XII
Chính Tâm tiếp tục chỉ đạo việc xây dựng bốn bức tường chùa, anh còn phác thảo được bản thiết kế theo ý mình. Trở lại ngôi chùa, anh vẫn cho rằng mình sửa chửa kịp thời. Trải qua một lần chết dở, Chính Tâm xem ra suy nghĩ chín chắn hơn mà còn có trách nhiệm với mọi người. Anh hằng ngày gặp ni cô Ngọc, đây là thử thách lòng người có còn tình ý với nhau nữa không? Hy sinh một tình yêu để hiến thân cho nhà Phật là một việc làm quá ư cao cả. Biết sao bây giờ…
- …Cô…vẫn cho thầy Hạnh ăn hằng ngày !
- Dạ…thưa, hằng ngày phải cho ăn…
Hai người nói chuyện không đầu không đuôi, ai nghe qua cũng tức cười. Các bà sư tủm tỉm, họ cho là nói thế mới được.
Chính Tâm đăng ký học thêm tiếng Hán ở Trung Tâm Dạy nghề thị xã, đôi khi phải nhờ ni cô Ngọc phiên âm giảng giải một số chữ mới rõ nghĩa. Một hôm ni cô Ngọc bị hư xe, Chính Tâm chở cô tới lớp.Trên đường đi, hai người chở nhau nhưng im ru, không trau đổi một câu. Lúc về Ni cô Ngọc ngồi ngoài sau, để Chính Tâm đạp xe mồ hôi nhễ nhại, nên có phần ái ngại :
- Lên dốc có mệt quá không…thầy ?
- S..ứ..c…m…ấ...y.. m..à.. m..ệ..t.
Thầy Chính Tâm mới tu, nói không ra hơi nhưng cũng còn phách lắm. Thầy còn tuyên bố :
- Sau này, ai tu ở chùa Liên Hoa đi học, được cấp xe tay ga…
- Vậy thầy trụ trì, chắc là xe du lịch…
- Chứ còn gì nữa, khỏi nói rồi…
Đang thả dốc, chiếc xe bỗng nghe tiếng đinh đâm nghe « xực », rồi bánh bị xì xẹp lép. Gần đây đoạn đường này thường bị rải đinh, Chính tâm biết mấy tay vá xe ven đây chứ không ai khác, nhưng cũng dẫn vào đó vá.
- Thiện tai…Thiện tai…Cô có đem theo tiền không ?
- Tu làm gì có tiền !
- À…há ! Mình cũng chỉ còn có hai ngàn, mấy đứa học lớp một bây giờ cũng có đến năm ngàn- Thầy Chính Tâm phân bì, rồi móc điện thoại di động trong chiếc túi rộng. Áo cà sa nâu sòng tung bay trong gió như vị tướng, để gọi về ông Hoàng Ánh mượn tiền- Cha à ! cha cho anh Tài đem tiền đến chân cầu, xe bị đinh đâm rồi.
- A, được rồi…Thầy đợi chút có ngay.
Đệ tử sẽ bảo hắn ta mang đến…
- Trước đây, không biết Phật có biết bấm điện thoại di động không. Ai cũng cho rằng ngài phép thuật vô biên ?- Chính Tâm cứ lòng vòng câu nói ấy mãi.
- Thầy nói mà không sợ tội !- Người vá xe một chân bị tật nguyền, cảm giác tội lỗi vì « thầy » bị trúng đinh (chứ không phải mấy thằng choai choai), có cơ hội nịnh nọt lại Đức Phật- Thầy có tin là nhờ Đức Phật nên người ta mới làm ra được điện thoại di động không ?
Tu mấy tháng mà bị người sửa xe đạp chỉnh lại, Thầy Chính Tâm im lặng nghĩ lần sau phải cẩn thận từng lời nói. Ni cô Ngọc cố gắng nghiêm trang, nhưng cũng suỵt cười quay mặt đi nơi khác. Chỉ một lát, anh sửa xe đạp vá xe xong nhưng rồi áy náy :
-Thôi ! Thầy cứ đi đi…không lấy tiền đâu…Tôi ra đường lượm đinh đây, mấy thầy giờ đi học khuya nhiều quá.
Anh ta khập khiễng ra đường, rồi lấy đèn pin soi rọi từng cây đinh. Thầy Chính Tâm mừng rơn, vỗ về anh ta :
- Phước lớn…phước lớn…
- Bộ ai rải đinh ra đường, rồi đi lượm là phước lớn sao thầy !- Người vá xe nhạy lại, rồi lắc đầu trách mình tự hành làm chi cho cực khổ.
Giờ này đã là chín giờ tối, nên đường vào cổng chùa hơi vắng vẻ. Thầy Chính Tâm tiếp tục chở ni cô Ngọc về chùa, bỗng nhiên thầy rẽ xe vào bụi chuối. Ni cô Ngọc không hiểu chuỵện nên định tát tay thầy, nhưng Thầy chỉ tay hướng về cổng chùa.
Hai bóng người khệ nệ khiêng mấy bao xi măng, thấp thoáng hướng ra đường băng ngang chỗ hai người. Thầy Chính Tâm đợi hai kẻ trộm đi khỏi mới lên tiếng :
-Cũng còn lời !
Ni cô Ngọc tưởng thầy dựa người vào mình nên tính toán, băng ra ngoài trách cứ :
-Thầy mất hai bao xi măng mà lời gì…
Thầy Chính Tâm không màng đến nỗi ngờ vực của ni cô Ngọc, từ từ giải thích :
- Hai anh em thằng Điệp và Lanh, mẹ nó muốn hai đứa đến chùa phụ hồ. Nhà nghèo mà làm công quả nữa thì tiền đâu mà xài, lấy trộm hai bao xi măng cũng có nỗi khổ tâm của nó. Ở ngoài phụ hồ một tháng chòm chèn cũng được một triệu, lấy hai bao xi măng bán ra cao lắm là một trăm ngàn. Tính ra chùa còn lời là như vậy…
Ni cô Ngọc vào trong gặp mấy sư bà cũng còn chúm chím cười, cách tính toán của thầy Chính Tâm lạ hoắc lạ huơ nhưng xét ra cũng có tính nhân nghĩa. Mấy bà sư liếc thấy cô cười thầm, nghi ngờ hai người cũng còn tình ý nên quở trách :
- Đi học đêm, mà còn đi chung…không sớm thì muộn chắc cũng…
- Hai chúng tôi định cưới nhau, nhưng phải dừng lại. Tình yêu cũng còn đó, nhưng quyết hy sinh để vào cửa Phật- Thầy Chính Tâm nói như đóng đinh.
- Thầy nói vậy, chúng tôi cũng an lòng…
Mấy sư bà biết chạm tự ái của Chính Tâm nên thôi không lo ngại điều gì nữa, lỡ như sau này Giáo hội Phật giáo, công nhận thầy là trụ trì thiệt thì bị “đì” quét lá đa chết luôn. Mấy sư bà xem ra cũng hơn thua nhau việc đó, nạnh hoẹ nhau ghê lắm.
Thầy Chính Tâm sang phòng đọc sách (cũng là phòng nghỉ ). Mấy bà sư đem theo thau nước mát để lau mình cho thầy Hạnh, mấy bà cỡi đồ thầy rồi cầu cứu Chính Tâm.
- Thầy phụ giùm chỗ này!
Thầy Chính Tâm choàng chiếc khăn ngang hông thầy Hạnh, rồi cỡi xiêm y phía dưới. Xong đâu đấy giao cho mấy bà sư nhúng khăn lau. Một bà lọ mọ nắm trúng phải cái khăn, cái khăn theo thau nước của bà không còn che chắn gì cho thầy Hạnh nữa cả. Ni cô Ngọc vừa sang, la “ái ái” rồi che mặt lại bỏ chạy. Chính Tâm chặc lưỡi, vừa lấy cái khăn che lại vừa hỏi:
- Lúc tôi chưa đến chùa thì các sư phải làm sao?
- Còn làm sao nữa…Thầy Hạnh bệnh thì phải lo thôi.
Mấy bà sư thừa nhận, rồi khoát tay ý bảo như chẳng có đáng gì. Ai cũng con cái đùm đề rồi mới tu, có chi lạ đâu nữa mà hỏi với han.
-Ở chùa có một căn hầm…Mấy sư có ai biết không?
- Căn hầm nào? Làm gì có nè…
- Không biết thầy Hạnh có biết không nhỉ?- Chính Tâm hỏi vu vơ, mấy bà sư cũng chẳng quan tâm.
Thầy Hạnh được chăm sóc như người còn sống, hằng ngày cũng được cho ăn và cũng tiểu tiện như người bình thường. Vợ thầy không chịu mang về nhà nuôi, mà cho là thầy là người của nhà chùa thì chùa lo. Các bà sư tu tại Liên Hoa Tự đều có nhiệm vụ chăm sóc thầy giống nhau, xem như đó là hành vi cứu nhân độ thế: “Cứu người bằng tu mấy kiếp”. Chính vì những ý nghĩ đó, mấy bà còn dành nhau chăm sóc thầy, chẳng thấy ai nề hà gì.
