Ở một góc tấm thảm bay, lớp tuyết đã bị bợt, có lẽ do nhậy cắn. Phần còn lại của tấm thảm vẫn tốt, còn các tua viền trang điểm cho nó thì hoàn toàn như mới. Vônca còn ngỡ là mình đã trông thấy ở đâu đó một tấm thảm hệt như thế nhưng không tài nào nhớ rõ ở đâu: hoặc ở nhà Giênia, hoặc là ở phòng giáo viên trong trường.
Cuộc xuất phát đã được tiến hành tại vườn hoa, vào lúc hoàn toàn không có một bóng người.
Ông Khốttabít nắm lấy tay Vônca và đặt nó ngồi cạnh mình ở chính giữa tấm thảm. Sau đó, ông rứt ba sợi râu, thổi vào các sợi râu ấy, trợn trừng mắt với vẻ chăm chú và lẩm bẩm một câu gì đó. Tấm thảm bắt đâu rung rung, tất cả 4 góc cùng với các tua lần lượt nâng lên, sau đó rìa tấm thảm uốn cong và cũng tự nâng lên, nhưng phần giữa tấm thảm vẫn nằm yên trên cỏ dưới sức nặng của hai hành khách. Rung rung được một chút, tấm thảm lại nằm bẹp xuống bất động.
Ông già bấn lên, ngượng ngịu:
- Hãy tha lỗi cho ta, hỡi cậu Vônca đáng yêu: đã xảy ra một sự trục trặc. Ta sẽ sửa chữa ngay bây giờ.
Ông Khốttabít suy nghĩ một lát, dùng các ngón tay làm những phép tính phức tạp nào đó. Có lẽ lần này ông đã đi đến một cách giải quyết đúng đắn, bởi vì trông mặt ông rạng rỡ hẳn lên. Ông rứt thêm 6 sợi râu nữa, ngắt đôi 1 sợi ra và quẳng nửa sợi đi như đó là cái nửa thừa, rồi cũng như lần đầu, ông thổi vào những sợi còn lại, trợn trừng mắt và niệm thần chú. Bây giờ tấm thảm thẳng ra, trở nên bằng phẳng và cứng như chỗ đầu cầu thang, rồi lao vút lên cao, mang theo ông Khốttabít tươi cười và cu cậu Vônca đầu óc quay cuồng không hẳn vì khoái chí, không hẳn vì độ cao, cũng không hẳn vì cả 2 cái gộp lại.
Tấm thảm lên cao hơn những ngọn cây cao nhất, cao hơn những tòa nhà cao tầng, cao hơn những ống khói nhà máy cao nhất và bay trên thành phố rực rỡ ánh đèn. Từ bên dưới vọng lên đủ thứ tiếng đã bị khoảng cách làm cho nhỏ bớt: tiếng người nói, tiếng còi xe hơi, tiếng hát của những người chèo thuyền trên sông, những tiếng xa xa của một dàn nhạc kèn…
Bóng tối đã bao trùm thành phố, nhưng ở đây, tít trên cao, vẫn còn thấy mặt trời đỏ rực đang từ từ lặn xuống bên kia chân trời.
- Tuyệt thật... - Vônca trầm ngâm nói - Tuyệt thật! Bây giờ chúng ta đang ở độ cao bao nhiêu hả ông?
- Sáu trăm, bảy trăm lôcớt (1). - Ông Khốttabít đáp, vẫn tiếp tục tính toán bằng các ngón tay.
Trong lúc đó, tấm thảm đã bay đúng hướng, đồng thời tiếp tục bay lên cao. Ông Khốttabít ngồi xếp chân vòng tròn với vẻ oai nghiêm và dùng tay giữ mũ. Vônca thận trọng cong lưng và cố ngồi xếp chân vòng tròn như ông Khốttabít nhưng nó không hề cảm thấy thích thú với cách ngồi ấy. Lúc bấy giờ, sau khi nheo mắt lại để chống đỡ cái cảm giác chóng mặt khó chịu, Vônca bèn ngồi thõng chân ra ngoài tấm thảm. Ngồi như thế thuận tiện hơn, nhưng gió thổi vào chân rất dữ, hai chân bị gió thổi tạt, lúc nào cũng tạo thành góc nhọn đối với thân mình. Thấy rõ ràng cách ngồi này cũng chẳng thoải mái, Vônca bèn ngồi duỗi chân theo chiều dọc của tấm thảm.
Chẳng mấy chốc, Vônca đã thấy rét run. Cu cậu buồn bã nghĩ đến bộ đồng phục của mình: mặc nó bây giờ rất chi là đúng lúc. Nhưng bộ đồng phục đang ở rất xa bên dưới, trong chiếc tủ đứng ở nhà, cách đây hàng trăm kilômét.
Vì không có cách nào tốt hơn, Vônca đành phải làm ấm người theo cách các ông đánh xe ngựa vẫn thường làm xưa kia, trước khi Vônca ra đời rất lâu. Bố Vônca, người vẫn còn nhớ rõ các ông đánh xe ngựa trên đường phố Mátxcơva ngày trước, đã bày cho Vônca cách đó trong một lần đi trượt băng. Vônca bắt đầu vung tay đập mạnh vào hai bả vai và hai bên sườn, nhưng ngay lúc đó, không kịp kêu lên một tiếng, nó đã trượt khỏi tấm thảm, rơi xuống khoảng không sâu thẳm.
Tất nhiên, nếu hai tay Vônca không chộp được chỗ tua viền quanh tấm thảm bay thì ắt hẳn phải kết thúc cuốn truyện này của chúng ta ở cái tai nạn trên không khác thường ấy.
