Học kĩ nghề của bạn đi thì bạn sẽ có kiến thức. Có tài trí và sống đạm bạc thì bạn sẽ giàu. Biết điều độ và thiết thực thì bạn sẽ mạnh khoẻ. Thường có đạo đức thì bạn sẽ sung sướng. Sống như vậy, bạn sẽ có nhiều hi vọng nhất để đạt được mục đích của bạn.
Benjamin Franklin
Sau khi suy nghĩ và vì đã có nhiều kinh nghiệm trong những việc liên quan tới tiền bạc, nên tôi quyết định viết thêm chương này nữa mà từ hình thức tới nội dung đều hơi khác những chương trên. Hầu hết là những tư tưởng của một người già, nhưng tôi mong rằng tuổi thanh niên và trung niên đọc cũng có lợi.
Kiếm được nhiều tiền là giấc mộng của nhiều người. ý muốn đó rất tự nhiên, cũng như ý muốn ăn hay muốn tiêu khiển.
Chúng ta không nên làm nản lòng những người có ý muốn thành công chính đáng đó. Trái lại nên giúp đỡ tham vọng đó mới phải.
Cuốn giáo lí đại cương của Giáo đường Ecosse khuyên ta nên khuyến khích “cái ý muốn chính đáng kiếm tiền và sinh lợi ở trong lòng chúng ta và người khác”. Cũng cuốn giáo lí đó cấm ta “không được làm cái gì ngăn cản một cách bất công sự gia tăng của cải của ta hoặc của người khác”. Nói cách khác là muốn làm trọn bổn phận công dân chúng ta phải là những y sĩ giỏi, kĩ sư giỏi, luật sư giỏi, và những người kiếm tiền giỏi, nếu chúng ta thích ngành kinh doanh.
Vài vị giáo trưởng tuyên bố rằng nếu chỉ nghĩ tới tư lợi của mình thôi thì sẽ phải chịu một cảnh cô độc ghê gớm. Chính những vị đó còn chỉ trích chủ nghĩa cá nhân, tuyên truyền cho một nền kinh tế kế hoạch hóa và bênh vực một sự bình đẳng với ý nghĩa là mọi người đều nghèo khổ như nhau.
Trong cuốn sách mỏng này tôi không có tham vọng chứng minh rằng kiếm tiền là hình thức cao đẹp nhất của phẩm hạnh con người, nhưng tôi đã ráng chỉ cho bạn thấy rằng kiếm tiền là một mục đích đáng cho ta lựa chọn.
Nếu ta gây dựng được một tài sản lớn lao thì ta có thể giúp ích được cho người khác, miễn ta có đủ khả năng, và như vậy chỉ có lợi về vật chất và tinh thần cho ta thôi.
Một người có ích cho quốc gia, hi sinh cho cái lợi của xã hội, đáng được khen ngợi, đó là một điều tự nhiên và công bằng.Vì ngoài cái vui thấy lương tâm mình được thỏa mãn, người đó chỉ còn được nhận cái phần thưởng đó của quốc dân thôi.
Hiển nhiên rằng dám đảm đương trách nhiệm trong thương mại và kĩ nghệ mới có thể gánh vác việc nước được. Vì vậy mà tất cả những luật thuế khóa trên thế giới đều nhắm vào những phần tử kiếm được tiền, giàu cũng như nghèo. Nghèo cũng phải chịu những sắc thuế trực thu và gián thu.
Vả lại khi người ta bắt đầu kiếm được tiền, đạt được những mục tiêu, người ta đã nhắm thì người ta thấy thỏa mãn, được hưởng cái vui leo lên một bực thang cao hơn, thành một nhân vật quan trọng ít nhiều trong xã hội.
Còn như nếu không thành công, mặc dầu là lỗi tại mình, thì ít nhất người ta cũng được lợi về phương diện tinh thần vì đã chịu khó tập trung tư tưởng, quyết định rồi hành động.
Tôi biết rõ rằng thời nay người ta hay chỉ trích hạng giàu có. Chỉ vì hạng đó chịu một mình gánh cái nguy hiểm điều khiển một xí nghiệp lớn hoặc một công vụ rất quan trọng mà người ta không coi là ân nhân của xã hội nữa. Nhưng tôi cho rằng từ hồi loài người có tin sử tới nay, hạng người đó thời nào cũng bị chỉ trích và xuyên tạc.