Gần như thầy ngủ li bì, thỉnh thoảng có he hé mắt chứ tay chân không có cử động nào. Chính Tâm nói chuyện đến đó, bỗng thấy tay thầy dịch sang một bên, hướng về phiến đá mà con Quy ủi vào. Như là chỉ điểm căn hầm dưới cây cột, nhưng ai cũng cho là vì để tay thầy không bằng phẳng nên nó bị rớt ra giường, nên không ai để ý nữa.
- Rõ ràng là tôi thấy tay thầy nhúc nhích- Thầy Chính Tâm nói với các sư bà.
- Có thầy nhúc nhích thì có- Mấy bà sư nhại, rồi bụm miệng cười- Cái tay bị nghiêng thì rớt ra thôi.
Thầy Chính Tâm cho là phải không quan tâm nữa, thầy chuẩn bị đi ngũ nên mấy bà sư phải về phòng.
- Sao cô không sang phụ giúp một tay?- Mấy bà sư trách cứ ni cô Ngọc.
Thầy Chính Tâm lắng nghe tiếng trả lời eo éo gì đó, rồi mỉm cười lăn sang một bên áp tay vào một bên má, bắt chước dáng Phật nằm. Gần đây, trước khi ngủ. Thầy thường hay nghiệm lại quá trình đến chùa tu niệm của mình, lý do gì mình đến cửa phật. Động lực của mình có chính đáng không? Hay tại vì mình có căn tu nên trời đất mới bày chuyện ra như vậy. Cái gì đã khiến mình đến đây, không biết kho báu có thật không? Mình thì đã đến chùa rồi, mà căn hầm đâu chưa thấy. Mình hiền chưa nhỉ? Hiền lành trời đất mới giúp, chắc là vậy nên mình cần phải tu thêm trời mới chỉ cho căn hầm. Hay là mình hứa đi…Thề chứ hứa gì, hứa không chắc bằng thề: Rằng nếu như mình tìm thấy được kho báu, mình sẽ không đụng đến một đồng, rằng số vàng đó mình đem xây cất chùa hết, rằng những gì của chúng sanh trả lại cho chúng sanh…Xin thề! ( Chính Tâm hồi nhỏ có vào đội Thiếu niên Nhi đồng, lẩm nhẩm rồi ngủ khi nào không hay).
Những người tu hành ít mộng mị, nhưng khả năng sáng tạo là do ở mỗi con người. Lúc thức thì ý thức kèm cặp tiềm thức, y như hàm y=f(x) (có x thì có y, có y thì có x). Nhưng lúc ngủ, thì chỉ có tiềm thức trôi nổi tự xác định x mà thôi. Nếu sáng nhớ lại nghiệm ấy thì xác định được y.
Thầy Chính Tâm cũng có những lý giải về các giấc chiêm bao, nhưng thầy tự ra đề toán không à. Ít ai hiểu theo cái cách của thầy, mấy sư bà hay than phiền như vậy. Họ nói già rồi học toán sao nổi nữa mà học, còn thầy Chính Tâm cho rằng hiểu như thế còn dễ hơn là thuộc kinh Phật. Thầy nói: “thà là học đại học còn dễ, chứ cứ tu lị tu lị ta hà ma, thầy cho là khó gấp mấy lần”. Đâu phải một câu một cuốn đó đâu, nào kinh Vu Lan, kinh Vu Bồn…………Nghe đâu tổng cộng có đến tám mươi bốn ngàn tạng kinh nữa chứ. Chính Tâm học thêm tiếng Hán để hiểu nghĩa Nôm, rồi mới nghĩa dân dã, còn lâu mới đạt cấp bậc cao tăng. Có khi cảm thấy chán chường, nhưng hy vọng tu nhanh lẹ nhất, phước lớn nhất chính là việc xây dựng chùa Liên Hoa Tự lớn nhất từ trước tới giờ. Bí mật căn hầm ở đâu đến giờ thầy Chính Tâm chưa rõ, thì làm sao tìm ra vàng? Không có vàng thì làm sao có tiền để xây cất, nên lúc nào thầy cũng băn khoăn lo nghĩ.
Nằm nghiêng đè lên cánh tay nghe tê cứng, nhưng mê ngủ ý thức sẽ chập chờn thì trí sáng tạo sẽ đưa lý do nào đó đánh lừa con người (xem như là có x thì y xác định). Chính Tâm thấy thầy Hạnh nắm tay mình kéo đi mà còn trách móc:
- Tôi đã chỉ tay cho thầy thấy căn hầm, sao thầy không theo. Nó nằm dưới cây cột kìa, thầy tưởng cây cột đó chịu lực thiệt à?
Chính tâm còn thấy thầy Hạnh kéo phiến đá ra, mình phụ giúp thì bị kẹt bàn tay phía dưới. Không bị đau lắm chỉ ê ẩm chút ít, miệng căn hầm hiện ra tối om không sao thấy có gì trong ấy. Chính Tâm nghe lành lạnh kéo tấm chăn đắp lên mình, giựt mình nhìn quanh thấy điện bị cúp, chỉ còn leo lét hai cây đèn cầy trên bàn thờ. Thầy biết là mình mới vừa chiêm bao, đưa cánh tay ra vào để cho máu lưu thông, rồi thầy sụp mắt ngủ tiếp. Tiếp theo giấc chiêm bao cũ, thầy cho là giấc chiêm bao hồi nãy chưa có nghĩa lý gì, tiếp tục đi…Thầy vừa gặng lại giấc chiêm bao, thì đúng là thầy lại thấy mộng mị tiếp. Thầy Hạnh dẫn thầy xuống căn hầm, chiếc đèn cầy trên bàn phật le lói làm thầy thấy căn hầm lúc được lúc không. Thầy Hạnh trước đây chưa hề đụng đến thanh kiếm, nên nó vẫn còn nằm yên ở đó. Chính Tâm quan tâm nhất là thanh kiếm, nên không để ý kinh kệ xung quanh. Thầy đến lấy thanh kiếm và cố tìm dấu vết trên chuôi kiếm, bản đồ trong chuôi. Thầy biết vậy mà thầy lọ mọ hoài cho đến sáng.
- Sáng chưng rồi, mà thầy vẫn còn nằm trong mùng chưa chịu thức!
Mấy bà sư đã quét sân xong đâu đấy và nấu ăn xong, nên trách thầy cũng đúng. Chính Tâm nằm nghiên miệng cũng còn để lại trên gối một vũng nước, hai tay gác lên đầu chân nhịp để kiểm nghiệm lại giấc chiêm bao. Thầy mĩm cười cho là mộng mị không có thật, xuất phát từ cái tay thầy Hạnh nhúc nhích thế mà cũng có một giấc chiêm bao lý thú. Thầy tung hai cái chân lên cao rồi bật ngồi dậy, tưởng không ai thấy nhưng một bà sư già đứng ngay chỗ giường thầy Hạnh nhìn qua, lắc đầu nguầy nguậy:
- Tôi chỉ sợ thầy bị gì đó, sợ giống thầy Hạnh.
- Một người thôi đủ mệt rồi! Hai người các sư bà lo xuể không? Thế mà cũng mong
- Thầy ơi! trễ giờ kinh kệ hết cả rồi…
- Hôm nay tôi bệnh…Tu cũng phải cho người ta nghĩ bệnh với chớ.
Thầy Chính Tâm thực sự còn ghiền giấc chiêm bao lắm. Bà sư già lắc đầu mặc kệ thầy, đến bên thầy Hạnh cho ăn:
- Tối qua chiêm bao, tôi thấy thầy Hạnh ngồi dậy nắm tay thầy đẩy xuống cái hầm nào đó. Tôi nghĩ là thầy Hạnh chôn sống thầy chứ?
- Sao?- Thầy Chính Tâm bật ngồi dậy- Sư bà cũng thấy như vậy nữa sao?
- Thành ra, tôi mới vào đây xem thầy còn thở không đó! Trưa trần trưa trật thế này rồi mà thầy chưa chịu thức.
- Ờ!- Thầy Chính Tâm leo ra mùng, chùi nước miếng dính trên mép, sơ ý chà lên cái đầu trọc- Tôi cũng có giấc chiêm bao giống bà, thấy cũng lạ nên nằm suy nghĩ tí xíu đó mà. Tu cũng hơi khổ thật, nằm nướng có chút xíu cũng không xong.
Thầy đi rửa mặt xúc miệng, vái lạy trời đất nghe người như giãn ra. Cánh tay của thầy cũng còn bị ê ẩm, cử động có phần khó khăn, thầy lẩm bẩm:
-Thôi mai mốt ngủ không bắt chước kiểu của Phật nữa…nhức quá.
