Việc học đọc là tuyệt đối chẳng để làm gì, một khi mùi thịt đã bốc xa đến hàng dặm như thế này. Thêm vào đó, nếu như các người sống ở Moskva và trong sọ dừa các người có ít nhiều nếp não, thì muốn hay không muốn trước sau các người cũng biết chữ, mà lại chẳng cần trường với lớp nào hết. Trong số bốn chục nghìn con chó ở Moskva này hoạ chăng chỉ có một đứa nào thậm ngu chí dốt thì mới không biết xếp các chữ cái lại thành từ "Hàng giò chả" mà thôi.
Sarik bắt đầu việc học chữ của mình là theo các mầu. Khi nó vừa đầy bốn tháng tuổi, khắp Moskva treo đầy những tấm biển mầu xanh lơ với hàng chữ: LCTM
- Liên hiệp các công ty buôn bán thịt Moskva. Xin nhắc lại rằng tất cả những cái đó chẳng để làm gì, vì không có nó thì ngửi mùi cũng biết là thịt rồi. Nhưng một lần đã xảy ra sự nhầm lẫn: định hướng theo cái mầu xanh lơ khốn khổ đó,nhưng vì khứu giác của nó bị chiếc máy nổ phụt khói xăng làm tịt đặc, nên thay vì hàng thịt Sarik lại chạy vào cửa hàng đồ điện của anh em Golubizner trên phố Hàng Thịt. ở đó chó được nếm một chập dây điện, mà cái này phải nói là còn đằm hơn roi ngựa xà ích nhiều. Có thể coi thời điểm đáng nhớ ấy là cái mốc khởi đầu quá trình tự đào tạo của Sarik. Ngay lúc đó, khi đã đứng ở ngoài hè phố, Sarik liền hiểu ra rằng "mầu xanh lơ" không phải bao giờ cũng có nghĩa là " Hàng thịt"; rồi vừa ép chặt cái đuôi rát bỏng vì vết roi vào giữa hai cẳng sau và tru lên ư ử, nó vừa nhớ lại rằng trên tất cả các tấm biển ở cửa hàng thịt, ở phía đầu bên trái bao giờ cũng là một hình hai chân mầu vàng hoặc mầu hung đỏ trông giốngnhư cỗ xe trượt tuyết(*).
Tiếp đó việc học diễn ra càng kết quả hơn. Chữ A nó học được ở"Tổng công ty cá"
trên góc phố Mokhova, rồi liền đó là "C", - nó học ngượctừ cuối chữ "Cá" trở lên tiện hơn, vì đứng lù lù ngay đầu hàng chữ là một ông công an dang hai cánh tay thẳng đuột.
Những khối vuông gạch tráng men ốp ở các chỗ góc phố Moskva bao giờ cũng có nghĩa là "Phómát". Cái hình đứng ưỡn ngực ở đầu từ có nghĩa là ông chủ quán cũ Chiskin, là những đống rượu vang đỏ Hà Lan, là những tay quản lý thú dữ rất căm ghét chó, là mạt cưa trên sàn và mùi phó mát Bakstein khăm khẳm tởm lợm.
Nếu như ở đâu chơi đàn gió, - cái đó còn ít nhiều khá hơn "Ôi Ai đa yêu dấu” - và bốc mùi xúc xích, thì những chữ cái đầu tiên trên tấm biểu ngữ trắng sẽ đặc biệt dễ dàng xếp thành những từ "Không nó... ", có nghĩa là "Không nói tục chửi bậy và không cho tiền boa". ở đây thường nổ ra những trận ẩu đả, có người bị đánh vào mõm, tuy thực ra mà nói cũng không phải là nhiều lắm, chỉ có chó là bị quật thường xuyên thôi - bằng khăn trải bàn hoặc bằng ủng.
Còn nếu như trên cửa sổ treo những súc giăm bông ôi và bày la liệt những quả quít, thì đó... gâu- gâu-... thì đó là "Cửa hàng thực phẩm". Còn nếu như trên quầy bày những chai thẫm mầu với chất lỏng tồi tệ , là... là... "Rờ-ư-rư-ơ-ơu rượu ... Trước kia là cửa hàngcủa anh em nhà Eliseev.
Quý ngài lạ mặt dẫn chó đến bên cửa căn hộ sang trọng của mình trên tầng hai, bấm chuông; chó lập tức ngước mắt lên nhìn tấm biển lớn mầu đen với những chữ cái vàng choé treo bên cạnh cánh cửa rộng bản lắp kính hồng gợn sóng. Ba chữ cái đầu nó đọc đượcngay: "Pê-rờ-o - Pro". Nhưng tiếp đó là một hình của nợ có hai thanh ngang, chẳng hiểu có nghĩa gì". Chẳng lẽ là "vô sản?" (*)
-Sarik ngạc nhiên nghĩ. - "Điều đó là không thể được". Nó hếch mũi lên, ngửi chiết áo lông khoác ngoài một lần nữa, rồi nhủ thầm chắc chắn: "Không, ở đây không có mùi vô sản. Hẳn đây là một từ bác học nào đấy có trời mới biết nó nghĩa là gì".
Ánh điện rực rỡ bỗng bừng lên phía trong cánh cửa lắp kính hồng, càng làm nổi bật hơn tấm biển đen. Cánh cửa mở ra tuyệt đối không tiếng động, và một phụ nữ trẻ xinh đẹp, mặc tạp dề trắng, đội mũ vải viền đăng ten xuất hiện trước mặt con chó và quý ngài của nó. Một luồng hơi ấm thần tiên bao trùm lên người chó, và chiếc váy của người phụ nữ như toả ra mùi hoa linh lan.
"Có thế chứ, cái này thì ta hiểu",
- chó nghĩ.
- Xin mời vào, thưa ngài Sarik,
- quý ngài hài hước mời, và Sarik ve vẩy đuôi sùng kính bước vào phòng.