Người ta có thể tha hồ chỉ trích các ông vua kinh doanh: Ford, Andrew Carnegie, JohnD. Rockefeller1. Và người ta đã nói nhiều về họ rồi. Nhưng sự chỉ trích không được công bằng: hoặc là do không biết rõ ba ông đó, hoặc là do ghen ghét, có khi chỉ do lòng thù hận sự giàu có và thế lực.
Riêng tôi, tôi ngưỡng mộ ba nhân vật quan trọng nhất của lịch sử kĩ nghệ Mỹ đó và tôi cho rằng họ có công lớn vì đã giúp nước họ có một sức mạnh đủ để đương đầu với nghịch cảnh khi quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng.
* * *
Nhưng người ta sẽ hỏi tôi, thời này thanh niên còn có thể noi gương Ford hoặc Carnegie được không?
“Những nhà đại tư bản đó đã làm giàu vào cái thời mà còn có những biên giới mới để vượt, những đất đai để khai phá. Bây giờ nơi nào người ta cũng đã tới lập nghiệp, khai phá hết rồi. Mà thuế má thì cao, làm sao có thể làm giàu như hồi xưa được nữa?”.
Những lời đó là những lời thất vọng. Sự thật khác hẳn. Vẫn còn nhiều biên giới chưa ai vượt, vẫn còn nhiều lĩnh vực mới chưa khai phá.
Huân tước Birkenhead diễn thuyết ở trường Đại học Glasgow, tuyên bố: “Thế giới luôn luôn tặng nhiều cơ hội thành công rực rỡ cho những người gan dạ có đường gươm tuyệt xảo”.
Những nhà luân lí ít kinh nghiệm mà lại tự cao tự đại có thể viện ra nhiều lí lẽ để chỉ trích quan niệm duy vật đó. Nhưng không thiếu gì người khen quan niệm đó, mà khen là phải.
Ta thử xét sự biến đổi trong các điều kiện sinh hoạt, những cuộc cách mạng mà tôi cho là kinh động nhất từ một thế kỉ nay, một thế kỉ đầy biến chuyển và tiến bộ.
Tìm cách dùng năng lượng của mặt trời, năng lượng của thủy triều và gió; đó là cả một lĩnh vực mở rộng cho các thanh niên có tinh thần chinh phục thiên nhiên và thế giới của thế hệ chúng ta và có lẽ cả những thế hệ sau nữa. Những cái pin chạy bằng sức nóng mặt trời sẽ được dùng trong các nhà máy điện. Rồi ngành điện tử, ngành động cơ và rất nhiều ngành khác đương phát triển, tôi không sao kể tỉ mỉ hết được, vẫn đợi các thanh niên gan dạ đấy.
Khi một người đã hoàn thành một phát minh rồi thì phải dự bị để tiến trên con đường hi sinh mà các nhà phát minh trước họ đã trải qua. Trước hết phải sẵn sàng để làm việc gắt gao. Kipling bảo: “Phải làm việc một cách vui vẻ nhưng phải làm việc không ngừng”.
Lời khuyên đó có giá trị, nhưng đừng quá theo đúng những tiếng “một cách vui vẻ”.
Làm việc là một thói quen cũng như hút thuốc, và ta dễ dàng luyện được tập quán tốt đó.
Tôi nghĩ cần nhắc lại rằng sức khỏe là điều kiện cần thiết và chỉ tuỳ thuộc ở ta thôi. Cũng có những lệ ngoại nhưng hiếm lắm.
Xét quanh ta, khi mới sinh ra, ai cũng mạnh khoẻ và lớn lên, ai cũng có thể giữ gìn sức khoẻ được nếu biết điều độ. Phải tập thể dục, phải vận động; như vậy không nhất định là bạn phải chơi những trò thể thao, nhưng ít nhất trong đời sống hằng ngày cũng phải vận động các bắp thịt.
Sức khoẻ trước hết là một tâm trạng. Chân lí căn bản của phái Christian Science, tức chân lí: giữ sức khoẻ bằng đức tin, có phần đúng đấy.