Thầy Chính Tâm lòng vòng trong chánh điện, cứ nhích một ít là hướng đến giấc chiêm bao. Thầy trở lại căn phòng đọc sách, nhìn thầy Hạnh suy nghĩ giấc chiêm bao tiếp, rồi thầy thỏ thẻ đủ để thầy Hạnh nghe, tránh không cho mấy bà sư già biết bí mật:
- Thầy Hạnh ơi! Tôi cũng hối hận lắm vì để thầy ra nông nổi này! Tôi không lấy ni cô Ngọc đâu, mình phá con đường tu hạnh của người ta là tội lớn. Tôi đến đây tu luyện thiệt rồi đó. Lúc này tương đối đã hiền, ăn chay niệm phật, đọc kinh kệ cũng nhiều. Tôi cũng muốn xây chùa to đẹp nhưng không tìm ra được kho báu. Chuyện là thế này, vàng chôn trong vườn nhà tôi đấy ( mà cũng không biết có thiệt không nữa), nhưng phải có bản đồ mới biết chôn ở đâu. Muốn có bản đồ thì phải tìm thấy cây kiếm, bản đồ nằm trong chuôi kiếm. Mà cây kiếm thì nghe đâu ở trong căn hầm chùa Liên hoa Tự này, thầy có biết căn hầm không chỉ tôi với? Tôi hứa…À mà tôi đã thề với trời đất là đem hết số vàng kiếm được xây dựng một ngôi chùa hoành tráng, không đụng vào kho báu đó một đồng. Bây giờ tiền vật liệu nợ nần nhiều lắm rồi, ông bác người Nhật tôi không thấy trở lại, nhiều người đến đòi nợ hoài, không tịnh tâm tu hành cho được. Thầy biết căn hầm thầy chỉ tôi đi, biết đâu số vàng chôn ở vườn nhà tôi là có thật. Không biết có nên chia cho thầy không? Nhưng tôi hứa số vàng xây cất còn dư, tôi sẽ đưa thầy sang Singapor trị bệnh…
Chính Tâm thì thào bên tai thầy Hạnh, thầy he hé mi mắt rồi cụp lại. Ngón tay út khẽ rung rinh, Chính tâm nhìn kỹ thấy nó khẽ nhúc nhích, rồi cả cánh tay thầy rớt xuống giường y chang như hồi tối qua. Chính Tâm hướng nhìn theo cánh tay về phiến đá dưới chân cột, cũng y chang như giấc chiêm bao mình thấy.
Thầy đứng lên đi theo cánh tay đến đó, nhúc nhích phiến đá thử thì thấy nhẹ nhàng nên kéo ra ngoài. Cây cột to không còn chân đế chịu lực, để lộ một miệng hầm tối om.
- Chiêm bao mà có thật sao?- Thầy Chính Tâm hết sức bối rối, những gì thầy nhìn thấy tựa như đã thấy qua hồi đêm rồi.
Thầy lại khép cánh cửa phòng đọc sách lại, tựa như đang thay xiêm y. Lần xuống căn hầm, tìm thấy được thanh kiếm. Nhanh chóng thầy hiểu sau chuôi kiếm có thể vặn đuợc và quả đúng là có thể xoay ra được mấy vòng. Thầy mở ra và thấy có miếng da nhỏ cuộn trong đó, vẽ bằng mực tàu. Vị trí số vàng nhanh chóng được xác định, từ cây me già ra ba mươi bước chân, chiều sâu là ba mét. Số lượng được ghi nhận là 300 kí lô gam.
« Trời ! chỗ này đào hầm nuôi tôm rồi còn gì. Có khi nào bọn thợ đào đất lấy đi lúc đó ».
Chính Tâm vặn chuôi kiếm lại, để y về vị trí cũ. Anh ngắm nghía thanh kiếm một lúc có ý nghĩ sẽ mang lên khi nào chùa xây dựng xong. Trèo lên mau, bây giờ về lại nhà để tìm xem số vàng ấy có bị những người đào ao lấy được không ? Chính Tâm hết sức lo ngại chuyện đó, kiếm cớ với mấy bà sư rằng mình bị bệnh cần đi khám, rồi nhanh chóng rời chùa để về khu vườn.
Thầy Chính Tâm muốn giấu hết cả bí mật, duy nhất một mình. Ngay cả ông Hoàng Ánh cũng không muốn nói. Nhưng khi về nhà, gương mặt của thầy quá hân hoan, khó dấu được con mắt tinh đời của ông Hoàng Ánh :
- Tìm được căn hầm rồi à ? Có thấy cây kiếm không ?
- Đâu có đâu !- Thầy chối leo lẻo, không biết tu mà nói dóc như thế có được không. Thầy cố đóng kịch chỉ nhớ ông Hoàng Ánh nên mới về thăm- Con chiêm bao thấy cha trở thành phật, tự dưng con muốn về đây xem thôi.
- Thành Phật nghĩa là qui tiên rồi ! Cứ nói thế cho rồi…Tôi nghĩ, thầy mà biết được vị trí kho báu chắc là giấu kín, làm gì làm thầy nhớ chia đệ tử một ít dưỡng già.
- Có đâu !- Thầy Chính Tâm lại chối tiếp, rồi đi lại cái võng đưa tòn ten, mắt thì hướng về cây me già.
Ông Hoàng Ánh bắt nhãn :
- Ủa ? Chỗ cây me này sao ?
- Có đâu !- Thầy Chính Tâm lại hướng ra ngoài, không hiểu sao thầy chỉ ú ớ được câu nói đó thôi- Cha này ! Hồi đó mình đào ao sâu khoảng mấy thước ?
- Ao tôm đó hả ? Bắt tụi thợ đào ba mét, tụi nó thấy tui già ăn gian hết hai tấc. Sau này tôi đo lại, biết bị qua mặt tức cành hông…
- Vậy không chừng còn…
- Hả ? Số vàng nằm chỗ ao tôm hả, mình cũng hồ nghi chỗ đó lắm…
- Có đâu…
Thầy Chính Tâm lại chối, cứ nghĩ mình nói dối để giữ số vàng ấy xây chùa thì có dối cũng không sao. Thầy làm bộ khẽ nhắm mắt nghỉ ngơi trên chiếc võng, ngước mắt nhìn tương lai xa xôi. Ông Hoàng Ánh biết tẩy thầy Chính Tâm giấu diếm, ông tìm được cây sắt tròn dài, đi thẳng ra ao tôm mà xôm xuống đất. Thầy Chính Tâm đưa võng mà đứng ngồi không yên. Một lúc sau xôm tới xôm lui mấy bận mà không đụng vật cứng nào, ông trở vào mới tin là « Thầy » lúc này tu chắc là nói thật.
- Không thấy gì hết…Thầy ở đây nghỉ ngơi chừng nào thích về chùa thì về. Tôi đi nhấp nháp một ít cà phê …
Ông Hoàng Ánh ra đường. Thầy Chính Tâm nửa cố giấu nửa muốn la toáng lên rằng tại sao không thấy, nghĩa là tụi đào mương khi trước lấy đi rồi sao. Ba trăm kí lô vàng chứ ít sao. Chính Tâm cố chịu trận một lúc đợi cha mình đi xa, cũng e ngại ông quay về bất tử nên nhìn trước nhìn sau mới hành động. Thầy ra vuông tôm, đếm đúng số mét đã được ghi trong miếng da, rồi dùng cây sắt của ông Hoàng Ánh xôm lúc nãy. Một lúc sau, thầy không đụng được vật gì. Thầy nhớ đến trời phật, lặp lại lời hứa mà mình đã hứa, cho thầy thấy vàng là thầy sẽ thực thi.
Thầy cởi đồ ra nhãy xuống ao tôm, nhẩm kỹ vị trí mà mình đoán một lần nữa. Thầy nhớ lại lời ông Hoàng Ánh nói là bọn thợ ăn gian hết hai tất, nghĩa là chỉ cần xuống hai lớp len. Thầy lẩm nhẩm : « ai kêu ăn gian làm chi, phải chi đào đúng ba mét là thấy vàng rồi ». Thầy đào và van vái, số vàng vẫn yên lặng. Một lúc sau, thầy đụng một vật cứng mà trơn trợt. Thầy đưa lên xem, rửa đất bám trên đó, khối vàng thầy cầm sáng lóa dưới ánh nắng. Vàng không bị sét gĩ bao giờ, nó tựa như hơi thở của nhiều người. Như vậy số vàng chôn tại đất nhà mình là có thật...Đúng là ở hiền gặp vàng chứ không cần gặp lành, nhưng dứt khoát phải giấu nhẹm không một ai được biết.
- Bây giờ phải làm sao đây !- Thầy tính toán chi li- Làm sao tải số vàng này về chùa mới được.