Còn ông Khốttabít lúc đầu thậm chí không nhận thấy chuyện gì đã xảy đến cho cậu bạn trẻ của mình. Ông già ngồi quay lưng về phía Vônca, xếp chân vòng tròn theo thói quen của người phương Đông và mải mê hồi tưởng. Ông cố nhớ lại cách giải phù phép của chính mình.
- Ông Khốttabít! - Vônca ra sức gào lạc cả giọng, nó cảm thấy không thể bám lâu vào tấm thảm bay được - Cháu chết mất, ông Khốttabi.. i.. ít!...
- Ôi, khổ thay cho ta! - Ông già bấn lên khi thấy Vônca đang bay trên khoảng không sâu thẳm - Nhục nhã thay cho những sợi tóc bạc của ta!
Vừa than thở và tự nguyền rủa đủ điều về tính bất cẩn của mình, ông Khốttabít vừa lôi cu cậu Vônca đã đờ người ra vì khiếp đảm lên tấm thảm, đặt nó ngồi cạnh mình, ôm chặt lấy nó và quyết định dứt khoát rằng sẽ không buông nó ra khỏi vòng tay khi cả hai chưa hạ xuống đất.
- Bâ-â-ây... giờ mà co-o-ó đư-ư-ược... thứ quần áo gì âm ấm thì tô-ô-ốt... qu-u-uá! - Vônca nói với giọng ước ao, người run lên cầm cập.
- Xin có ngay, hỡi cậu Vônca may mắn con trai của Aliôsa! - Ông Khốttabít đáp và phủ lên người Vônca chiếc áo khoác không biết từ đâu hiện ra.
Trời tối hẳn. Bây giờ ở trên tấm thảm bay rất bất tiện, cho nên Vônca đã xin ông Khốttabít bay cao lên chừng năm trăm lôcớt (2) nữa.
- Bấy giờ, chúng ta lại thấy mặt trời!
Ông Khốttabít hết sức nghi ngờ, không biết có thể thấy được mặt trời vào trước sáng mai không, nhưng ông không muốn cãi với Vônca.
Các bạn có thể hình dung được ông đã ngạc nhiên ra sao và uy tín của Vônca trước mắt ông đã tăng lên biết chừng nào khi bay cao lên rồi, hai ông cháu quả là lại trông thấy mặt trời. Như không có gì xảy ra cả, mặt trời lại vừa mới chạm cái mép đỏ rực của mình vào đường chân trời màu đen xa lắc.
- Hỡi cậu Vônca, nếu ta không chiều theo tính khiêm tốn của cậu mà trót hứa với cậu, thì không có gì có thể ngăn cản ta gọi cậu là một người ngố vĩ đại nhất đời! - Ông già nói với giọng khâm phục, nhưng khi thấy mặt Vônca lộ vẻ khó chịu, ông liền nói nhanh - nhưng nếu cậu không vừa ý, ta chỉ dám bày tỏ sự ngạc nhiên trước cái đầu óc chính chắn của cậu mà thôi. Nếu ta đã hứa không gọi cậu là ngố nữa thì ta sẽ không gọi đâu.
- Và ông cũng đừng gọi một người nào khác bằng cái tiếng đó.
- Được rồi hỡi cậu Vônca! - Ông Khốttabít ngoan ngoãn đồng ý.
- Ông thề chứ?
- Ta xin thề!
Lướt qua ở tít bên dưới Vônca và ông Khốttabít là những khu rừng và những cánh đồng, những con sông và những cái hồ, những làng mạc và những thành phố lấp lánh ánh điện. Một biển mây trắng xóa với những đường viền tròn dày đặc xuất hiện, sẫm lại rồi biến mất trong bóng tối ở phía dưới hai người. Còn tấm thảm thì vẫn bay và bay mỗi lúc một xa về phía Đông Nam, mỗi lúc một gần cái xứ sở chưa từng được biết đến, nơi có lẽ chú bé nô lệ Giênia Bôgôrát đang phải chịu đau khổ trong tay bọn buôn nô lệ độc ác và tàn bạo.
- Cậu Gienca tội nghiệp chắc là bây giờ đang bị đày đọa trong cảnh làm lụng kiệt sức! - Vônca nói với vẻ cay đắng sau một hồi lâu im lặng.
Đáp lại, ông Khốttabít chỉ ậm ừ một cách biết lỗi.
- Một thân một mình ở nơi đất khách quê người…, - Vônca buồn bã nói tiếp - chẳng có bạn bè và những người thân thích... Cậu bạn tội nghiệp chắc là đang rên rỉ...
Ông Khốttabít lại lặng im.
Nếu như các nhà phi hành của chúng ta có thể nghe được những gì đang diễn ra ở phương Đông, cách họ hàng nghìn kilômét.
Cách họ hàng nghìn kilômét, đúng lúc ấy Giênia quả là đang rên rỉ.
- Ối, tôi không thể... – Giênia rên rỉ - Ối, đủ rồi!...
Để kể rõ Giênia đã thốt lên những tiếng đáng thông cảm ấy trong hoàn cảnh nào, chúng ta phải tạm thời chia tay các nhà du hành của chúng ta và kể lại những gì đã xảy ra trong 2 ngày đêm ấy với Épghêni Bôgôrát (3), tổ trưởng tổ 3, lớp 6B, từ hôm qua đã là lớp 7B trường trung học số 124 ở Mátxcơva.
---
(1) Đơn vị đo lường cổ, mỗi lôcớt bằng khoảng 0,5 mét – N.D.
(2) tức khoảng 250 mét – N.D.
(3) Họ và tên đầy đủ của Giênia – N.D.