Những phép màu ở Lourdes là do đức tin chớ không phải là một hiện tượng cộng đồng ảo giác đâu.
Sau cùng tôi phải nói về giá trị căn bản của óc phán đoán, mà ta có thể luyện tập được. Muốn phán đoán ít nhất ta phải căn cứ một phần vào sự thực. óc phán đoán như một dấu hiệu ở phi trường mà phi công phải bắt bằng vô tuyến điện dù gặp mưa, bão hay tuyết. Phải tập tành lâu và tập trung tư tưởng mới có được óc phán đoán.
Chỉ nhờ thử nghiệm và loại dần những lầm lẫn đi mà ta đạt được hiệu quả.
Chắc có nhiều bạn trẻ nghe tôi nhắc hoài những lời khuyên phải giữ sức khỏe, phải cặm cụi làm việc, thấy chán tai và bực mình hỏi tôi: “Thế thì phải làm gì để thực hiện được những việc lớn?”
Có một việc mà ai cũng có thể làm được là tìm hiểu đời sống những người đồng thời với mình. Ta nên suy nghĩ về cách thức hành động của những người đã mở đường ở chung quanh ta.
Những gương sáng mà tôi sẽ kể dưới đây là do kinh nghiệm và những cuộc tiếp xúc của tôi, hết thảy đều rút trong đời sống, chứ không phải trong sách vở.
Tôi đã nói về những danh nhân như Carnegie, Rockefeller, Ford. Bây giờ tôi muốn kể tên hai người, một người rất thân với tôi, một người nữa tôi được biết khá nhiều. Và tôi có thể nói thẳng rằng hai người đó đã đóng một vai trò quyết định trong đời làm ăn của tôi.
Trước hết là ông Arthur Vining Davis, một người mà tôi đã được tiếp xúc hai lần để thương lượng về công việc kinh doanh.
Hiện nay ông Davis đã tám mươi tám tuổi và vẫn còn giữ chức Tổng Giám đốc Công ty Nhôm của Mỹ: mới đầu công ty rất nhỏ, và ông đã gắng sức suốt đời để phát triển nó thành công ty vĩ đại.
Đành rằng ông gây dựng được sự nghiệp nhờ sản xuất nhôm, nhưng ông cũng đã thành công trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Ông hùn vốn trong ngành canh nông, trồng hoa, sản xuất sữa... Tôi không biết rõ ông đã bỏ vốn vào bao nhiêu hãng nhưng tôi biết rõ rằng tám mươi tám tuổi mà ông còn kiểm soát một ngân hàng. Ông có một công ty ở quần đảo Bahamas (cách bán đảo Florida độ ngàn cây số).
Ông có nhiều đức tốt, nhưng đức lớn nhất là làm việc không nghỉ; không rút ra khỏi một công việc kinh doanh nào cả, không bỏ dở bao giờ, mà càng già hoạt động của ông càng mở rộng ra. Chính sách của ông là không bao giờ thu hẹp công việc lại, cứ khuếch trương mãi.
Lần đầu tiên tôi gặp ông cách đây khoảng năm chục năm, hồi đó ông là một thanh niên mới ba mươi tám tuổi. Mà tôi cũng còn trẻ, làm Chủ tịch Công ty Montreal Trust Company. Khi thành lập xí nghiệp nhôm trên sông Saguenay ở Canađa, ông yêu cầu công ti tôi giúp đỡ về phương diện đất đai và thủy điện.
Từ đó tôi thường gặp lại ông; và năm 1931 giữa thời kinh tế khủng hoảng, tôi thuyết phục ông hùn vốn mua một xí nghiệp sản xuất giấy báo. Bốn chúng tôi cùng bỏ vốn, trong số đó có Ngân hàng Hoàng gia Canađa.
Gặp ông từ hồi ông mới bắt đầu thành công, tôi đã có lòng quý tinh thần của ông mà truyền thống kinh doanh ở Mỹ đã tạo nên; và tôi cảm thấy rằng con người dễ thương đó sau này thế nào cũng nổi danh trong giới kĩ nghệ.