Thầy vào nhà chứa củi, lấy chiếc xe cút kít ra. Mang vài thỏi vàng bỏ vào bao xi măng, rồi xúc cát lấp lên. Thầy đẩy về chùa, trên đường ai thấy cũng nghĩ thầy mang cát về xây tường rào.
Hai ngày sau, nghe ông Hoàng Ánh đi đám giỗ đến chiều mới về. Thầy lại tiếp tục tải vàng về chùa bằng cách ấy.
XIII
Thầy Chính Tâm âm thầm tha toàn bộ số vàng chôn trong vườn ông Hoàng Ánh về giấu trong căn hầm Liên Hoa Tự. Bí mật như thế nào mới là giữ kín nhất, thầy suy nghĩ nhiều về việc đó, nhưng không hiểu sao ông Hoàng Ánh vẫn bắt nhãn biết rõ tường tận :
- Đầu đuôi là nhờ đệ tử nói cho thầy biết chứ ai ! Thầy cho đệ tử vài ký để dưỡng già...
- Không có gì đâu...
- Thầy coi...Vuông tôm nhà mình chết sạch. Cứ hễ đi uống cá phê về là tôm nổi lềnh bềnh. Nếu ăn trộm vào thì bắt tôm, ai đời dậy sình lên rồi thôi...Ít nhất cũng gởi lại hao hụt phần tôm chết chứ.
Thầy Chính Tâm im lặng không nói gì, ông Hoàng Ánh càng lộn ruột :
- Bây giờ không cho là đệ tử bán đất.
Hồi trước Chính Tâm đòi bán đất bao nhiêu, ông cản trở. Bây giờ thì ngược lại, ông hù bán đất bấy nhiêu, còn thầy Chính Tâm thì nhót ruột :
- Thì cha cứ từ từ rồi tính.
- À ! Vậy là có vàng rồi phải không ? Chắc thầy tha về chùa giấu dưới căn hầm rồi chứ gì ? Thầy tin là đi thưa ra chính quyền, là tôi được hai mươi phần trăm còn thầy bị bắt đó...Tôi biết luật hết đó.
- Vàng đó là của trời phật cho, nên phải xây cất chùa mới được. Cha phải làm theo tâm nguyện của ông bác người Nhật.
- Thì vầy đi ! Đệ tử chút đĩnh còn bao nhiêu xây chùa...Đệ tử sẽ giấu kín bằng thôi, đệ tử làm như đã nói.
Thầy Chính Tâm biết khó mà giấu cha mình nên gật đầu đồng ý. Thầy ở ru rú trong phòng đọc sách làm các bà sư cũng ngạc nhiên hỏi han :
- Hổm rày hình như có cái gì trong phòng đó, thấy thầy cứ ở trong đó không à...
- Thì tôi cũng hay ra ngoài chứ bộ.
- Rồi thầy cũng vào liền.
Mấy bà sư cho thầy Hạnh ăn, cứ liếc mắt xem thầy Chính Tâm làm sao mà cứ ở trong phòng đọc sách hoài. Thầy Chính Tâm tìm cuốn sách Phật để đọc, cố không để cho các bà sư quan tâm nữa.
- Ngày mai, tôi có ý muốn lên thành phố. Các sư ở nhà trông chừng cẩn thận, không để cho người vào trong chùa. Nhất là vào phòng đọc sách, tôi sợ mất…ờ…mấy cuốn kinh.
- Thầy thường về nhà cả ngày, chúng tôi vẫn cứ ở đây có hề gì. Chùa mình cũng có gì quí giá nữa đâu mà sợ mất.
Thầy Chính Tâm liếc nhìn căn hầm cũng khó mà phát hiện nên yên tâm. Sáng ngày hôm sau dậy sớm hơn các bà sư, thầy đem bếp than đá mấy bà sư ủ còn lửa vào trong phòng tắm, bỏ vài cục than cứng thêm vào cho đỏ rực. Thầy lấy một thõi vàng đốt chảy ra, chia ra làm nhiều viên nhỏ.Việc bán vàng cũng rất khó khăn, nếu đem cả khối ra bán là người ta đồn ầm lên liền. Bán cũng phải bán thật xa, ra thị xã hoặc lên thành phố. Ở quê, đến mấy cây số cũng biết mặt nhau, ít người cúng tiền cho chùa, bỗng giàu nhanh là người ta nghi liền.
Thầy đi xe lên thành phố trong ngày hôm đó, mấy lần suýt bị lộ. Anh lơ xe cứ thấy cái bị dời tới dời lui mấy lần, rồi còn đẩy ra khỏi chân thầy :
- Cái gì mà nó cứ kêu sột soạt nhức đầu quá sư phụ ?
- À ! Mấy cục đá chứ gì…
- Đá gì mà nó kêu giống như kim khí, chắc đá quí hả ?
- Ừ !- Thầy Chính Tâm định gật đầu cho qua chuyện, nhưng người lơ xe cứ bám theo trêu trọc.
- Mấy sư thế nào cũng hay có ngọc quí, cho vài viên làm xâu chuỗi.
Anh ta định thò tay vào cái bị vải, bị thầy Chính tâm giằn lại :
- Kỳ ghê, đồ đạc người ta anh muốn là xin sao…Đá còn phải mài cho tròn, còn đục lỗ chưa chắc anh làm được.
Có cớ để ôm cái bị vào lòng, Thầy Chính Tâm mang nó sát vào người. Những người đi xa thấy anh lơ quá trớn, nên người một lời can gián :
-Trêu ghẹo thầy làm gì ! Đồ đạc của người ta mà anh lục lạo coi sao được.
Tay lơ hầm hầm có vẻ như chưa chịu phục, đến bến xe xù xì gì đó với mấy người xe ôm. Thầy Chính Tâm cảnh giác cao độ, nhưng cũng bị những người xe ôm giành giật cái bị :
- Đi xe này đi sư phụ ! Đi tới đâu sư phụ ?
Một người giành lấy cái bị, người kia thì giành người. Thầy hết sức rối trí :
- Đưa ngay cái bị đây. Tôi gọi anh công an kia bây giờ…
- Sư phụ dữ quá ! Sư phụ không đi thì thôi.- Người xe ôm quăng cái bị xuống đất, thầy Chính Tâm vội vàng ôm chầm vào lòng. Dứt khoát không để ai giựt mất lần nữa.
Thầy đi xe ôm đến một chợ nhỏ, nghĩ mình ăn bận đồ tu dễ bị ăn hiếp. Thầy vào trong mua vài bộ đồ thường, rồi tìm chỗ đi vệ sinh để thay đồ. Người gác cửa lấy tiền cười khúc khích :
- Mấy thầy ăn chơi cũng có cỡ lắm, có mấy ông vào đây thay đồ rồi ra ngoài. Tụi tui chứng kiến cái cảnh này miết rồi, không ai chịu đi chùa nữa.
Đến từng tiệm vàng, thầy bán lẻ từng nơi. Một người thử vàng xong, thắc mắc vì thường giao dịch bằng vàng miếng :
- Anh là dân đào vàng ở Quảng Nam hay sao ?
- Ờ- Thầy gật đầu, nhưng họ không chịu tin.
- Những người đào vàng ở đất Quảng dữ lắm, chứ anh đây trông hiền quá. Một cây mười triệu, đồng ý chứ !
- Ờ !
Họ vừa trả tiền thầy vừa gặng hỏi :
- Anh ơi còn nữa không vậy ?
Thấy trời quá đứng bóng, còn phải về. Cho nên Thầy Chính Tâm móc thêm ra một bụm. Hai người tiệm vàng người thử người trả tiền, nhanh chóng thầy cất tiền, rồi tìm chỗ thay đồ.
Lên thành phố mấy đợt cũng có khi nguy hiểm, một mình đi bán dễ bị theo dõi. Ai bước vào tiệm vàng ra mà không có cả chục triệu, trong khi thầy có cả tỉ trong túi áo, thật khó khăn vô cùng.
Việc đầu tiên thầy Chính Tâm mua là chiếc xe tay ga hiệu Piagio. Thầy đem về chùa cho ni cô Ngọc như đã hứa : « Ai tu ở chùa Liên Hoa Tự sẽ có chiếc tay ga ». Tuy miệng nói hướng về cửa phật nhưng trong lòng thầy khó mà dứt khoát được, tình cảm với ni cô Ngọc như một con ma ám ảnh trong lòng, cả hai người cần phải vượt qua.
Thầy chạy thử cho biết cách, rồi chỉ dạy lại cho ni cô Ngọc. Ni cô Ngọc lắc đầu, vì cho mình là người tu hành không được đi xe sang trọng (chúng sanh khó coi). Thầy Chính Tâm năn nỉ mãi :
- Tâm mình hướng về phật là tốt rồi, còn phương tiện chỉ là phương tiện...