Một số lượng khổng lồ các vật dụng bày biện đầy căn phòng ngoài sang trọng. Đập ngay vào mắt là tấm gương lớn kê sát sàn nhà,trong đó lập tức hiện ra một Sarik bơ phờ xơ xác thứ hai; phía trên cao là những chiếc sừng hươu khủng khiếp; quanh tường là vô số áo choàng lông và ủng cao su đi ngoài; một bông hoa tuy líp bằng đá pan lắp bóng điện gắn trên trần.
- Bác lấy nó ở đâu ra thế, bác Philíp Philippovich?
- người phụ nữ mỉm cười hỏi và giúp quý ngài cởi chiếc áo khoác ngoài nặngtrịch bằng lông cáo bạc phát ra vô vàn ánh lửa xanh biếc.
Sau khi cởi áo lông khoác ngoài, trên người quý ngài là bộ com lê đen bằng nỉ Anh, sợi dây chuyền vàng trên bụng quý ngài lấp lánh những tia sáng đùng đục vui mắt.
- Gượm đã nào, đừng có quay như thế, chiu... ta bảo đứng có quay, đồ ngốc. Hừm?... Đây không phải là ghẻ... Hừm! A- a. Đây là vết bỏng. Thằng đểu nào làm nhà ngươi bỏng thế này? Hả? Đứng yên xem nào!...
- quý ngài hỏi nghiêm khắc và nóng nảy.
"Lão đầu bếp khổ sai, lão đầu bếp!"
- con chó như muốn thốt lên bằngđôi mắt sầu não và khẽ rên ư ử.
- Dina, - quý ngài ra lệnh,
- đưa nó vào phòng khám ngay và
- Cha ơi! Nó lắm ghẻ quá!
- Nói vớ vẩn. Ghẻ ở đâu? lấy áo choàng cho tôi.
Người phụ nữ huýt gió, bật ngón tay; con chó, sau một thoáng chần chừ, bèn đi theo. Cả hai bước ra dãy hành lang hẹp tối mờ, bỏ qua một cánh cửa sơn vécni, đi đến cuối hành lang rồi rẽ trái và bước vào một căn buồng nhỏ và tối; ngay tức khắc con chó cảm thấy không thích căn phòng này vì cái mùi đáng sợ của nó. Bóng tối bật tách một tiếng và biến thành ánh ngày chói chang, từ tất cả bốn phía mọi vật đều như phát sáng, lấp loáng, trắng toát.
“Ê, không được rồi... - chó thầm tru lên. - Xin lỗi con không chịu đâu! Tôi hiểu rồi, ôi quỷ tha ma bắt họ với mẩu giò của họ đi. Té ra họ đã nhử ta đến nhà thương chó. Bây giờ bọn họ sẽ bắt ta nuốt thuốc tẩy rồi dùng kéo cắt nát cả sườn ra, mà ta thì chỉ chạm đến cũng đã không chịu được rồi?"
- Ê, kìa, đi đâu?! - người phụ nữ có tên là Dina kêu to.
Chó quay ngoắt lại, nhún người và bất ngờ văng mình đập phía sườn lành vào cánh cửa, mạnh đến nỗi rung động cả căn hộ. Rồi nó bắn lùi lại, quay tròn tại chỗ như con quay, làm đổ ra sàn mộtchiếc xô trắng, từ trong xô những nắm bông bắn ra tung tóe. Trong khi quay, xung quanh nó những bức tường, những chiếc tủ bày các dụng cụ bóng loáng chao đảo, tấm tạp dề trắng và bộ mặt méo xệch của người phụ nữ nhảy chập chờn.
- Đi đâu cái con quỷ bờm xờm kia?...
- Dina hét lên tuyệt vọng.- Đúng là đồ chết tiệt!
"Cửa sau của họ ở đâu nhỉ?" - chó nghĩ. Nó thu người lại rồi văng mình hú hoạ vào một tấm kính với hy vọng rằng đó là cánh cửa thứ hai của căn phòng. Những mảnh kính vỡ vụn bắn tung loảng xoảng, một chiếc lọ hình tròn ở phía dưới rơi xuống sàn, dòngchất lỏng mầu hung thẫm đựng trong lọ lập tức đổ loang ra và bốc mùi thối. Vừa lúc đó cánh cửa thật bật mở.
- Đứng lại, ớ- đồ súc sinh, - quý ngài, chiếc áo choàng mới xỏ đượcmột tay, hét lên và nhảy vào chộp lấy chân chó.
- Dina, túm lấy cổ cái đồ khốn nạn này.
- Cha... cha ơi, đúng là chó!
Cánh cửa lại mở ra rộng hơn, thêm một nhân vật giống đực mặc áo choàng chạy xô vào. Dẫm chân lên những mảnh kính vỡ, nhân vật đó không chạy đến chỗ con chó, mà đến bên tủ, mở ra; lập tức mộtmùi ngòn ngọt, lờm lợm toả ra khắp căn buồng. Rồi nhân vật đó đè lên người chó, còn nó thì khoái chí đớp ngay cho anh ta một miếng ở phía trên chỗ có sợi dây buộc giày. Nhân vật đó hét lên, nhưng không mất bình tĩnh. Cái chất lỏng tởm lợm đã làm ngạt mũi chó, đầu óc nó quay tròn, chao đảo ,bốn chân duỗi dần ra, và nó như trôi dạt bồng bềnh đi đâu đó "Cám ơn, thế là hết, - nó mơ màng nghĩ, nằm vật ra ngay trên đống kính vỡ nhọn sắc. - Vĩnh biệt nhé, Moskva? Ta sẽ chẳng còn bao giờ được trông thấy ông Chiskin, cả những người vô sản và cả những khúc giò Cracov nữa. Ta sẽ lên thiên đường vì sự nhẫn nhục của loài chó. Hỡi các anh em đồ tể, vì cớ gì mà các người lại đối xử như vậy với ta?" Đến đây nó nằm thượt ra không động đậy và bất tỉnh.
