Peter nhanh lẹ thả mình xuống ghế bành, trong khi Justus đứng tựa vào mép bàn máy tính. Dạ dày cậu đang gào thét đòi chất lỏng, ngoài ra nó hoàn toàn bình thường. Thám tử trưởng nhẹ nhõm nhận thấy mối nghi ngờ về vụ đánh thuốc độc đồ ăn đã không biến thành sự thật. Cậu tóm lấy một chai Cola, nhìn Bob bằng vẻ quan tâm chừng mực.
Thám tử Thứ Ba đang hăm hở lôi ra không biết bao nhiêu chồng hồ sơ từ mọi ngóc ngách trong phòng, chất chúng lên bàn.
- Mình là người chịu trách nhiệm về lưu trữ và nghiên cứu, - cậu giải thích.
- Thỉnh thoảng cũng phải nhắc cho các cậu nhớ.
- Ý cậu muốn nói là thời gian gần đây cậu đã trút được quá nhiều việc sang cho mình, kể từ khi có mạng Internet? - Justus hỏi.
- Chính thế. Cậu can thiệp vào phạm vi chuyên môn của mình.
- Bob lật lật những tờ giấy trong tập hồ sơ đầu.
Justus quan sát những bài báo đã được cắt ra và được dán vào trong tập hồ sơ nầy, chúng được bắt đầu ngả màu vàng.
- Cậu định làm gì thế, Bob, - Thám tử
Trưởng hỏi.
Thám tử Thứ Ba không trả lời, chỉ tiếp tục lật giấy. Sau đó một chút, cậu đã tiến sang tập hồ sơ thứ hai.
- Lên mạng Internet ít ra người ta cũng có máy tìm kiếm.
- Peter thu người ngồi sâu hơn nữa vào lòng ghế bành. Mỏi mệt, cậu nhắm mắt lại.
- Cậu chỉ cần đưa một từ khoá vào thôi và sẽ tìm thấy các trang web tương thích. Kho lưu trữ của Bob có vẻ như hoạt động theo nguyên tắc tình cờ.
- Nếu các cậu cứ tiếp tục lảm nhảm như thế, mình sẽ tuyên bố nghĩ phép, để cho hai cậu tự tìm cách tóm cổ Mặt Chó Sói.
- Bob giải thích.
- Mà ngoài ra, mạng Internet cũng chẳng giúp gì được một khi cậu không biết từ khoá.
Justus nâng một tập hồ sơ lên, đọc hàng chữ sau gáy: "Các vụ án nổi tiếng trong lịch sử hình sự, tập 3".
- Cậu có đồng ý là lời nhận xét của cậu trong ôtô ban nãy hơi có phần ngu ngốc không. Nhưng chính nó đã khiến mình nảy ra một ý, - Bob nói, cầm tập hồ sơ thứ ba từ tay Justus.
- Có phải lời nhận xét rằng các bạn chúi mũi vào đọc báo trong khi mình suýt tóm được thủ phạm không?
- Chính nó đấy.
- Đột ngột, Bob dừng phắt lại. Cậu mở tập hồ sơ và lôi một tờ giấy ra ngoài.
- Đây là chính thứ mình tìm, - cậu kiêu hãnh nói.
- Mình biết chắc là đã có đưa câu chuyện nầy vào trong bộ sưu tập. Chỉ có điều mình quên nó thuộc về năm nào.
Justus cúi người qua bờ vai bạn mình, cả Peter cũng đã chồm dậy từ lâu. Bob đang cầm trong tay một bài báo, được cậu sao chép từ một tờ báo xứ New York.
Ngày tháng của tờ báo cho biết bài nầy đã được viết cách đây 5 năm. Trong bài có ảnh một người đàn ông vừa được dẫn vào phòng xử án. Hàng tít được in rất đậm bên dưới tuyên bố: "Bảy năm tù cho Mặt Chó Sói".
- Nhanh lên đi, đọc đi, - Peter bồn chồn nói. Cậu không nhìn thấy gì vì bị
Justus chen vào trước mặt.