Nghe thế, ni cô Ngọc nói :
- Chỉ chạy thử một vòng thôi đó.
Ni cô Ngọc leo lên, thầy Chính Tâm chạy bộ theo nói nhỏ :
- Đừng bóp thắng tay mặt, dễ té...
- Thắng này hả...- Ni cô Ngọc vừa nói vừa bóp. Cái thắng tay mặt là thắng trước, làm chiếc xe quay đầu quăng ni cô Ngọc xuống đường.
Chiếc xe bị chà xuống đường chóc sơn, thay vì đỡ ni cô Ngọc ngồi dậy. Thầy Chính Tâm lại dựng chiếc xe lên nhăn nhó :
- Hết din rồi !
Ni cô Ngọc ê mông, đứng lên rồi lại hỏi :
- Din là gì thầy ?
- Ờ ! là không còn như trước nữa....Nghe nè, chiếc xe này cho cô để đi học. Cô liệu mà chạy đấy.
- Tiền đâu mà thầy mua thế ? Hay là, hồi trước nghe thầy nói có vàng trong vườn nhà thầy, giờ thầy tìm được ?
- Hỏi chi ? Có lấy chạy không ?
- Thôi ! Hồi nãy chỉ nói chạy một vòng thôi...
- Thì nói lại...
- Vậy, chạy thêm một vòng nữa thôi đó.
Ni cô Ngọc leo lên làm lại. Lần này vững chãi hơn, cô chạy một vòng, rồi thấy sân chùa ngắn quá cô chạy ra ngoài. Bóp kèn inh ỏi làm mấy đứa nhỏ chơi trước cửa giạt sang hai bên, tiếng xe êm ái vút đi, chiếc áo cà sa tung bay trong gió nhìn rất đẹp.
- Mình đi ra chợ mua nhang luôn đó- Cô nói vọng vào, sợ ghé lại thầy lấy xe.
Ni cô Ngọc mê chiếc xe tay ga đó quá mức, một ngày cô tìm cớ đi ra đường mấy bận. Đến lúc hết xăng mới chịu dắt về, cô chưa biết chỗ đổ xăng ( cô quên hỏi thầy chuyện ấy). Cô không có tiền đổ xăng, mà xe tay ga mới mua chạy thử mãi thì khỏi nói, cứ vài giờ là thấy đèn đỏ nhấp nháy liên tục. Thầy Chính Tâm còn phải chịu khoản xăng ấy nữa, thế là ni cô Ngọc xuống học ở Quan âm học viện không còn đạp xe cọc cạch nữa. Các ni cô học ở đó rất cảm phục, thường là đi xe Trung Quốc, mong ngóng được phương tiện hợp thời như cô…Có ai đó có ý muốn về đầu quân cho chùa Liên Hoa Tự (để có xe đẹp đi học).
Ông Hoàng Ánh cứ rề rà than thở với thầy Chính Tâm : nào chân bị xưng khớp, nào tay bị trặc gân, nào ho gà, nào khan cổ. Ông phải có chút đỉnh tiền để mua thuốc thang, chứ con cái bỏ bê ông là tội lỗi. Ông rủa những đứa con mình tệ hại, tuy không nói đích danh ai nhưng trong đó có phần ám chỉ thầy Chính Tâm :
- Đệ tử nói thiệt nhe ! Cha mẹ mà mình không báo hiếu, có tu mấy kiếp cũng vậy.
Thầy Chính Tâm nghe qua khó chịu, mang trong túi ra một ít tiền rồi đưa cho ông :
- Gì ? Tờ này chỉ có hai chục ngàn à !
- Cha cầm đỡ đi, bao nhiêu đó mua thuốc đủ rồi !
- Tôi nghe thầy mua cho ni cô Ngọc một chiếc xe tay ga, có trên năm mươi triệu. Còn tôi thì thầy đối xử tàn tệ.
- Ni cô Ngọc là người ở chùa. Mai mốt ai cũng được xe tốt hết, không lẽ cất chùa to đẹp khang trang mà đi xe đạp bị trật sên hoài, coi sao được.
- Thầy gởi thêm chút đỉnh nữa đi, còn cà phê cà pháo nữa.
- Còn nhiều lần, chứ đâu phải lần này thôi đâu. Còn phải lo tiền khiếu kiện đất đai bị người ta lấn chiếm, phải gởi họ chút đĩnh để họ di dời. Còn phải lo làm sổ đỏ sổ hồng, rồi chuyển mục đích sử dụng đất, rồi còn xin giấy phép xây dựng, nhất là tiền vật tư xây dựng liệu không đủ đâu vô đâu.
- Khoảng bao nhiêu ký mà không đủ ?
- Có năm ký chứ nhiều sao ?
- Thầy đi tu mà thầy nói đệ tử không tin một tí nào. Không lẽ có năm ký mà Nhật đánh Pháp, rồi Pháp đánh Nhật tưng bừng.
- Ông nội người Nhật chỉ đem được ra vườn nhà có năm ký thôi.
- Thôi đưa hai chục đây, có còn hơn không ! Lần sau phải đưa hơn đó nghe....
Ông Hoàng Ánh đến giờ uống cà phê, giận lẫy lấy hai mươi ngàn bỏ túi rồi bỏ về. Thầy Chính Tâm băn khoăn không biết số tiền bán vàng đợt đầu tiên, xử lý như thế đúng chưa ? Thầy đến bên bàn Phật khấn vái :
- Nam mô a di đà Phật ! Phật phù hộ cho con xử lý sáng suốt. Tiền có nhiều cám dỗ con người ghê lắm, con e rằng con không cầm cự nổi. Tưởng rằng thu chi là chuyện bình thường thôi, nhưng chỉ trong mấy ngày con tiêu xài hết ba trăm triệu rồi mà chưa thấy làm được việc gì. Cần phải có người giám sát, lương tâm thôi chưa đủ nên con cần phải cầu Phật trời. Con không muốn cho ai biết, lại càng không muốn đem nộp cho nhà nước, nhiều quá người ta sẽ đem « tỉa » hết, đến lúc xây chùa chắc chỉ là cái miếu…Nam mô, Phật chỉ dạy cho con một nước cờ làm sao để được giàu thêm.
Thầy Chính Tâm van vái đến đó, rồi đứng dậy. Nhưng thấy mình vái lạy như thế chưa đủ, còn nhiều thứ lo khác nữa. Cái lo khác là làm sao giữ kín tuyệt đối, mà gần như cha mình biết quá phân nửa. Vàng để trong căn hầm như thế cũng chưa thể gọi là kín đáo, nếu ai đó vô tình thấy được cho là trước nay của chùa thì mất tất. Thầy tính toán phải làm sao chuyển đi nơi khác, phải gởi ngân hàng để lấy lời. Nhưng một mình thầy có cả đống vàng như thế thì làm sao đây ? Cuối cùng thầy nghĩ mình phải mua dụng cụ của mấy anh thợ làm bạc, chia nhỏ số vàng ấy ra rồi đem đi gởi.
Mấy ngày sau, thầy gợi ý mấy sư bà đi chơi vùng núi Cấm. Ở đó có mấy ngôi chùa lớn mấy bà rất thích, thầy nói là lo xe cộ cho họ và những chi tiêu vụn vặt thầy đều cho tiền :
-Ni cô Ngọc có đi không ?- Mấy bà nghi ngờ thầy có ý gì đó nên gặng hỏi.
- Cho đi luôn…Năm thuở mười thì mới có dịp thì nên đi cho biết.
- Thầy dạo này sao hay thích ở chùa một mình ! Còn ai cho thầy Hạnh ăn ?- Mấy sư bà bàn tán, cố giải mã những hành vi của thầy Chính Tâm cũng có phần hơi kỳ lạ.
- Mấy sư xưa nay ít đi đâu ! Tôi làm trụ trì chùa này phải tạo điều kiện cho các sư chứ…
- Hôm nay thầy xưng danh trụ trì, nghe cũng vui tai. Thôi, chúng tôi rất cám ơn thầy. Hứa là đi núi Cấm chuyến này về sẽ nghe thầy răm rắp.
Mấy bà sư quần áo cũng rất đẹp, vải tốt và được ủi thẳng nếp…âu nhờ tu ở chùa Liên Hoa Tự. Có gì vui là họ nói như thế, thầy Chính Tâm nghe rất vui. Lên xe, họ có phần xúc động trước sự lo toan « chính đáng » của vị trụ trì mới.
Suốt cả ngày hôm đó, Thầy ở nhà một mình cài cổng lại. Thầy nấu chảy số vàng khối ra thành từng miếng mõng, chờ dịp lên thành phố để gởi toàn bộ số vàng ấy vào ngân hàng. Công việc ấy cũng không phải dễ, vì cần thiết phải đi bao nhiêu lần và gởi bao nhiêu ngân hàng. Một chứng minh nhân dân gởi số lượng vàng quá lớn ắt sẽ bị người ta hỏi nguồn gốc số vàng ấy ở đâu ? Vì vậy cần phải gởi nhiều ngân hàng khác nhau và phải thật kín đáo.
