm linh.

Chay tịnh, hãm mình, cầu nguyện, xả kỷ, tận hiến….Tùy theo mức độ các giác quan sẽ được “nhìn” thấy Cha. Cha rất sống động với từng đứa con của Ngài. Trường hợp này xảy ra rất nhiều, sách vở có ghi lại các chứng tích. Tình yêu của Cha đồng đều, các con có những cơ hội ngang nhau không phân biệt, Nên đừng tự đặt rào cản đến với Ngài. Có điều là “xả kỷ” được hay không! Có nghĩa cái “tôi” của mình phải quên đi.

Điều Cha khao khát là “tự cứu mình và anh em của mình” chứ không riêng bản thân mình. “Trách nhiệm liên đới” tạo thành vòng tròn khép kín:

- Triều Thần Thiên Quốc cầu giúp cho đoàn lữ hành dưới thế.

- Đoàn lữ hành cầu giúp lẫn nhau, cùng giúp cho các người đã ra đi đang thanh tẩy lỗi lầm đã phạm, nhanh, chậm tùy thuộc nhiều vào gia đình trên trần gian, tùy thuộc vào các dòng tu các tu sĩ, bạn bè… cầu thay nguyện giúp.

- Các linh hồn đã qua đời cầu xin Cha trả ơn cho các người đã giúp họ. Luôn luôn nhiều hơn những gì họ đã nhận

Nhờ “trách nhiệm liên đới” này mà mới có ngày Thiên Tử Giáng Sinh làm người để cứu chuộc nhân loại.

Chính vì “liên đới trách nhiệm” Cha đã trao tặng con Một Yêu Dấu của Ngài cho nhân loại xuống thế mặc xác phàm. Thái Tử trở thành anh em với chúng ta, Ngài “có quyền” cứu anh em mình, đền tội thay bằng những cực hình khủng khiếp nhất, đau thương, thê thảm, nhục nhã nhất, mà chỉ con tim của Thượng Đế mới có được tinh yêu cao cả như thế.

Không của lễ tinh tuyền, thánh thiện nào sánh bằng, Mình, Máu, Linh hồn, Thần Tính của Thiên Tử, dâng lên Cha đã làm thỏa mãn sự công thẳng của Cha. Hằng năm nhân loại tổ chức kỷ niệm ngày 24 tháng 12 ngày Giáng Sinh của Thái Tử Và lấy năm này làm cột mốc dương lịch nay là 2010 năm..

Bị khổ hình, gia hình, Thái Tử chết đi sau ba ngày sống lại, lên trời như trên. Hằng ngày, Ngài vẫn hiện diện giữa chúng ta qua những bí tích thiêng liêng nhiệm màu.

Một số người trong anh em chúng ta đã đáp lại tình yêu vô biên, dâng hiến trọn vẹn con tim, đời sống của họ lên Thiên Tử. Những người này, yêu mến Ngài trên hết mọi sự, kết hợp thân thiết với Ngài.

Những lời Thiên Tử dạy bảo, khi còn ở dương thế trong xác phàm, được những môn đệ truyền tới nay. Giáo hội với những Kitô hữu đã được hình thành.

Những người yêu mến, thân thiết này muốn được chia xẻ buồn vui với Ngài. Khao khát của Thái Tử như Cha là tất cả nhân loại được cứu độ.

Thái Tử mang ơn cứu độ xuống thế gian, nhưng nhiều người vẫn vô tâm, không biết những ân sủng tràn đầy như đại dương bao la, không nhận ân sủng, từ chối ngài.

Không biết những án phạt, kết quả sẽ dành cho họ, sự công bằng của Cha.

Những bạn hữu, gánh vác cùng Ngài trong việc rao giảng ơn cứu độ, được Ngài tỏ mình với họ. Liên lạc mật thiết bằng nhiều cách như hiện ra đàm đạo trực tiếp, hoặc nghe tiếng nói, hoặc những thị kiến trong giấc ngủ.