"New York. Jeff Rodder, kẻ trong những tháng vừa qua đã gây không ít xôn xao trong hàng ngũ cảnh sát New York, giờ đây đã bị tuyên án bảy năm tù vì tội cướp của và ăn cắp… Rodder đã gián tiếp báo trước cho cảnh sát biết những hành động của gã qua những lá thư được viết theo dạng văn cổ tích, nhưng lần nào những lá thư nầy cũng dẫn cảnh sát đi lệch hướng. Gã bị bắt vì một sự tình cờ. Trong một vụ leo trèo táo tợn bên bức tường của một toà nhà ngân hàng, Rodder đã rơi xuống và bị gãy một chân. Khi bị bắt, gã đang đeo một chiếc mặt nạ chó sói. Rodder hồi trước vốn cũng là cảnh sát viên. Trong quá trình xử án, một chuyên gia đã giải thích rằng Rodder tự cho rằng gã đã bị đuổi việc một cách oan ức. Động cơ của gã không phải chỉ là làm giàu cho bản thân, mà còn chủ đích dẫn cảnh sát đi lạc hướng. Nhưng bây giờ thì trò chơi mèo vờn chuột với cảnh sát đã kết thúc. Rodder, nhân vật được báo chí gọi là "Mặt Chó Sói" vì chiếc mặt nạ mà hắn thừon đeo khi phạm tội, đã im lặng lắng nghe lời tuyên án."
Đọc xong, Bob ngẩng nhìn , lên:
- Sao?
- Ai cha, - Justus thán phục.
- Rất thích hợp. Những dấu vết giả, trò leo trèo và mặt nạ: Mặt Chó Sói rất có thể là Jeff Rodder. Nếu quả bóng nầy mà không vào gôn.
- Nhưng thủ phạm vừa rồi không thể là Rodder được, - Peter kêu lên. Thám tử phó đang cầm bản sao chép của tờ báo trong tay và quan sát tấm ảnh.
- Nếu trước đây 5 năm gã bị tuyên án bảy năm tù thì bây giờ gã vẫn còn ngồi trong nhà ngục.
Ngoại trừ trường hợp gã được thả ra thước thời hạn, - Bob hồi hộp đáp.
- Được rồi , - Justus nhảy đến bên máy tính và bật nó lên.
- Giờ đến lượt mình.
- Cậu kêu lên và hăm hở vào mạng Internet, bắt đầu tìm kiếm.
- Ít nhất thì cũng lâu y hệt như tìm kiếm của mình, - Bob cười, nhìn qua vai bạn.
- Hệ thống lưu trữ kiểu truyền thống cũng đâu đến nỗi tệ.- Rồi Bob nhún vai, lùi về một vài bước, vấp phải két Cola. Cậu giơ chân đạp nó vào gầm bàn. -
Mà nầy, Peter, Két Cola lại hết rồi. Liệu cậu có thể… … ?
- Cậu nói cái gì thế.
- Thám tử phó rút một chai Cola ra khỏi két và tung hứng trên tay như một diễn viên xiếc. Thế rồi cậu đứng dậy, đặt chai Cola lên tấm ván nhỏ mà Justus đã gắn vào cánh cửa phòng.
- Đây là vật cầu may mới của chúng ta, - cậu nói.
- Chai rỗng.
- Độc đáo đấy, - Bob nhận xét, chẳng mấy hào hứng.
- Cái đó biểu tượng đứa nào trong ba đứa mình? cậu nhìn Peter rồi xoay sang phía Justus.
- Vẫn chưa thấy gì cả sao?
Justus đang vật lộn với con chuột.- Đầu tiên mình phải nhấn gạt cái đống quảng cáo đồ gợi dục tởm lợm nầy đã, - cậu lẩm bẩm.
- Tại sao chúng nó cứ chồm lên trước?
- Mình có cần phải nói cho cậu nghe không?
- Thế, giờ xong rồi! - một đoạn văn bản hiện ra. Đó là một tin báo ngắn, được in cách đây chừng hai tháng.- New York, - Justus đọc:
"Jeff Rodder, được biết đến với cái tên Mặt Chó Sói, đã được thả ra khỏi nhà tù vào ngày hôm qua vì những tiến bộ trong thời gian thụ án. Trước đây một vài năm, Rodder đã dùng những lá thư được viết theo giọng văn cổ tích để tuyên bố trước những tội phạm của gã và gây không ít xôn xao tại thành New York."