Nhưng lúc đó tôi không ngờ rằng sau này khu các hoạt động của ông lại mênh mông và đa dạng như vậy. Mặc dầu những hoạt động đó chứng tỏ rằng câu tục ngữ này đúng; “Đừng đặt chung tất cả số trứng của mình vào một cái rổ”; tôi do kinh nghiệm bản thân cho rằng trái lại nên: “Cứ đặt hết số trứng của mình vào chung một cái rổ - rồi coi chừng kĩ cái rổ” như Mark Twain đã nói.
Những người muốn thành công cũng có thể rút được một bài học hay khi nghiên cứu đời sống của Tòng Nam tước James Dunn. Ông sinh tại châu thành nhỏ Bathurst, trên sông Nipisiguit ở phía bắc Tân Brunswick, mất hồi tám mươi hai tuổi.
Mẫu thân ông, góa bụa, cho ông theo học luật tại một trường đại học danh tiếng. Kiến thức của ông không rộng lắm, vì hồi trẻ ông không được học ban cổ điển; ông chỉ được học ba năm ở trường luật, nghỉ hè lại phải làm việc để sinh nhai.
Vậy ông bắt đầu vào đời, trong tay chỉ có mỗi bằng cấp luật học. Ông đầy đủ sức khoẻ, có một sức làm việc dị thường và phát triển óc phán đoán của ông trong khi nghiên cứu các hoạt động, biến chuyển của các thị trường chứng khoán.
Tôi không muốn chép lại đầy đủ tiểu sử ông, chỉ ráng trình bày bí quyết trong đời ông thôi.
Ông hiểu rằng phải tạo lập một nền kĩ nghệ luyện kim ở miền Tây Canađa, và ông cảm thấy muốn vậy phải cần nhiều nguyên liệu kể cả than và quặng sắt. Và đây là điều ta có thể học được ở ông. Ông gặp nhiều trở ngại lớn lao, những nỗi lo lắng, bực mình vô tận, những khó khăn tưởng như không vượt nổi sự thờ ơ của các ngân hàng vì họ không hiểu nổi công việc của ông quan trọng đối với sự thịnh vượng của quốc gia như thế nào. Ông kiên nhẫn chịu đựng và không từ bỏ con đường mà ông đã tự vạch cho mình.
Can đảm, đã tin điều gì thì hiến thân suốt đời cho điều đó các bạn trẻ tìm hiểu đời ông nên chú ý và suy ngẫm về điểm ấy - và rốt cuộc ông thắng được mọi trở ngại, dựng được những lò đúc thép mà gần như là một mình ông điều khiển lấy, trường hợp đó có lẽ là độc nhất trên thế giới.
Tới khi ông quá cái tuổi chỉ huy lấy mọi việc rồi, ông vẫn thích đảm đương trách nhiệm.
Ngày ông làm lễ sinh nhật lần thứ bảy mươi mốt là ngày ông xông vào một ngành hoạt động mới: ngành xây dựng. Suýt nữa thì việc thất bại vì bệnh đau nhói ở ngực làm cho ông nằm liệt giường, hấp hối trong nhiều tuần lễ. Nhưng một người như ông đâu có chịu vì vậy mà rút lui về dưỡng già.
* * *
Tất nhiên ông James Dunn lạc quan và rất tin ở mình. Sức hoạt động của ông mạnh mẽ là nhờ ông can đảm và tự tin. Vì vậy mà ông đóng một vai trò tích cực trong sự trị bệnh của ông.
Ông đòi kiếm một cố vấn về y khoa có tài và ông để ý nhận xét mọi chi tiết trong sự phục hồi sức khỏe của ông.
Ông muốn rằng viên y sĩ và ông cùng tìm phương hướng, ý kiến của ông và của y sĩ phải được coi trọng ngang nhau, chứ không chịu giữ thái độ tiêu cực, để mặc y sĩ quyết đoán.
Ông không khi nào chịu để các y sĩ bảo sao nghe vậy; các bệnh nhân giàu có thường có thói quá tin ở các nhà chuyên môn, thành thử có hại cho cả hai bên.
Ông bảo trời sinh ra ông để sống trăm tuổi và ông dùng lòng tin và gia sản của ông để thực hiện câu châm ngôn cổ này: “Cứ hành động như thể mình sẽ sống hoài, đừng bao giờ nghĩ mình phải chết cả”.