* * *
Khi được hồi sinh, nó nghe trong đầu hơi choáng váng, trong bụng hơi nôn nao, còn bên sườn thì dường như không nghe thấy gì, bên sườn lặng yên đầy ngọt ngào, dễ chịu.
Chó cố hé mở con mắt phải lừ đừ và trông thấy mình bị băng quấn kín ngang sườn và bụng. "Cuối cùng thế là họ cũng đã làm được,lũ chó đẻ,.
- nó đờ đẫn nghĩ, - nhưng thật khéo léo, điều đó thì phải công nhận".
"Từ Sevilia đến Grenađa... trong bóng đêm thanh bình"(*)... -
ngay bên cạnh vang lên một giọng hát lơ đễnh, lạc điệu.
Chó ngạc nhiên, mở hẳn cả hai mắt ra và trông thấy cách đó hai bước một bàn chân đàn ông đặt trên chiếc ghế đẩu trắng, ống quầndài và quần mặc trong được xắn lên cao, bắp chân mầu vàng đểtrần loang lổ máu khô và iốt.
- Đây chắc là mình đã đớp hắn.
"Quân bợ đỡ! Công trình của mình đây. Họ sẽ đánh! "
- chó nghĩ bụng.
- "Êm đềm tiếng ca đêm, rền vang khua kiếm trận?" Sao nhà ngươi, đồ dù thủ du thực, lại cắn bác sĩ? Hả? Tại sao làm vỡ kính?
Hả?
- Hư-ư-ư-ư, - chó rên lên ai oán.
- Thôi, được rồi, đã tỉnh thì nằm yên đấy, đồ thộn.
- Bác Philip Philippovich, làm sao mà bác nhử được con chó bất trị này thế hả bác?
- một giọng đàn ông dễ nghe hỏi, và ống quần bằng vải trikô được thả xuống dưới.
Có mùi thuốc lá, rồi trong tủ tiếng thuỷ tinh va vào nhau lanh canh.
- Bằng sự vỗ về âu yếm. Đó là phương pháp duy nhất để tiếp cận mọi sinh vật sống. Bằng khủng bố thì không thể làm gì được với bấtcứ một loại động vật nào, dù nó ở trình độ phát triển cao hay thấp. Điều đó tôi đã đang và sẽ khẳng định. Họ cứ hoài công nghĩ rằng khủng bố có thể giúp được họ. Dạ thưa không ạ, không thể giúp được gì đâu, dù cho đó là khủng bố trắng, khủng bố đỏ hay thậm chí là khủng bố nâu. Khủng bố sẽ làm tê liệt hoàn toàn hệ thống thần kinh. Dina? Tôi đã mua cho cậu cả này một rúp bốn mươi kôpếch giò Cracov. Nhờ cô cho nó ăn khi nào nó hết nôn.
Tiếng kính vỡ bị quét đi kêu loảng xoảng, và một giọng đàn bà nũng nịu:
- Giò Cracov! Lạy Chúa, cho nó thì chỉ cần mua loại thịt vụn bốn chục kôpếch một cân ở cửa hàng thịt là được lắm rồi. Còn giò Cracov thì tốt nhất là để cháu ăn.
- Cô cứ thử xem? Tôi sẽ cho cô ăn! Đó là thuốc độc đối với dạ dày con người. Một cô gái đã lớn mà cứ hệt như con nít, bất kỳ thứ bẩn thỉu vứt đi nào cũng nhét vào miệng. Tuyệt đối cấm. Tôi báo trước cho biết, cả tôi, cả bác sĩ Bormental sẽ không thèm chữa cho cô khi cô ôm bụng kêu đau đâu...
"Ai dám nói rằng kẻ khác đẹp hơn em... ".
Có tiếng chuông rung ngắt quãng êm tai vang khắp cả căn hộ; còn từ xa, ở tận phòng ngoài, thỉnh thoảng vẳng đến giọng người nói: Chuông điện thoại réo. Dina chạy biến đi. Philip Philippovich ném đầu điếu thuốc lá vào chiếc xô, cài cúc áo choàng, đứng trước tấm gương trên tường vuốt sửa lại bộ na mềm và gọi chó:
- Chiu-chiu. Chà, không sao, không sao. Ta đi tiếp khách nào.
Chó đứng lên bằng bốn chân chưa vững, lảo đảo và run rẩy, nhưng hồi sức rất nhanh, rồi bước đi theo vạt áo choàng bay phất phơ của Philip Philippovich. Chó đi đi qua dãy hành lang hẹp, nhưng lần này thấy nó được chiếu rất sáng bằng một tán đèn tròn treo trên trần. Khi cánh cửa sơn vécni mở ra, chó cùng Philip Philippovich bước vào phòng làm việc. Sự bài trí của gian phòng làm cho chó choáng ngợp. Trước hết, nó chói loà ánh sáng: đèn trên trần nhà có vẽ trang trí, đèn trên bàn, đèn trên tường, đèn trong tủ kính. ánh điện chiếu sáng vô vàn đồ vật, và cái làm cho Sarik chú ý nhất là một con cú lớn tướng ngồi trên cành cây gắn vàotường.
- Nằm xuống,
- Philip Philippovich ra lệnh.
Cánh cửa chạm trổ đối diện mở ra, và cái người vừa nãy bị nó đớp bước vào; bây giờ dưới ánh sáng rực rỡ, trông anh ta rất trẻ, điển trai, với bộ râu nhọn dưới cằm; anh ta trao cho Philip Philippovich một tờ giấy, nói:
- Ông khách cũ...
Và liền đó biến đi không tiếng động; còn Philip Philippovich, khoát rộng tà áo choàng, ngồi vào sau chiếc bàn viết khổng lồ, lập tức trở nên đường bệ và quan trọng khác thường.
"Không, đây không phải nhà thương, mình đã rơi vào một cái gì đó khác, - chó bối rối nghĩ và nằm xuống tấm thảm thêu cạnh chiếc ghế bành da đồ sộ, - còn con cú này thì ta sẽ xem xét sau..."
Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra;
bước vào là một người khiến chó ngạc nhiên đến nỗi nó buột sủa lên một tiếng, tuy tiếng sủa hãy còn rấtyếu ớt.
- Im! Chà - chà, mà không thể nhận ra anh được nữa, anh bạnthân mến ạ.
Người vừa bước vào cúi chào Philip Philippovich hết sức cung kính và ngượng nghịu.
- Hi hi? Ngài quả là tiên ông và đại pháp sư, thưa giáo sư. - ông ta bối rối đáp.
- Cởi quần ra, anh bạn,
- Philip Philippovich ra lệnh và rời bàn đứng dậy. "Lạy đức Chúa Giesus, - chó nghĩ, - cái thằng cha này!
"Tóc trên đầu "thằng cha" hoàn toàn xanh lè, còn sau gáy lại chuyển sang mầu thuốc lá loang lổ, trán thằng cha đầy những nếp nhăn, nhưng da mặt hồng hào như mặt trẻ sơ sinh. Chân trái không co duỗi được nên phải kéo lê trên thảm, ngược lại chân phải cứ nhảy như choi choi. Một viên ngọc quý ánh lên như con mắt nhỏ trên ve chiếc áo vét tông cực sang.
Vì quá tập trung nên chó mất cả cơn buồn nôn.
- Chắp, chắp!
- nó khẽ chép miệng.
- Im! Anh bạn ngủ thế nào?
- Hê-hê. Chỉ một mình chúng ta ở đây chứ, thưa giáo sư? Điều đó thật không thể nào tả nổi, - người khách ngượng nghịu nói, - parole d honneur(*) hai mươi lăm năm chưa bao giờ như vậy cả, -"thằng cha" túm lấy cúc quần, - ngài có tin không, thưa giáo sư, đêm nào cũng hàng đàn con gái khoả thân... Tôi như được bỏ bùa.Ngài đúng là pháp sư. Hừm, - Philip Philippọvich vừa nhìn kỹ vào tròng mắt của ông khách, vừa lo lắng hắng giọng.
Cuối cùng thì người khách cũng mở được hàng cúc và cởi xong chiếc quần dài vải sọc. Bên trong hiện ra một chiếc quần lót chưa từng thấy bao giờ. Nó mầu kem sữa, có đính những con mèo bằng lụa đen và nồng nặc mùi nước hoa.
Chó không chịu nổi lũ mèo, sủa váng lên một tiếng khiến "thằngcha" nhảy dựng lên.
- Ái
- Ta quật cho bây giờ? Anh đừng sợ, nó không cắn đâu.
"Mình mà không cắn ấy à?"
- chó ngạc nhiên nghĩ.
Từ trong túi quần của người khách vừa đến rơi xuống thảm một chiếc ảnh nhỏ in hình cô gái với mái tóc bỏ xoã. "Thằng cha" nhảy vội đến, cúi xuống nhặt, đỏ lựng mặt lên.
- Nhưng mà anh coi chừng đấy,- Philip Philippovich giơ ngóntay ra doạ, cau có cảnh cáo.
- Dù sao cũng nên coi chừng, chớ có lạm dụng!
- Tôi không lạm... - "thằng cha" vẫn tiếp tục cởi quần, bối rối lẩm bẩm,- tôi ấy mà, thưa bác sĩ, chỉ là để thử nghiệm thôi.
- Thế kết quả thế nào? Philip Philippovich nghiêm khắc hỏi.
"Thằng cha" khoát tay trong cơn khoái lạc tột độ:
- Hai mươi lăm năm, thưa giáo sư quý mến, không có gì như thế cả. Lần cuối cùng vào năm 1899 ở Paris, trên Ruede la Puer(*).
- Thế tại sao tóc anh lại xanh lè thế kia?
Mặt người khách tối sầm lại.
- Cái hãng Girkost(*) đáng nguyền rủa? Ngài không thể tưởng tượng nổi là bọn vô lại kia thay cho thuốc nhuộm đã nhét cho tôi cái gì đâu? Ngài thử nhìn xem, - "thằng cha" vừa lẩm bẩm vừa đưa mắt tìm gương. - Phải nện vỡ mõm chúng ra mới được!
-ông ta giận dữ nói thêm.
-- Bây giờ tôi phải làm gì đây, thưa giáo sư? - ông ta hỏi như sắp khóc...
- Hừm, anh cạo trọc đầu đi.
- Thưa giáo sư, - ông ta thốt lên não nuột, - nhưng tóc bạc sẽ lại mọc lên. Hơn nữa, tôi sẽ không thể thò mặt đến nơi làm việc, tôi đã ba ngày nay không đi làm rồi. Ôi, giáo sư, giá như ngài phát minh ra cả cách làm cho tóc trẻ lại nữa!
- Không thể ngay được, không thể ngay được, anh bạn thân mến của tôi ạ,
- Philip Philippovich lẩm bẩm.
Cúi người xuống, giáo sư đưa ánh mắt sáng lấp lánh xem xét kỹ chiếc bụng trần của người khách.
- Thôi được rồi, rất tốt, tất cả đều ổn định. Thật lòng mà nói, thậm chí tôi không đợi một kết quả như vậy.
"Đã nhiều máu đỏ, đã nhiều lời ca..."
Mặc quần vào đi, anh bạn!
"Còn tôi với cô nàng đẹp nhất..."
- Người khách hoạ theo bằng giọng rè như chảo gang mẻ, và rạng rỡ mặt mày, bắt đầu mặc quần vào.Sau khi sửa soạn lại áo quần chỉnh tề, ông ta vừa nhún nhảy và toả ra quanh mình mùi nước hoa, vừa trao cho Philip Philippovich một xấp tiền trắng rồi dịu dàng nắm chặt cả hai tay giáo sư.
- Hai tuần tới anh có thể không đến?
- Philip Philippovich nói. - Nhưng dù sao tôi cũng xin anh hãy cẩn thận.