Justus kéeo thanh trượt trên màn hình xuống dưới.- Chẳng có gì hơn, - cậu nói.
- Nhưng như vậy có lẽ cũng đủ rồi .
Cậu nghiêng chai uống một ngụm Cola, rồi tìm đến trang của trung tâm thông tin điện thoại California, nhập vào mấy cái tên Jeff Rodder. Nhưng trung tâm không có thông tin về nhân vật nầy.
- Hai tháng, vẫn còn quá mới, - Bob nhận xét, cho dù gã thật sự có điện thoại và sống bằng tên thật ở đây thì trung tâm cũng chưa cập nhật kịp.
- Mình biết, - Justus nói, - nhưng cũng phải thử qua chứ.
- Cậu lại cầm bản sao của bài báo lên tay, đứng dậy và muốn đút nó vào người.
- Cho mình xem lại tấm ảnh, - Thám tử phó yêu cầu.
Justus đưa tờ giấy sang và Peter chăm chú quan sát ấtm ảnh thật kỹ.
- Cằm gã bị sao vậy? - cậu hỏi.
Cả Bob bây giờ cũng cúi mặt sát xuống tờ giấy.
- Trông như một vết sẹo.
Chắc là trong cái nghề đó, đã có lúc gã sa vào một vụ đọ dao.
- Có thể vì thế mà lúc nào gã cũng đeo mặt nạ, - Justus suy diễn.
Peter đưa tờ giấy lại cho cậu.
- Thế bây giờ ta làm gì? - cậu hỏi.
- Giờ thì mình sao một bản cho các cậu, - Justus khô khan nói.
- Cám ơn, Thám tử trưởng. Nhưng thật ra thì mình muốn biết, ta tiếp tục vụ nầy ra sao?
Justus cười.- Đầu tiên ta phải ngủ một trận đã, - cậu đề nghị.
- Muộn rồi.
Sáng ngày mai bọn mình sẽ gặp nhau và cân nhắc mọi chuyện.
- Nhưng mà là sáng sớm nhé, - Bob nói.
- Chiều mai mình phải đến phi trường đón cô em họ.
Peter ngẩng lên.
- Ôi cha! Cô bé Mary ở Seattle phải không? Cái cô nàng nói liền tù tì không cho mép mọc da non? Nếu đúng là cô bé thì làm ơn thông báo là Justus và mình đã đi xa rồi, Tại mình không chịu nỗi trò hành hạ đó.
- Mà ngoài ra, thế nào cô nàng cũng đói xục xạo cửa hàng đồ cũ của chúng ta từ sáng sớm đến tối mịt cho mà xem.
- Justus thêm vào.
- Đứng trước viễn cảnh nàng Mary xứ Seattle, dù người ta có nói dối kiểu nào để né tránh thì cũng dễ cảm thông.
- Chắc không đến nỗi trầm trọng thế đâu, - Bob nói.
- Bây giờ cô bé đã lớn thêm một thêm một tuổi, chắc cũng có bạn trai rồi đấy.
- Được thế thì hay, cô nàng sẽ không còn suốt ngày nhũng nhẵng làm cái đuôi của cậu, Bob! - Peter thông cản đấn nhẹ vào cánh tay cậu bạn.
- Năm trước cô bé bám chặt lấy cậu như một chùm cỏ may. Có vẻ như Seattle chẳng có thằng cha nào dễ ngửi.
- Mary sống ở thị trấn nhỏ gần Seattle, - Bob sửa lại.
- Dù gì thì cũng đều là những miền gần biên giới Canada, - Justus chen vào.
- Khu đấy chỉ có tiều phu thôi.
Bob cười cái vẻ kiêu ngạo miền biển phía tây California đang được Justus biểu diễn phóng đại.
- Tốt hơn cả là cậu tự nói cho cô nàng nghe đi.
- Không, cảm ơn nhiều, - Justus kết thúc cuộc tranh luận.