Đời của ông James Dunn là bằng chứng mạnh nhất để bác bỏ ý kiến của những kẻ cho rằng tinh thần kinh doanh là tinh thần riêng của bọn trẻ. Vì tới tuổi già ông còn thực hiện được phần lớn lao nhất trong sự nghiệp của ông.
Sau ngày lễ sinh nhật lần thứ bảy mươi mốt đó, ông dựng lên nhiều công trình hơn tất cả thời trước của ông.
Chẳng những ông kiếm được nhiều tiền mà còn biết hưởng nó; đời ông thực có ích cho quốc gia.
* * *
Tôi biết rõ giới chính khách Anh, cả giới chính khách Mỹ và Canađa nữa. Nhưng chỉ ở Anh người ta mới thấy những tấm gương nổi bật nhất, lí thú nhất trong giới đại doanh nghiệp, thấy những người hễ làm ăn là thành công và đem tất cả thì giờ để mưu việc công ích.
Sở dĩ ở Anh có nhiều nhà kinh doanh giúp việc nước trong chính quyền, nguyên do chính có lẽ tại xứ đó những người giàu có dễ được tham gia các cơ cấu chính trị.
Thánh Kinh bảo ta rằng một người giàu có lên Thiên đường cũng khó như một con lạc đà chui qua một lỗ kim. Đoạn đó đã được nhiều người giải thích, mỗi người theo một cách, nhưng đa số đều chống lại sự làm giàu. Tôi thì từ trước tới nay vẫn giải thích nó theo cách mà tôi cho là rộng rãi. Một phú ông hay một tên lang thang, vô gia cư, một chú thợ thiếc, một thợ may đều có thể vào Quốc hội một cách dễ dàng như nhau.
Chẳng hạn trường hợp Huân tước Halifax, đại sứ Anh ở Mỹ trong thế chiến vừa rồi. Đành rằng ông được hưởng gia tài của tổ tiên, nhưng ông đã biết lợi dụng các cơ hội tốt. Ông ngồi ở Quốc hội khá lâu rồi làm Phó vương ấn Độ, rồi trở về chính trường, làm Bộ trưởng Ngoại giao trong nhiều năm. Ông có thể sống an nhàn, không lo lắng gì cả, vậy mà ông vẫn quyết tâm lo tính việc nước.
Có nhiều nhà kinh doanh muốn được tham gia chính quyền để giúp nước, nhưng ít người có cơ hội. Dù không có cơ hội thì nhà doanh nghiệp cũng phải thiết tha lưu tâm tới bộ máy chính quyền. Đó là bổn phận của họ.
Một nhà doanh nghiệp muốn thành công về chính trị phải học nghệ thuật thuyết phục, vì nghệ thuật đó là lá bài quan trọng nhất của chính khách trong một chính thể dân chủ. Luôn luôn người đó phải nhớ rằng: trong chính thể hoàn hảo nhất đó, giải pháp dung hòa lúc nào cũng có thể thực hiện được. Người đó phải tìm cách cải thiện những nhược điểm trong bộ máy chính quyền.
Người đó phải suy ngẫm về cuộc đời chính trị của Franklin Roosevelt, một vị tổng thống có một chính sách sáng suốt mà vẫn giữ được sự tán thành của mọi người. Ông biết làm cho các cuộc tranh luận về nguyên tắc dịu bớt đi để cho ý kiến của chính quyền được phần ưu thắng.
Đời Roosevelt sẽ là đề tài cho cả ngàn cuốn sách, hiện nhiều cuốn đã in rồi và nhiều cuốn khác đương soạn. Tôi muốn góp một phần khiêm tốn vào việc soạn tiểu sử của ông.
Việc xảy ra tháng Năm năm 1943 ở Shangrila, nơi nghỉ mát của Tổng thống ở giữa rừng trên đồi Maryland, một nơi hẻo lánh rất xa các đường quốc lộ và những nơi đông đúc thị dân. Ngôi nhà rất giản dị, cất theo kiểu boonggalô, có một phòng tiếp khách rộng trưng bày sơ sài và một phòng tắm nhỏ, lạnh lẽo, cửa không có chốt, cho khách khứa.