- Thưa giáo sư! - từ phía ngoài cửa vọng lại giọng nói đầy khoái cảm, - xin ngài hãy tuyệt đối yên tâm, - giọng nói khúc khích ngon lành rồi biến mất.
Tiếng chuông ngắt quãng lại vang lên khắp căn hộ, cánh cửa sơn vecni lại mở ra, người bị đớp lại bước vào, trao cho Philip Philippovich tờ giấy và nói:
- Tuổi khai không đúng. Chắc khoảng 54 - 55. Tiếng tim trầm.
Anh ta lại biến mất và thay vào đó là một bà áo váy sột soạt mũ đội lệch vẻ ngang tàng, vòng hạt chuyền ánh lên lấp lánh trên chiếc cổ nhão nhăn nheo. Những quầng đen khủng khiếp treo dưới con mắt, còn hai má thì đỏ hồng lên như má búp bê.
Bà ta có vẻ rất hồi hộp.
- Thưa bà, bà bao nhiêu tuổi?
- Philip Philippovich hỏi hết sứcnghiêm khắc.
Người đàn bà hốt hoảng và thậm chí tái nhợt đi dưới lớp vỏ đỏ hồngtrên má.
- Thưa giáo sư, tôi xin thề, nếu như ngài biết được tôi đã gặp một tấn bi kịch như thế nào!...
- Bà bao nhiêu tuổi?- Philip Philippovich nhắc lại còn nghiêm khắc hơn trước.
- Tôi xin thề... Hừm, bốn lăm ạ...
- Thưa bà, - Philip Philippovich cao giọng. -Tôi đang vội, xin bà đừng làm mất thời giờ, tôi đâu phải chỉ tiếp một mình bà!
Bộ ngực người đàn bà phập phồng dữ dội.
- Tôi xin nói với riêng ngài như với một ngôi sao khoa học... Nhưng tôi xin thề, điều đó thật khủng khiếp...
- Bà bao nhiêu tuổi? - Philip Philippovich giận dữ quát to, cặp mắt kính ánh lên lấp loáng.
- Năm mươi mốt? - Co rúm người lại vì kinh hoàng, người đànbà đáp.
- Cởi quần dài ra, thưa bà, - Philip Philippovich thốt lên nhẹ nhàng và chỉ vào chiếc bục trắng cao đặt trong góc phòng.
- Thưa giáo sư, tôi xin thề,- người đàn bà lẩm bẩm, mấy ngón tay run rẩy lần mở những khuy nút nào đó trên thắt lưng, cái tay Mórits này... Tôi xin thú thật với ngài...
- "Từ Sevilia đến Grenađa..." - Philip Philippovich lơ đễnh hátvà giậm chân lên bàn đạp của chiếc bồn sứ. Nước lập tức róc rách chảy ra.
- Xin thề có Chúa chứng giám!
- Người đàn bà nói, những vết đỏ tự nhiên nổi rõ qua mầu hồng nhân tạo trên hai gò má của bà ta.
- Tôi biết rằng đây là khát vọng cuối cùng của tôi. Nhưng hắn ta thật đểu. Ô, thưa giáo sư! Hắn là một tay cờ bạc đại bịp bợm, điều đó khắp Moskva ai cũng biết. Hắn không thể nào bỏ qua một ả thợ may đáng tởm nào. Mà hắn ta lại trẻ đến thế.
- Người đàn bà lẩm bẩm và ném từ dưới chiếc váy sột soạt ra một nắm đăng ten vò nhàu.
Chó cảm thấy mụ mẫm hẳn đi, mọi thứ trong đầu quay cuồng đảo lộn.
"Hừ, mặc mẹ cái người, - chó đờ đẫn nghĩ, kê đầu lên hai chân trước và thiếp đi vì xấu hổ, - ta sẽ không chủ bụng hiểu đây là cái gì - dù sao thì ta cũng không hiểu nổi".
Tỉnh dậy vì tiếng loảng xoảng, nó trông thấy Philip Philippovich đang ném vào chậu những đoạn ống gì đó sáng loáng.
Người đàn bà má lốm đốm ép hai tay vào ngực, nhìn Philip Philippovich với ánh mắt đầy hy vọng. Giáo sư cau mày vẻ quan dạng và ngồi vào bàn hí húi viết một cái gì đó.
- Thưa bà, tôi sẽ cấy cho bà buồng trứng của khỉ cái, - ông tuyên bố và ngó bà ta thật nghiêm khắc.
- Ôi, giáo sư, chẳng lẽ là của khỉ ư?
- Đúng thế,
- Philip Philippovich đáp thẳng thừng.
- Khi nào sẽ phẫu thuật ạ? - Tái mặt, người đàn bà hỏi bằng giọng yếu ớt.
"Từ Sevilia đến Grenađa... " Ư ư... thứ hai. Bà hãy vào nằm viện từ sáng. Trợ lý của tôi sẽ chuẩn bị cho bà.
- Ôi, tôi không muốn vào viện đâu. Có thể ở chỗ ngài được không, thưa giáo sư?
- Bà thấy đấy, tôi chỉ làm phẫu thuật ở đây trong những trường hợp thật cần thiết. Như vậy sẽ rất đắt - năm chục tờ mười rúp đấy.
- Tôi đồng ý, thưa giáo sư!
Nước lại róc rách chảy, chiếc mũ cắm lông chim chập chờn, rồi một cái đầu hói như đít đĩa hiện ra và ôm lấy Philip Philippovich. Chó mơ màng; cơn buồn nôn đã qua, nó khoan khoái với bên sườn đã hết đau, với hơi ấm trong phòng, thậm chí nó còn cất tiếng ngáy và kịp trông thấy một mẩu chiêm bao dễ chịu, dường như nó ngoạm được ở đuôi con cú cả một túm lông... Rồi một giọng nói lo lắng chợt sủa ngay trên đầu nó.
- Tôi quá nổi tiếng ở Moskva, thưa giáo sư. Tôi phải làm gì bây giờ?