Khi các ni cô đi núi Cấm về, ai cũng hứa là sẽ nghe lời thầy răm rắp.Thầy Chính Tâm suốt cả tháng trời, lên lên xuống xuống thành phố, đi như thoi đưa mà không một ai dám mở lời ( Hình như là đi núi Cấm về, như bị cấm nói cấm hỏi thì phải).
Có mấy tay cướp giựt rình rập, thấy thầy ngân hàng nào cũng có mặt. Một thằng lên tiếng :
- Tao thấy mầy ngân hàng nào cũng tới, đeo đuổi khách hàng như mầy chừng nào mới có ăn. Mầy phải đi hai thằng, một thằng vào trong như mày, mang theo cái điện thoại di động. Ai rút tiền thì gọi cho bạn, nghề này làm ăn một mình không được đâu.
Không hiểu sao hai tên khốn nghĩ Chính Tâm cũng giựt dọc như bọn chúng. May mà chúng nghĩ thế, chứ lúc nào xung quanh thầy cũng quấn vàng kín người. Thầy làm bộ rẽ vào phòng công an phường gần đó để hỏi đường, bọn chúng hoảng sợ bỏ chạy. Sau sự việc đó, thầy cực kỳ cẩn thận, luôn thay đổi hình dạng để không ai nhận ra mình.
XIV
Đài truyền hình thành phố truyền hình trực tiếp buổi bán đấu giá cây cảnh trong dịp tết nguyên đáng. Số tiền chệnh lệch của từ việc đấu giá sẽ trao cho « chương trình vì người nghèo ». Một cây Si cao khoảng mười thước, có tuổi thọ đến năm mươi năm, đang được các doanh nghiệp đẩy lên một trăm năm mươi triệu mà chưa ngã ngũ. Giá nhích lần hồi đến hai trăm triệu, rồi hai trăm hai, hai trăm rưỡi, hai trăm chín mươi chín, rồi qua ba trăm. Đến giá ba trăm thì giá nhích lên rất chậm và không ồn ào trước đó nữa. Có hai doanh nghiệp còn đeo đuổi mặt đỏ bừng, chầm chậm bỏ thêm chút ít vào giá, để mong chiếm hữu cây Si ấy :
- Ba trăm linh chín triệu…
- Ba trăm mười…
- Ba trăm mười một…
- Ba trăm mười một lần thứ nhất…
- Ba trăm mười một lần thứ hai…Có ai trả thêm không ạ ?
- Ba trăm mười ba…
- Ba trăm mười ba…Giá đã được nâng lên. Ba trăm mười ba triệu, có ai trả thêm không ạ ? Ba trăm mười ba triệu lần thứ nhất. Lần thứ hai…Ba trăm mười ba lần thứ…
- Năm trăm triệu…
Một người reo mức giá vượt cấp quá xa các doanh nghiệp ngồi sâu phía dưới. Tất cả đều quay lại nhìn, thấy có một người mặc bộ complê màu nâu, không biết người trẻ tuổi đầu trọc kia thuộc doanh nghiệp nào mà « hách » thế. Thầy Chính Tâm không mặc áo tu là để tránh sự tò mò của nhiều người vào mình, khẻ đưa tay ra hiệu cho nhiều người tin là lời rao giá ban nãy là của thầy :
- Năm trăm triệu…Tôi nói thật đấy…
Sau một lúc im lặng, tất cả bỗng như bừng tỉnh cho một tràng pháo tay miễn cưỡng (theo thể lệ). Hai người dẫn chương trình của đài truyền hình một lúc lâu mới nói được :
- Dạ…Thưa quí vị ! Đã có người ra giá đến năm trăm triệu. Có ai trả hơn không ạ…
Bên dưới im lặng không ai nói một lời nào. Người dẫn chương trình cũng rung rung, không biết thiệt hay kẻ kia bị « ấm đầu », nhưng cũng phải tuân theo lịch làm việc :
- Năm trăm triệu lần thứ nhất…
- Năm trăm triệu lần thứ hai…
- Năm trăm triệu lần thứ ba…
Tiếng vỗ tay vang dậy trường quay, mà cũng là tiếng vọng ép buộc người ra giá kia phải thực lòng lấy cây Si giá năm trăm triệu làm từ thiện. Những người nhà đài đến làm việc với thầy Chính Tâm, sau khi ký tên thầy chuyển ngay toàn bộ số tiền vào tài khoản của chương trình. Nhà báo bu quanh làm cho chương trình chộn rộn một lúc. Ai cũng muốn biết người mới mua cây Si nọ thuộc doanh nghiệp nào mà ghê gớm thế. Nhưng Thầy Chính Tâm không chịu cho biết quí doanh, thầy nói các nhà báo cứ tạm gọi thầy là « Liên Hoa ».
- Chắc ổng là người Hoa.
- Người Hoa sao nói tiếng Việt giỏi thế !
Hai người con gái chân dài ngồi cách đó không xa men lại gần, nước hoa thơm lộng, vẻ đẹp vô ngần :
- Ơi người trẻ tuổi giàu có…Anh thuộc nước nào ?
- Nước tương…ăn chay không à ?- Chính Tâm đáp lại. Bây giờ có tiền, ăn nói tầm bậy cũng nghe lọt tai.
Hai cô gái cười típ mắt, hàm răng đẹp và nụ cười hớp hồn người. Hai người có vẻ nhường nhịn cho nhau, rồi cô gái ngồi gần hơn không giấu được tình cảm trong lòng.
- Em có thể biết tên anh được không ?
- Anh đã giới thiệu tên Liên Hoa, các cô cứ gọi như thế.
- Anh mua được cây Si quí vô cùng. Tụi em muốn có bôi hình đứng cạnh đấy làm kỷ niệm, đương nhiên phải có anh cùng chụp.
- Hai cô tên là gì…
- Dạ ! Em là Liên Thuý, còn đây là Liên Hằng.
- Trùng hợp hay sao vậy ?
- Không có đâu anh ! Hai em mới đổi tên đó.
Chính Tâm vui vẻ đáp trả lại vài lời với hai người mẫu, tinh thần phấn khích khi gián tiếp làm một việc thiện vẫn còn đó. Hai cô người mẫu cứ quây lấy anh suốt, còn đòi về nhà cho biết. Chính Tâm nói mình ở tỉnh lên, họ thoạt đầu không tin. Họ hỏi khách sạn nào ở đâu ,vẻ vồn vập nhưng Chính Tâm không nói chỗ nào.
Sáng ngày hôm sau anh trở lại để mang cây Si về chùa, anh đã thấy hai người con gái ấy đứng chờ. Chính Tâm mới nói thật với họ :
- Thực sự tôi là người của nhà chùa, chứ không phải một doanh nghiệp giàu có nào.
Hai người mẫu như chết lặng, nhưng cũng muốn theo thầy cho biết nơi tu hành mới tin. Anh tắc-xi chở cả ba người về tỉnh, hai người mẫu thấy chùa nhỏ bé, cảm giác như thầy Chính Tâm chơi ngông. Hai người đốt nhang hết các bàn phật, cười đùa khúc khích như trêu ngươi những bức tượng. Họ ra ao sen cho cá ăn, con quy thấy người lạ không thèm màng đến, chậm rãi bò lê đi tìm mấy mầm non vừa nhú. Ni cô Ngọc đứng ngồi không yên, đến bên Chính Tâm thì thào :
- Thầy đang tu đó nghen…
Chính Tâm đã trở lại là thầy. Thầy thay chiếc áo lam mỏng nhẹ, trông hiền từ lại. Nghe ni cô Ngọc nói mà thầy không nhịn cười được :
- Cô cũng đang tu đó nghen…không để lòng được ghen ghét ai.
- Ai thèm ghen ghét…Chỉ vì hổm rày thầy đi thành phố, nay về có thêm hai cô gái xinh như hoa bám theo…e thầy mơ tưởng mà quên mình là người theo đạo. Xưa nay chưa thấy ni cô lấy chồng, chỉ thấy thầy bỏ đạo lấy vợ thì có…
Với giọng buồn rầu, ni cô Ngọc phàn nàn thầy Chính Tâm như thế. Nét yêu kiều của cô để lộ ra ngoài, thầy Chính Tâm phân vân trong lòng :
- Nếu lỡ như mình rời cửa phật thì vũ như cẩn
- Là sao ?
- Là vẫn như cũ…
Ni cô Ngọc hiểu và nhoẻn cười, thầy Chính Tâm chơi trò tâm lý thì phải. cô vui lắm nhưng hai người đã cố nén tình yêu chôn chặt vào tim, mà họ không thể nói ra được.