Họ được chia xẻ những đau đớn về thể lý, để đền tội cho anh em mình, như ta đã từng nghe: có những vị được “in năm dấu thánh” . Năm thương tích của Ngài khi bị đóng đinh. Sự hy sinh, đau đớn, đền tội thay của những “tình nguyện viên” này sẽ giúp được một số người vô tâm, vô tín, nhận ra ơn cứu độ, được ơn hoán cải.

Sự nghiệp nhân thế của Ngài đã hoàn tất. Thế nhưng công việc rao giảng ơn cứu độ vẫn tiếp diễn, và vẫn cần những việc đền tội, vẫn cần những con tim yêu thương anh em, đồng loại, dìu dắt, giúp đỡ… dìu nhau đến chốn hạnh phúc muôn đời.






Ngày 27 tháng 12 năm 2010
M. Đinh Thị Thoa

































MÙA GIÁNG SINH



Hôm nay, ngày 24 tháng 12 là Noel, là ngày Chúa Giáng Sinh. Phố xá tưng bừng rộn rã chào mừng Chúa ra đời. Kitô hữu hay không, nhà nhà, phố xá, toàn nước, nói riêng, toàn Thế giới, toàn thể nhân loại nói chung đều đón chào NGÀI. Không nhà nào là không ĂN MỪNG NOEL.

Những xóm đạo, đèn hoa lấp lánh đủ màu giăng nguyên con đường. Trước cửa mỗi nhà thỉnh thoảng có những hang đá. Chúa Hài đồng “ngự” trên máng cỏ. Bò, Lừa dâng hơi ấm, cùng Thánh Cả Giuse và Trinh nữ Maria mẹ của Ngài, mục đồng viếng thăm. Những cây thông, ngôi sao xanh, đỏ….

Giáo đường thì thôi khỏi nói, chính nơi đây là nhà của Ngài ở trần gian. Tín hữu tấp nập, chuẩn bị trước đó cả tháng, về mọi mặt, tinh thần lẫn vật chất.

Nhà hàng, khách sạn, là lúc được phô trương lực lượng. Ông già Noel thật, do người thủ vai, giả là những hình, tượng… với bộ đồ đỏ, hàm râu trắng, khuôn mặt hiền từ, nụ cười thật tươi. Cây thông xanh, trắng, bạc…cao ngất chớp nháy, huy hoàng với đủ “đồ chơi” được treo rực rỡ….

Các cửa hàng kinh doanh là cơ hội để kiếm tiền. Vui chơi, giải tri, ăn uống….

Chợ búa đắt như tôm tươi, bao nhiêu hàng hóa đều được “gom” sạch, giá cả lên cao hơn nhiều so với ngày thường. “Lễ mà” …. Không đi sớm thì không còn để mua.

Nhạc Giáng Sinh đâu đâu cũng văng vẳng….

Thánh ca réo rắt:

”Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời,…”
“Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm…”,
“Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng… Đất với Trời, se chữ đồng….

Nhạc tình:

“Mùa Noel đó, có anh bên em …”
“Chúa ngự ở trên cao, ngày đầu mới yêu nhau…”

Thế nhưng,

Chúa giáng trần là ai? làm gì?....Cuộc đời nhân thế của Ngài như thế nào?

Adam, Eve, được Thượng Đế tạo ra là Tổ tiên của loài người.

Ngài cho họ được sống trong vườn Địa Đàng với muôn ngàn hạnh phúc. Không hề biết đau khổ là gì, không cần làm cũng có ăn, không biết đến cái chết….

Ngài cho tự do hưởng thụ tất cả. Trừ một cây có trái, Ngài cấm không được ăn cũng chỉ là để thử thách. Nhưng Eve, nghe lời dụ dỗ của con rắn là Satan, đã ăn quả cấm này để được bằng Thượng Đế. Nàng lại dụ dỗ Adam cùng ăn. Thế là cả hai bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng. Sinh, lão, bịnh, tử, từ đó họ phải gánh chịu. Cửa Thiên Đàng đóng lại. Loài người và Thượng Đế đã bị chia lìa, Đất trời tuyệt giao.

Thái Tử vâng lời Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại.