- Ôi thưa các ngài, - Philip Philippovich kêu lên phẫn nộ, - không thể như thế được? Cần phải kìm mình chứ? Cô ta bao nhiêu tuổi?
- Mười bốn, thưa giáo sư... Ngài hiểu không, nếu việc lộ ra, tôi chết mất. ít ngày nữa tôi sẽ nhận được quyết định đi công tác nước ngoài.
- Nhưng tôi đâu phải là trạng sư, anh bạn... Thì anh đợi thêm hai năm nữa và cưới cô ta.
- Tôi đã có vợ, thưa giáo sư.
- Ôi, thưa cái ngài, thưa các ngài!
Cánh cửa liên tục mở ra, những bộ mặt thay nhau, tiếng dụng cụ khua lách cách trong tủ, Philip Philippovich làm việc không ngơi tay.
Một căn hộ đáng ngờ, - chó nghĩ, nhưng thật là tuyệt vời! Mà ông ta cần mình để làm quỷ quái gì nhỉ? Chẳng lẽ ông ta sẽ để cho mình sống ở đây? Đúng là kỳ quặc! Bởi vì ông ta chỉ cần nháy mắt mộtcái là có ngay bất kỳ một con chó nào! Hay có thể vì mình đẹp? Hẳn đây là số phận may mắn của mình. Còn con cú kia thật đáng ghét. Đồ trơ tráo".
Chó tỉnh hẳn dậy lúc trời đã về khuya, khi những hồi chuông ngớt kêu, đúng vào cái khoảnh khắc cánh cửa mở ra để cho những người khách đặc biệt bước vào. Họ đến bốn người cùng một lúc. Tất cả đều còn trẻ và tất cả đều ăn mặc rất khiêm tốn.
"Những người này cần gì?"- chó ngạc nhiên nghĩ. Philip Philippovich đón khách với
vẻ còn khó chịu hơn nhiều. Ông đứng cạnh bàn viết, nhìn những người vừa bước vào như một viên tướng nhìn kẻ thù. Hai lỗ mũi của chiếc mũi diều hâu phập phồng.
Nhữngngười khách dẫm chân tại chỗ trên mặt thảm.
- Thưa giáo sư, chúng tôi đến gặp ông... - người có mớ tóc xoăn tít cựcrậm, dày đến một phần tưarsin trên đầu, cất tiếng nói, - vềviệc...
- Các ngài, thời tiết thế này mà các ngài không đi ủng cao su(*) thật không nên, - Philip Philippovich cắt ngang vẻ bề trên, - thứ nhất, các ngài sẽ bị cảm lạnh; và thứ hai nữa, các ngài làm vấy bẩn hết lên thảm, mà tất cả thảm của tôi đều là thảm Ba Tư.
Anh thanh niên có mái tóc dày ngừng bặt, cả bốn người ngơ ngácnhìn Philip Philippovich chằm chằm. Sự im lặng kéo dài mấy giây, nó chỉ bị ngắt quãng bởi tiếng ngón tay của Philip Philippovich gõ lên mặt chiếc đĩa gỗ đặt trên bàn.
Thứ nhất, chúng tôi không phải là "các ngài," - cuối cùng, người trẻ nhất trong số bốn người, có vẻ mũm mĩm như một trái đào chín, cất tiếng.
- Thứ nhất, - Philip Philippovich cắt lời anh ta ngài là đàn ông hay đàn bà?
Cả bốn người lại im bặt, mồm há hốc. Lần này thì người thứ nhất, anh thanh niên có mớ tóc dày, trấn tĩnh trước:
- Thì có khác gì nhau, thưa đồng chí?
- anh ta ngạo nghễ hỏi.
- Tôi là đàn bà.
- Người thanh niên mũm mĩm như quả đào, mặc áo da chợt thú nhận và đỏ bừng mặt. Tiếp theo, một trong số nhữngngười khách bước vào phòng, có mớ tóc vàng hoe đội mũ lông cao, không hiểu sao cũng đỏ chín cả mặt lên.
- Nếu thế thì chị có thể cứ đội mũ. Còn ngài, thưa quý ngài, xin cởi hộ chiếc mũ của ngài ra ạ(*) , Philip Philippovich nói bằng giọngđường bệ.
- Tôi không phải là "quý ngài" của ông.
- anh thanh niên tóc vàng vừa cởi mũ vừa tuyên bố gay gắt.
- Chúng tôi đến gặp ông,
- người tóc đen dày lại lên tiếng.
- Trước hết, "chúng tôi" là ai?
Chúng tôi là Hội đồng quản trị mới của khu nhà,
- anh tóc đen nói trong cơn giận dữ cố kìm lại.
- Tôi là Svonđer, chị này là Viazemskaia, đây là các đồng chí Pet rukhin và Jarovkin. Chúng tôi đến...
- Có phải các anh được phân vào căn hộ của Phedor Pavlovich Xablin không?
- Vâng, chúng tôi. - Svonđer đáp.
- Lạy Chúa, nhà Kálabukhov thế là hết! - Philip Philippovich với vẻ căm ghét, tuyệt vọng kêu lên và vung hai tay lên trời.
- Ông cười đấy à, thưa giáo sư? - Svonđer phẫn nộ.
- Tôi đâu có cười? Tôi trong cơn vô cùng tuyệt vọng, - Philip Philippovich thốt lên, - bây giờ hệ thống lò sưởi bằng hơi nước sẽ ra sao?
- Ông nhạo báng đấy à, giáo sư Preobrajenski?
- Các anh đến gặp tôi có việc gì? Các anh nói nhanh lên, bây giờ tôi phải đi dùng bữa đây.
- Chúng tôi là Hội đồng quản trị khu nhà, - Svonđer lên tiếng - đến gặp ông sau cuộc họp toàn thể của những người cư trú trong khu nhà của chúng ta. ở đó vấn đề về việc đưa người đến ở thêm các căn hộ được đặt ra...
- Ai đặt ra cái gì? - Philip Philippovich thốt lên? - xin ngài diễn đạt ý nghĩ của mình rõ ràng hơn.