Cây Si được để ở khoảng sân nhỏ trước chùa. Hôm nay thầy tiếp tục đến vườn Hồng để mua thêm số cây quí.
- Sao ? Đi vườn Hồng Sa đéc hả ? Thầy cho chúng em đi với…
Ni cô Ngọc đứng phía trong cửa lắc tay, nhưng Thầy Chính Tâm không thấy, gật đầu một cách vô tình. Anh tắc xi hôm nay trúng mánh, lại tiếp tục được thầy bao xe đi chơi tiếp. Hai cô người mẫu trên xe luyến thoắng :
- Thầy ơi ! Mỗi lần thầy ra ngoài, đều thay đồ ra thấy thầy đẹp trai quá. Thầy ơi thầy tu hồi nhỏ hay mới tu…Còn chùa nhỏ đó có hồi nào vậy thầy ?
- Có ni cô trong chùa cũng xinh quá ! Thầy có bị thương nhớ không ?
Anh tắc xi lắc đầu :
- Mấy cô thật là lạ. Người tu không phải như người ngoài đâu, họ không màng đến dục vọng…
- Nhưng trời sinh ra là ai cũng thế. Thời buổi này tình yêu là trên hết, cũng như em nè. Em thương thầy ngay từ đầu, em không giấu diếm điều đó. Mình phải nói ra, còn gặp trắc trở gì đó tính sao ?
- Nhưng các cô cũng phải lựa người mà nói ra, đâu phải các cô đẹp nói ra là người ta mừng rỡ đâu-Anh Tắc xi can dự vào chuyện của hai cô gái đẹp.
Đến vườn Hồng Chính Tâm cũng chưa chịu mở lời. Thuỷ nhìn thấy « anh » cùng bước ra với hai người con gái đẹp như hằng nga, vội chạy vào trong thay bộ đồ đẹp nhất :
- Anh Chính Tâm, dạo này anh khoẻ chứ ?
- Chắc thầy đến đây nhiều lần sao có vẻ chân tình thế ?- Đến phiên hai cô gái ghen tuông- Thầy ra ngoài không mặc áo cà sa là con gái quây lấy ngay đó.
Thuỷ ngạc nhiên, hỏi lại :
- Ủa ? Sao gọi là thầy…
Chính Tâm im lặng không trả lời câu nào. Lúc bấy giờ có một đoàn du lịch do công ty du lịch của tỉnh Đồng Tháp đưa đến (Vườn Hồng chẳng bao giờ vắng khách vãng lai). Trong mục du lịch của tỉnh, vườn Hồng là nơi khách chuộng nhất. Những người du lịch có tất cả sáu người. Bốn người phương tây; một người Hàn quốc và một người Đài Loan. Họ đang tiến theo người hướng dẫn, anh này đang tìm người để xin liên hệ tham quan.
Sau đó, tất cả các người nước ngoài vào trong vườn và họ chụp hình chung với nhau để làm kỷ niệm. Một cô gái Pháp trầm trồ:
- Très bien. C est excellent! ( Rất đẹp)
Người Đài Loan, anh ta tên là Vương Lâm (wáng lín) đang nhìn quanh tìm cây cảnh đẹp. Anh liền nói lại với người bạn Hàn quốc, bằng tiếng Hoa phổ thông:
- Jin han xu, wo you gongzuo! Ni zai zher . ( Kim Hán Tư, Tôi có công việc! Anh ở đây chơi).
Kim Hán tư là người Hàn gốc lai Hoa kiều. Anh là người “làm ăn” cùng với Vương Lâm, định sang “thị trường” Angiêri. Song được Vương Lâm thuyết phục Kim Hán Tư đến “thị trường” Việt Nam, vì họ biết được rành rẽ lịch sử ngàn năm của người Việt:
- Mei guan xi, ni chusu san san bà ma? ( Không hề gì, anh muốn ra ngoài tản bộ à?)
- Mei you, wo kan ai rén de. Ta zai zher…: ( Không có, Tôi gặp người yêu của tôi. Cô ấy đang ở đây…)
-Shi a… ta kan zen me yang? Ta shi ye nán rén ma? Nì jieshào ýixiar ba! (vậy à…cô ấy xem như thế nào? Cô ấy là người Việt Nam phải không? Anh giới thiệu một chút nha!)
- Hào! ( Được).
Liên Thuý cũng nhận ra Vương Lâm đang tiến bước về phía mình. Nàng chào:
- Nì hào! ( Chào anh).
- Nì hào!( Chào em).
- Nì senti hao ma? (Anh có khoẻ không?)
- Hen hào! Nì ne? (Rất khoẻ, còn em).
- Wo ye hen hao! (Em cũng rất khoẻ).
Hai người làm “thủ tục” yêu đương trước mặt mọi người, hôn nhau thật thắm thiết. Vương Lâm hết sức ngạc nhiên hỏi, Liên Thuý vì sao có mặt ở đây. Cô nàng hất hàm về phía Chính Tâm, một vài câu tiếng Hoa:
- Anh ta là người có rất nhiều vàng, cần phải tìm hiểu).
- Wei sén me, nì ne ( Vì sao em biết).
- Anh ta là người buôn bán vàng cho gia đình em.
Hai người cứ tưởng Thuỷ không biết tiếng Hoa, nên khi cô bước lại gần nghe hết.
- Mời anh chị vào trong nhà uống nước.
Cô rót nước cho khách, ái ngại nhìn Chính Tâm một lúc lâu: “ Sao anh lại đi tu, có phải vì mình không ưng thuận lấy anh không? Lúc trước cũng nghe anh nói có vàng, giờ anh đang có người muốn hại đó”. Cô không biết phải trao đổi với Chính Tâm thế nào, họ muốn làm gì anh vậy?
Chính Tâm bàn bạc với ông năm Chang giá cả một số loại cây, anh nói rằng anh sẽ mua hết với giá mà ông năm đưa ra, với điều kiện cho người chuyên chở về chùa. Ông năm thắc mắc vô cùng: Một là, vì sao anh có tiền nhiều thế; Hai là, anh đã đi tu rồi sao?
- Trời phật thương!- Chính Tâm trả lời có thế, rồi đi vào vườn cây ngắm cảnh.
Cái cảnh nàng công chúa bịn rịn tương tư lặp lại. Thuỷ quyến luyến bên Chính Tâm muốn thổ lộ điều gì. Cô hỏi anh:
- Có phải vì em mà anh đi tu không?
- Nam mô…Chuyện đã qua cần phải cho qua…Con người phải hướng nhìn về phía trước.
- Hai người kia, theo em thì họ không tốt với …anh…à…thầy. Họ nói với nhau rằng thầy có nhiều vàng. Người Đài Loan kia còn nói rằng, người Nhật Bổn trước đây chôn giấu vàng ở đâu chưa ai biết. Họ có vẻ theo dõi thầy đấy.
- Họ mắc nợ với trời phật, họ phải trả đấy thôi…
Thầy Chính Tâm nói thế và không quan tâm đến những ai nữa. Sau khi đem số cây cảnh đã mua về chùa, hai người mẫu theo đoàn du lịch không còn theo thầy về chùa nữa. Thuỷ cùng với mấy người làm công đưa cây cảnh xuống tận nơi, cô gặp ni cô Ngọc, rồi có ý như muốn nói là tu hành như ni cô Ngọc tâm can nghe nhẹ nhàng quá. Cô buột miệng:
- Sao em cũng muốn đi tu quá!
Ni cô Ngọc mỉm cười, hỏi thêm vài chuyện:
- Thầy Chính Tâm có nói gì với em mà em đòi tu hành…
- Đâu có nói gì…Ảnh…à mà thầy chỉ mua giúp cho ba em số cây kiểng này thôi.
Ni cô Ngọc tạm biệt Thuỷ, khen thầm cô ấy giỏi giang, thông minh mà lại có ý muốn hướng về cửa phật. Giáo lý Phật quả là rộng đường, nhiều đường hướng chiêu mộ chúng sanh. Ni cô Ngọc cúi đầu tâm niệm, cô hiểu mọi việc đều do trời sắp đặt: âu cũng là duyên số.
XV
Để có một bản thiết kế hoàn hảo, thầy Chính Tâm mong muốn đi một chuyến từ bắc chí nam, xem qua các chùa nổi tiếng. Trước khi đi, thầy không quên làm cho ni cô Ngọc một xâu chuổi mạ vàng. Cô có thể thắt gọn lại để đeo vào cổ cho đẹp mà cũng có thể lần từng hạt để niệm phật. Tội nghiệp ni cô Ngọc từ nhỏ tới lớn chưa biết đến một chút trang sức nào, gương mặt của cô đỏ tươi dù đã cố gắng tịnh tâm:
- Thầy ơi! Mình tu mà thầy…
- Không sao đâu, ai có lòng hướng về phật là đủ rồi. Sau này (lúc chùa xây mới), nữ tu cũng được làm đẹp.