Phía trước là một cái cổng xây theo kiểu mà người ta thấy ở Tân Brunswick, quê hương của tôi. Roosevelt ngồi ở một góc trong ngôi nhà giản dị đó, giữa hai cửa sổ, một cái ở bên trái một cái ở bên phải, trong căn phòng sáng sủa và gió lộng. Vì ông có tật, nên ông bám chặt vào chiếc ghế dựa của ông.
Churchill nắm được một cơ hội, yêu cầu ông gửi thêm quân đội và quân nhu qua mặt trận châu Âu. Thực khó nghĩ cho Roosevelt. Mỗi lần Churchill yêu cầu như vậy, Tổng thống đều trả lời rằng phải để cho ông một thời gian rồi mới quyết định rằng phải để cho được vì ông còn phải hỏi ý kiến các nhân viên trong Bộ Tổng tham mưu Hoa Kỳ đã.
Ông không ngớt tìm cách lảng qua chuyện khác, bàn về những vấn đề quan trọng hay không quan trọng, nhưng Churchill cũng không vừa, luôn luôn trở lại chuyện xin thêm quân đội và quân nhu. Sau cùng, để tự vệ, Tổng thống lấy tập tem của ông ra làm bộ coi. Churchill hỏi ý kiến của ông về vài đề nghị, tổng thống không đáp mà nói chuyện tem.
Sau cùng, Churchill thất vọng lại ngồi trong một góc tối ở phòng bên.
Tổng thống thấy nhẹ hẳn người, đặt cuốn album tem xuống và nói chuyện vui vẻ thân mật về mọi vấn đề.
Ông kể lại thời kì ông ở Luân Đôn, nói về chiến tranh 1914- 1918, về viên chủ bút quá cố Edward Bok của tờ báo phụ nữ Ladies s Home journal, về những dự định của ông khi về hưu. Ông muốn làm Viện trưởng một viện đại học. Ông cũng có thể làm vua quần đảo Acores vì dân Bồ Đào Nha ở đó muốn dâng ngai vàng cho ông. Ông kể tất cả những chuyện đó bằng một giọng rất hóm hỉnh.
Ông chuyện trò vui vẻ, bặt thiệp, và ông rất siêng năng lo việc nước. Không khi nào ông trốn tránh trách nhiệm và ông có nhiều ý mới lạ khi đưa ra các giải pháp.
Đời ông Roosevelt không có vẻ truyền thuyết như kiểu: một chú bán báo mà leo lên được ghế tổng thống. Ông sinh ra trong nhung lụa để sống trong cảnh phú quý.
Chắc chắn rằng một phần những sự chống đối ông đã gặp, một phần những nỗi oán hận ông đã gây ra do lẽ người ta không coi ông là một chính khách có tinh thần dân chủ mà cho rằng ông mị dân. Nếu vị Tổng thống thứ ba mươi hai của Hoa Kỳ đó sinh trong một cái chòi của hạng bẫy thú ở Bắc Mỹ thì người ta đã không chỉ trích ông nhiều như vậy đâu.
Chuyện một vị Tổng thống khác cho tôi hiểu tình đời hơn. Tôi không thấy thí dụ nào thích hợp hơn là trường hợp Andrew Jackson, một vị trong số cả chục vị Tổng thống Hoa Kỳ hồi nhỏ bần hàn.
Một hôm ông ngỏ lời trong một cuộc họp quan trọng ở Washington, ông kể lại đời chính trị của ông trong công việc lập pháp. Trong đám đông có tiếng la lên: “Từ tên phó may lên ghế tổng thống!”
Ông bình tĩnh đáp lại:
“Có vài người chê tôi trước đã làm thợ may. Điều đó đâu có làm cho tôi xấu hổ vì khi tôi làm thợ may, tôi nổi tiếng là một thợ may giỏi, bán những y phục cắt khéo; tôi không khi nào sai hẹn với khách hàng và luôn luôn làm vừa lòng họ”.