- Vấn đề về việc đưa người đến ở thêm các căn hộ.
- Đủ rồi! Tôi đã hiểu! Các ngài có biết rằng theo quyết định ngày mười hai tháng Tám năm nay, căn hộ của tôi được miễn mọi thứ đến ở thêm ở thắt hay không?
- Chúng tôi có biết. - Svonđer đáp. - Nhưng hội nghị toàn thể, sau khi xem xét vấn đề của ông đã đi đến kết luận, rằng tóm lại và nói chung là ông chiếm một diện tích rộng quá mức. Hoàn toàn là quá mức. Một mình ông sống trong bảy phòng.
- Một mình tôi sống và làm việc trong bảy phòng,
- Philip Philippovich đáp. - Và tôi muốn có được phòng thứ tám. Tôi cần có nó để làm thư viện.
Cả bốn người sững sờ.
- Phòng thứ tám? ê-hê-hê! - Anh thanh niên tóc vàng bị bắt bỏ mất mũ lên tiếng.
- Cái đó quả thật là thú vị!
- Là không thể tưởng được!
- anh thanh niên hoá ra là đàn bà cũng thốt lên.
- Phòng tiếp khách của tôi, các anh lưu ý cho, đồng thời lại là thư viện, rồi phòng ăn, phòng làm việc - là ba. Phòng khám là bốn. Phòng mổ là năm. Phòng ngủ của tôi là sáu và phòng cho người phục vụ là bảy. Nhìn chung còn thiếu... Mà thật ra, điều đó không quan trọng. Căn hộ của tôi được miễn, và câu chuyện chấm hết. Tôi có thể đi dùng bữa được chứ ạ?
- Xin lỗi, - người thứ tư giống như một con bọ hung chắc khoẻ, nói.
- Tôi xin lỗi, - Svonđer ngắt lời anh ta, - chúng tôi đến đây chính là để trao đổi về cái phòng ăn và phòng khám ấy. Hội nghị toàn thể đề nghị ông, chiều theo điều khoản về kỷ luật lao động, tự nguyện nhường lại phòng ăn. Hiện nay không ai ở Moskva có phòng ăn hết...
- Thậm chí cả Aisedora Đunkan(*),- Cô gái hét lênlanh lảnh.
Có một cái gì đó xảy ra với Philip Philippovich khiến cho khuôn mặt ông đỏ hồng lên; ông không nói một lời nào, đợi xem cái gì sẽ xảy ra tiếp theo.
- Và cả phòng khám cũng vậy, - Svonđer nói tiếp, - phòng khám có thể kết hợp rất tốt với phòng làm việc.
- Thế đấy, - Philip Philippovich thốt lên bằng một giọng rất lạ lùng. - Thế tôi cần phải ăn ở đâu?
- Trong buồng ngủ, - cả bốn người đồng thanh trả lời.
Mầu hồng trên mặt Philip Philippovich bắt đầu có sắc xanh xám.
- Ăn trong phòng ngủ. - ông cất tiếng, nói bằng giọng hơi nghèn nghẹn, - đọc sách trong phòng khám, thay quần áo trong phòngkhách, tiến hành phẫu thuật trong phòng ở của người phục vụ? còn khám bệnh trong phòng khách. Rất có thể là Aisedora Đunkan làm như thế thật. Có thể bà ta ăn uống trong phòng làm việc, còn mổ thỏ thì ở trong phòng tắm. Có thể như thế lắm. Nhưng tôi không phải là Aisedora Đunkan - ông bỗng gầm lên, và mầuhồng trên mặt ông biến thành màu vàng.
- Tôi sẽ ăn ở trong phòng ăn, phẫu thuật ở trong phòng mổ! Các anh hãy thông báo điều đó cho cái hội nghị toàn thể, và tha thiết xin các anh hãy trở về làm công việc của các anh, hãy để cho tôi được ăn tại cái nơi mà tất cả những con người bình thường vẫn ăn, tức là trọng phòng ăn, chứ không phải ở phòng ngoài, cũng như không phải ở phòng ngủ của trẻ con.
- Vậy thì, giáo sư, do hành động một mực chống đối của ông, -Svonder đã mất bình tĩnh, nói, - chúng tôi sẽ gửi đơn lên cấp trên.
- ái chà, - Philip Philippovich thốt lên, - vậy sao?- Giọng của ông chợt có vẻ lịch sự một cách đáng ngờ. - Xin chờ tôi một phút.
“Thế mới là anh hào chứ,- chó thán phục nghĩ thầm,
- giống hệt mình. ồ, ông ấy sẽ đớp họ ngay bây giờ, ôi, ông ấy sẽ đớp. Mình chưa biết là bằng cách nào, nhưng ông ấy sẽ đớp phải biết... Phải cho họ một trận! Giá như mình đớp cho cái tay cò hương này một miếng vào đám gân bắp chân phía trên ống ủng kia... gừ... ừ... ừ..."
Philip Philippovich ấn lên cần điện thoại, gỡ ống nghe và nói vào đó như sau:
- Cho tôi xin... vâng ạ... cám ơn... cho tôi gặp Piot r Aleksandrovich. Giáo sư Preobrajenski đây.
- Anh Piot r Aleksandrovich đấy à? Rất mừng là gặp được anh. Cám ơn, tôi khoẻ. Anh Piot r Aleksandrovich này, ca mổ của anh phải hoãn lại.
- Cái gì ạ?
- Huỷ hoàn toàn. Cũng như tất cả các ca mổ khác. Lý do là tôi thôi làm việc ở Moskva và nói chung ở nước Nga... Vừa rồi có bốn người vào phòng tôi, trong đó có một phụ nữ ăn mặc thành đàn ông,hai người mang súng lục, họ khủng bố tôi ngay tại căn hộ của tôi với mục đích tước đi một phần diện tích.
- Nhưng. thưa giáo sư. - biến sắc mặt. Svonđer lên tiếng.