- Thế nhé, vậy là mai 10 giờ 30? Trước đó mình có việc phải làm.
- Là việc gì vậy, nếu chúng mình được phép hỏi? Việc riêng hay việc chung?
- Peter nhìn cậu đầy tò mò.
- Hừm, - Justus lẩm bẩm và tiễn hai cậu bạn ra cửa, - chuyện nầy đâu có dứt khoác phải loại trừ chuyện kia.
Sáng hôm đó Justus dậy sớm như những ngày đi học. Cậu ở trong phòng tắm khá lâu, thậm chí còn gội đầu nữa. Sau đó Thám tử trưởng chọn quần áo, cẩn thận hơn mọi khi một chút. Tiếp đó đến bữa điểm tâm. Chú Titus lúc nầy đã bắt đầu làm việc trong trung tâm đồ cũ, nhưng chú không quên gập tờ báo buổi sáng và để sẵn trên bàn ăn cho cậu cháu yêu, Justus điểm qua các bài báo. Vẫn chưa có dòng nào về vụ ăn trộm táo tợn ở trạm cảnh sát. Chắc là thanh tra Cotta đã ngăn chưa cho công bố tin ra ngoài.
Sau bữa điển tâm, cậu dọn bát đĩa vào khuôn bếp, khiến cô Mathilda phải ngỡ ngàng.
- Bánh tối hôm qua có ngon không cháu? - cô hỏi.
- Bánh ngon đến mức cháu không ăn đựơc miếng nào. Cả đám người đổ xô vào cái bánh của cô như một đàn châu chấu. Không còn lấy một miếng vụn. -
Cậu nhìn cô, vẻ mặt ngây thơ và trung thực.
- Nhưng mà ít nhất cháu cũng tự hào là mình được ngồi ở chính nguồn.
Hài lòng, bà cô khẻ mỉm cười. Rồi cô hỏi:
- Justus, cháu có thể giúp cô là đồ được không? - Khi nhìn thấy nét mặt của cậu cháu trai, cô thêm vào:
- Hiện thời cháu đang được nghỉ hè, mà cô thì phải đi ngay.
- Cô phải đi ngay ư?
- Đúng, - Mathilda nói như tiện thể.
- Đi tập tạ.
Tập tạ? - Justus ngạc nhiên kêu lên.
- Cháu cứ tưởng là cô đi tập thể hình chứ? Thế chú Titus có nói gì không?
- Ô, e hèm, cô tin là chú ấy còn chưa biết.
- Cha, ông chú sẽ mở mắt tròn lên cho mà xem, - Justus nói, - Nhưng hôm nay không là được cô ạ. Cháu đã định làm một chuyện nầy rồi.
- A, vì cái chuyện định làm mà cháu chuốt đến thế hả.
- Cô đưa mắt nhìn ông cháu từ đầu xuống chân.
- Thật không có gì che được mắt bà cô cú vọ.- Justus rửa cái tách cuối cùng và cô Mathilda ném về phía cậu một chiếc khăn lau còn sạch tinh tươm.
- Đó là truyền thống của gia đình ta đấy, Justus. Cái máu dòng thám tử ấy mà… - cô nháy mắt với cậu.
- Thôi được, - cô nhượng bộ.
- Cứ đi đi.
Justus nhìn cô cười, trong lòng mừng khôn xiết vì cô không hỏi tiếp.
- Chúc cô tập tạ vui vẻ nhé! - cậu nói và treo khăn bát đĩa về chổ.
- Sắp tới có khi cô nhấc bỗng cháu lên cũng nên!
- Luyện mười năm nữa cũng không nhấc nỗi.
Justus đi xuyên qua căn bếp.
- Không biết bây giờ nó định làm cái gì? - cậu nghe tiếng bà cô lẩm bẩm.
- Tốt hơn cả là cũng không nên biết quá kỹ.
- Thám tử trưởng cười thầm, mở cửa và đi ra ngoài.
- Nầy, Justus! - cô Mathilda gọi vóng theo cậu, - thật ra thì cháu đã…
Nhưng Justus lúc đó đã sập cánh cửa lại đằng sau lưng cậu.