Kế hoạch mà Thượng Đế đã định từ thuở đời đời khi Nguyên tổ vừa phạm tội.

Trước khi Thái Tử giáng trần Cha đã cho ngôn sứ, tiên tri loan báo trước đó cả ngàn năm. Khởi nguyên, Cha chọn dân Do Thái, Israel là dân riêng, từ dân tộc này Cha sẽ hướng nhân loại về với Cha. Thời điểm này cả nước Israel, trông chờ Đấng Cứu Thế xuống trần cứu độ họ. Họ trông chờ một vì Vua theo nghĩa của Thế gian, đánh đuổi ngoại bang để họ được độc lập, cơm ngon, áo ấm.

Thái Tử là Chúa Giêsu, nước của Ngài là nước Trời, Ngài xuống thế để giao hòa trời đất làm lành với Cha. Dân Do Thái đã không nhận ra Ngài, trong hình hài một em bé khiêm nhường nằm trong máng cỏ. Cuộc đời kéo dài ba mươi ba năm của Ngài làm gương cho nhân loại về khiêm nhường, yêu thương, hy sinh cho anh em, đồng loại….

Ba năm Đức Giêsu giảng về nước Trời cùng những phép lạ do Ngài làm. Người mù được thấy, người cùi được sạch, người câm được nói, người què được đi, người chết sống lại…

Kế hoạch của Cha là Thái Tử phải chịu khổ hình, để đền tội lỗi thay cho nhân loại, một công việc chỉ có Thái Tử là con Một Cha, trái tim này cũng là Thượng Đế mới đảm đương được.

Lãnh đạo Do Thái không nhận ra Đức Giêsu, vì con mắt trần gian của họ. Quyền năng của Ngài làm ảnh hưởng đến quyền lợi thế gian của họ, nên họ đã bắt Ngài tử hình bằng những khổ hình khủng khiếp nhất. Đó cũng là ý của Cha ĐỀN TỘI CHO THÊ GIAN.

Thái Tử đã dâng hiến thân mình, để làm của lễ đền tội .“Không ai lấy được mạng sống tôi, nếu tôi không dâng hiến”. Khi tự nguyện nộp mình, một môn đệ dùng gươm chém một người bắt Ngài đứt lìa tai trái. Đức Giêsu đã dùng phép lạ gắn tai người này lành lại.

Máu Thái Tử đổ, Cửa Thiên Đàng đã được mở, Trời Đất giao hòa.

Đây cũng là bí mật của Thượng Đế, nếu Bóng Tối biết được đóng đinh Đức Giêsu cửa Thiên Đàng được mở thì đời nào chúng lại giết Đức Giêsu.

Sau khi chết ba ngày, Ngài sống lại, cả hồn lẫn xác, hiện ra với các môn đệ một thời gian. Sau đó, lên trời trước mặt khoảng 500 người.

Mười Hai môn đệ từ đó cùng các chứng nhân đi rao giảng về hạnh phúc nước trời. Từng thế hệ tiếp nối cho tới ngày nay.

Thái Tử vẫn ở hằng ngày dưới thế, cùng nhân loại bằng con mắt đức tin, điều hành Giáo Hội của Ngài cho đến ngày Ngài đến lần thứ hai. Ngày đó không còn là cứu độ mà là ngày phán xét. Ngày phán xét toàn thể nhân loại.

Hãy đến với Thái Tử, máu của Ngài có thể rửa sạch được mọi tội lỗi mà ta đã phạm. Ngài sẽ không bao giờ từ chối bất cứ một ai biết kêu xin Ngài. Từ chối Ngài là từ chối những ân sủng đầy tràn, Từ chối ngài là chấp nhận Bóng Tối. Cuộc sống dương gian này sẽ phải trả giá từ những hành động nhỏ nhất. Trái tim của Thượng Đế yêu
thương vô hạn. Nhưng sự công thẳng của Thượng Đế cũng không kém.




Quận 3 ngày 24 tháng 12 năm 2010

Đinh Thi Thoa











nj


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 672

Return to top