- Xin lỗi... Tôi không có điều kiện để nhắc lại tất cả những gì họ đã nói ở đây. Tôi không phải là người ưa các chuyện vô nghĩa.
Chỉ cần nói rằng họ đòi tôi phải bỏ phòng khám, nói một cách khác, họ buộc tôi phải mổ anh ở nơi trước đây tôi vẫn mổ thỏ. Trong những điều kiện như vậy tôi không chỉ không thể, mà không có cả quyền làm việc.
Vì vậy, tôi ngừng hoạt động, đóng cửa căn hộ và đi Sotri. Chìa khoá tôi có thể gửi lại Svonđer. Cứ để cho anh ta mổ.
Cả bốn người đứng chết lặng. Tuyết trên ủng của họ tan thành nước.
- Biết làm thế nào được... Chính bản thân tôi cũng rất khó chịu... Sao? ồ không, anh Piot r Aleksandrovich ạ? ồ không. Tôi không đồng ý như thế đâu. Tôi không thể chịu nổi nữa. Sao? Hừm...Tuỳ anh. ít ra là như thế. Nhưng với một điều kiện: ai cũng được, bao giờ cũng được, cách nào cũng được nhưng phải có một tờ giấy để với nó thì không một Svonđer hay bất kỳ ai khác có thể đến gần cửa căn hộ của tôi. Một tờ giấy tối cao, có hiệu lực thật sự! Một chứng chỉ bảo đảm. Để cho không ai nhắc đến tên tôi nữa. Chấm hết. Đối với họ, tôi đã chết rồi. Vâng, vâng. Được thôi. Ai? à- à...ấy, đó lại là việc khác. à - à... Rất tốt. Bây giờ tôi sẽ trao ống nghe. Xin mời ngài, - Philip Philippovich nói với Svonđer bằng giọngchâm chọc. - Bây giờ người ta sẽ nói chuyện với ngài.
- Xin lỗi ông, giáo sư, - Svonđer nói, mặt khi thì đỏ bừng, khi thì tái mét.
- ông đã xuyên tạc những lời của chúng tôi.
- Đề nghị anh không sử dụng những lời như vậy.
Svonđer bối rối cầm ống nghe, nói:
- Tôi nghe đây ạ. Vâng... Chủ tịch hội đồng nhà cửa... Nhưng chúng tôi hành động đúng theo nguyên tắc... Như thế này giáo sư cũng được ưu đãi lắm rồi... Chúng tôi có biết về các công trình của ông ta... Chúng tôi đã dự định để lại cho ông ta những năm căn phòng... Vâng, được ạ... Nếu đã vậy. Được ạ.
Mặt chín dừ, anh ta treo ống nghe, quay lại bàn.
"Ông ta đã hạ nhục họ ra trò! Thế mới là anh hào!
- chó khoái chínghĩ. - ông ta biết một câu thần chú nào đó bí mật hay sao ấy? Chà, bây giờ thì các người có thể tha hồ đánh tôi, tôi nhất định sẽ không đi khỏi nơi đây".
Ba người khách khác há hốc mồm nhìn Svonđer bị hạ nhục.
- Thật là nhục nhã - anh ta ngượng ngập nói.- Nếu như bây giờ có cuộc tranh luận,
- cô gái kích động đỏ bừng mặt, nói, - thì tôi sẽ chứng minh cho Piot r Aleksandrovich...
- Xin lỗi, có phải chị muốn mở cuộc tranh luận ngay bây giờ không ạ? - Philip Philippovich lịch thiệp hỏi.
Mắt cô gái cháy rực lên.
- Tôi hiểu ý mỉa mai của ông, thưa giáo sư, chúng tôi sẽ đi ngay bây giờ... Chỉ có điều , với tư cách là trưởng ban văn hoá của khu nhà... - Nữ trưởng ban,
- Philip Philippovich sửa lại.
- Tôi muốn mời ông, - nói đến đó cô ta rút từ trong ngực áo ra mấy tờ tạp chí sặc sỡ và ướt nhèm vì tuyết, mời ông lấy cho mấy tờ tạp chí ủng hộ trẻ con nước Đức. Năm mươi kôpếch một tờ.
- Không, tôi không lấy, - Philip Philippovich liếc nhìn những tờ tạp chí, đáp gọn
lỏn.
Trên các bộ mặt những người khách hiện ra vẻ ngơ ngác cực độ,còn mặt cô gái thì đỏ tía như gấc.
- Tại sao ông không lấy?
- Không muốn.
- Ông không thương trẻ em Đức à?
- Tôi có thương.
- Ông tiếc năm mươi kôpếch à?
- Không.
- Thế thì tại sao?
- Tôi không muốn.
Tất cả im lặng.
- Giáo sư, ông biết không, - thở hắt ra nặng nề, cô gái cất tiếng, - nếu như ông không phải là người nổi tiếng khắp châu Âu và nếu như ông không được che chở một cách hết sức đáng phê phán(người tóc vàng kéo vạt áo khoác của cô gái, nhưng cô ta gạt đi) bởi những nhân vật mà tôi tin chắc rằng chúng tôi sẽ còn làm cho ra nhẽ, thì ông đáng bị bắt giam.
- Vì sao? - Philip Philippovich tò mò hỏi.
- Ông là người căm thù vô sản, - cô gái kiêu hãnh nói.
- Vâng, tôi không thích vô sản, - Philip Philippovich buồn bã đồng ý và ấn nút. ở đâu đó có tiếng chuông vang lên. Cánh cửa dẫn ra hành lang mở không tiếng động.
- Dina, - Philip Philippovich nói to. - Dọn bàn ra. Các ngài cho phép chứ, thưa các ngài?
Bốn người im lặng bước ra khỏi phòng làm việc, im đặng đi ngang qua phòng tiếp khách, rồi qua phòng ngoài, và nghe tiếng cánh cửa chính nặng nề âm vang đóng lại sau lưng họ.
Con chó đứng dậy trên hai chân sau và làm một cử chỉ gì đó giống như sự bái lạy trước mặt Philip Philippovich.