Các nhà kinh doanh trong lớn xí nghiệp hiểu rõ bổn phận của mỗi người đối với đồng bào, hiểu rõ trách nhiệm của cá nhân đối với đoàn thể. Trong giới thương mại và kĩ nghệ, phải có những người cương quyết làm cho các chính khách có một ý thức cao đẹp về nhiệm vụ giúp nước, phải có những người đòi cho được một nền hành chính liêm khiết và mạnh mẽ, phải có những người biết che chở, ủng hộ tất cả những dân biểu nào trong Quốc hội có những dự thảo và những hành động sáng suốt, hữu ích, và làm cho luật pháp được dân chúng thừa nhận.
Tôi đã làm trung gian giữa các nhà doanh nghiệp lớn và các chính khách, các nhà cầm quyền, đã tiếp xúc rất thường xuyên với cả hai giới đó.
Bây giờ tôi muốn kể chuyện một nhà doanh nghiệp kiêm bác học nổi danh, Huân tước Avebury. Ông là một giám đốc ngân hàng, một chính khách, một nhà vạn vật học.
Làm Viện trưởng viện Đại học Saint André, ở Ecosse, làm một dân biểu hoạt động ở Quốc hội, ông vừa nhiệt tình quan tâm tới việc nước, vừa say mê nghiên cứu khoa học tự nhiên. Ông đã viết nhiều cuốn về thiên nhiên: về các loài ong, về hoa lá, tuy văn không chính xác lắm nhưng dễ đọc và bổ ích.
Cuốn: Lạc thú ở đời của ông là thủy tổ các cuốn hiện nay rất nổi danh như cuốn Đắc nhân tâm của Dale Garnegie, cuốn The power of positive living của Douglas Luton. Cuốn đó ở Mỹ không ai biết tới mà ở Anh cũng ít người đọc. Nó đáng được hoan nghênh hơn. Nhiều tác giả viết về bí quyết thành công trong đời và trong công việc kinh doanh đã trích dẫn rất nhiều đoạn trong cuốn đó. Có thể tin rằng Huân tước Avebury đã gợi hứng cho nhiều tác giả viết về những vấn đề ông bàn và được hoan nghênh hơn ông.
Một thông điệp nữa được nhiều tác giả hiện nay còn nhắc tới là thông điệp của Samuel Smile trong cuốn Tự mình giúp mình xuất bản ở Luân Đôn cách đây một thế kỷ.
Cũng nên kể thêm vài bài thơ của Josephs Addisson có tính chất kích thích, khuyến khích những thanh niên siêng năng và có cao vọng. Những bạn nào muốn chuẩn bị cho cuộc hành trình lớn lao là đời sống có thể tìm trong tác phẩm của ông nhiều điều bổ ích.
Nói tới Addisson, tôi nhớ những câu thơ của ông về mặt trăng:
Đêm đêm, nàng kể chuyện nguồn gốc
Của mình cho trái đất lẳng lặng nghe. Câu chuyện thú vị quá, tôi không thể không cắt ngang những suy tư nghiêm trang của tôi về việc giúp nước để kể lại hầu độc giả. Chủ động trong chuyện là ông Harcourt, vị bộ trưởng danh tiếng của Đảng Tự do trong Nội các Galadstone. Một dân biểu tên là Knightly đi đâu cũng khoe tổ tiên mình là những người Normand tới Anh với Guillaume, nhà chinh phục. Luôn luôn ông ta nhắc tới dòng dõi quý phái của mình trong các phòng khách, ngay cả trong hành lang Quốc hội nữa. Một hôm ông ta công kích Harcourt trong một cuộc thảo luận mà cũng đề cập tới huyết thống cao quý của mình.
Harcourt mượn hai câu thơ trên, sửa một chữ mà đáp lại:
Knightly kể chuyện nguồn gốc
Của mình cho trái đất lẳng lặng nghe
Thế là đủ cho Knightly mắc cỡ mà hết khoe khoang.
Tôi không muốn dẫn hai câu thơ đó của Addisson để kết thúc cuốn sách nhỏ này, mà muốn mượn những câu dưới đây trong bài
Chiến tranh.
Lòng can đảm bất khuất
và tình thương người vô biên,
Điều tiết lẫn nhau trong tinh thần kẻ thắng,
Lúc thì nhân từ, lúc thì uy nghiêm,
Nhờ vậy mà tình nhân đạo
và lòng anh hùng bổ túc lẫn nhau. Hết