- Thầy nói thiệt chứ!
- Từ hồi mình tu tới giờ, sao ai cũng đặt câu hỏi như vậy với mình. Bộ mình nói dóc nhiều quá sao ấy!- Thầy làm bộ cằn nhằn, trong lòng không hề giận ni cô Ngọc một chút nào- Xem kia, Phật bà Quan âm cũng được vẽ mặt rất trắng, son môi đỏ tươi. Vậy tại sao, ni cô phải là những người tàn tạ. Ta đi tu, chứ đâu phải vào tù…
- Dạ! Em hiểu rồi…
- Gì!...
- Dạ! Dạ… Đệ tử hiểu rồi!
Ni cô Ngọc đeo xâu chuổi vào, cổ áo nhấp nhánh tia nắng mặt trời đẹp hẳn ra. Cô cúi lạy phật bà phù hộ, rồi vẫy tay tạm biệt thầy Chính Tâm lên đường du ngoạn từ bắc chí nam.
Lần đầu tiên đi bằng máy bay, bồng bềnh trên những đám mây bay. Thầy nghĩ đến lúc đắc đạo chắc cũng được cảm giác như thế này, nhưng làm gì làm thầy vẫn mong mình được nhanh chóng xuống đất.
Đến Hà Nội, thầy dạo quanh Hồ Gươm lòng ước gì có ni cô Ngọc theo cùng để cùng ngồi bên bờ hồ xem Tháp Rùa. Đôi khi ý nghĩ bỏ đạo lé lên nhưng bây giờ thầy có cảm giác như có ai đó giám sát:
- “Phật” chứ ai!- Thầy Chính Tâm ngước ngước nhìn lên trời, không dám nghĩ viển vông nữa- Đi theo rồi ăn ngủ sao đây?
Thầy bịn rịn thêm chút xíu nữa, rồi lo lắng với những lời dị nghị.
Xem Tháp Rùa xong, thầy đi xem chùa Một Cột, ý nghĩ chùa được xây trên chữ Song Hỉ không bỏ qua, vẫn tiếc nuối kiểu kiến trúc ấy. Thầy nghĩ: “ Cũng vì chữ tình mình qui y, kiểu kiến trúc như dự định là hợp lòng rồi. Phía trên như là chùa Một Cột chứ không xây tháp cao thêm làm gì nữa. Cho nên, thầy đi ra Hà Nội chứ không ghé Huế xem chùa Thiên Mụ, hoặc chùa Hoằng Pháp hay chùa Vĩnh Nghiêm ở thành phố Hồ Chí Minh.
Ở Bình Dương nghe có người đang tiến hành xây chùa lớn lắm, chắc thầy không thể bằng. Nên kiểu kiến trúc nào là độc đáo mới quan trọng, thầy nghĩ mình đã nghĩ ra được kiểu kiến trúc hay.
Sau khi đã phác thảo bản vẽ kỹ lưỡng, nhờ kiến trúc sư vẽ lại, Thầy xin phép chính quyền chỉ có hơn hai tháng là đã có giấy phép xây dựng. Cho nên tiến hành ngay việc xây cất. Ai ai cũng thắc mắc, người ta không thấy ông bác người Nhật của thầy đâu nữa. Vậy tiền đâu thầy xây dựng chùa to đẹp như thế.
Nhắc lại Vương Lâm: Anh ta tìm được đến vườn ông Hoàng Ánh, đo đạc từ gốc me ra, rồi khẳng định:
- Ở dưới cái ao có vàng!
Ông Hoàng Ánh cực kỳ thán phục, rồi nhảy xuống ao tôm quậy tôm chết sạch.
- Hồi trước, có mướn một số thợ đào đất. Chắc là bị bọn họ cuỗm hết số vàng đó rồi.
Ông Hoàng Ánh thoạt đầu muốn tìm xem vàng còn sót lại tí nào không? Ông mò mãi mà không thấy. Người cha từng bắt chước chuyện cổ tích, bịa cho con mình đất nhà ta có vàng để nó cày xới, thì nay lại xục xạo trông thấy mà thương. Ông không thấy sót lại một miếng nào, nhưng tình thương con vẫn còn đó nên ông đổ thừa bọn thợ đào đất.
Không hiểu vì sao ở đâu lọ mọ đến đây, hết người Nhật rồi Đài Loan và anh Hàn Quốc nọ, đều nói vườn nhà ông có vàng mà đến giờ ông không thấy một tí nào. Ông vui rồi giận, rồi lại lo. Nhưng tóm lại là chuyện thế nào?
Vương Lâm học khoa lịch sử Đông dương học, nắm rõ lịch sử chiến tranh của các dân tộc thường có những mất mát, đồng thời cũng bị hao hụt số của cải tích luỹ trước đó. Anh và Kim Hán Tư rất thành công trong việc truy tìm kho báu ở Hàn Quốc cũng như tại Đài Loan, trả về cho nhà nước và được thưởng công rất xứng đáng.Theo họ: Một quân đội nước nào đó, đánh chiếm nước khác chắc chắn sẽ tìm kiếm những gì quí giá của nước đó, thâu tóm đem về nước mình. Quân đội Nhật vào Việt Nam lật đổ Pháp có nằm ngoài qui luật ấy không? Theo sự nghi hoặc của nhiều người thì cho là không. Trong hai năm hiện diện trên bán đảo Đông dương, họ có kịp thâu tóm và thâu tóm bao nhiêu? Những chuyên gia nghiên cứu về vấn đề này đều rất muốn biết, ngoài ra họ cũng muốn biết là người Nhật có kịp đem những thứ quí giá về nước hay không? Tình hình lúc đó, thế giới nhanh chóng thay đổi cục diện, người Nhật đầu hàng đồng minh. Theo dõi số lính Nhật về nước gần như họ trần trụi, vậy thì “kho báu” nếu có thì họ phải chôn dấu lại . Vậy cần tìm xem họ chôn ở đâu.
Năm 1945, ở miền bắc bị đói kém, chỉ ở miền nam (ngay từ đầu) đã là thuộc địa của Pháp và cũng là nơi giàu có nhất. Nếu vậy thì số vàng có thể gom góp chỉ có thể ở đây mà thôi. Vậy thì, nơi nào người Nhật chiếm đóng ở miền nam ắt sẽ phải gom góp số vàng về nơi đồn trú. Nếu như không đem ra khỏi miền nam kịp thời, thì sẽ chôn giấu những nơi gần đó, đợi có dịp sẽ mang đi.
Nay, hai người cũng truy tông tích được một số tài liệu cho phép khẳng định: Người Nhật đã thu gom số lượng vàng khá lớn của người Việt Nam và không thể mang về. Theo sự khoanh vùng, hai người cho rằng khoãng giữa hai vùng Sa Đéc và Vĩnh Long, nơi ấy có tích luỹ vàng. Vấn đề là chôn ở đâu mới là quan trọng.
Vương Lâm sang Nhật tìm gặp những cựu lính năm xưa, những người này kể lại, rằng ông Takeru Yamato: rằng ông có quen một người con gái Việt Nam, rằng mỗi lần ông đi thăm cô gái ấy có mang theo một số lượng vàng lớn và có khi nhờ họ phụ giúp một ít đến đó (Theo họ thì ông chôn ở đấy). Một vài người phụ giúp của ông Yamato còn phác thảo bản đồ, nhưng lại không ghi nhận số lượng là bao nhiêu.
Vương Lâm đến Việt Nam trên một năm rưỡi và quen thân nhiều tiệm vàng. LiênThuý là con gái của một tiệm vàng khá nổi tiếng, hai người quen biết nhau rồi yêu nhau. Họ lý giải rằng, nếu trong dân gian ai đó tìm được một số lượng vàng ấy sẽ mang lên các tiệm vàng thành phố bán, tức nhiên theo thời gian thì sẽ quen tay mà bán ra số lượng vàng lớn. Nắm bắt người đó thì sẽ nắm được manh mối, có được manh mối thì tìm kho báu không khó. Chính Tâm là người họ quan tâm.
Đến chùa họ doạ hỏi câu chuyện năm xưa là Sư Thích Quang Thanh có cứu một người Nhật, rằng có phải chùa Liên Hoa là nơi ấy, rằng thầy Chính Tâm là con của ông Hoàng Ánh. Vậy ông có biết qua số vàng mà lính Nhật chôn giấu?
Qua lời dịch thuật của Liên Thuý, Vương Lâm phân bua:
- Bác ơi! Chúng con đến đây là vì yếu tố lịch sử đã đè nén nhân dân Việt Nam đến cùng cực, mong rằng những việc làm của chúng con trả lại cho đau khổ mất mát của người thời đó gánh chịu. Đó là những gì chúng con làm được việc truy tìm tung tích của số vàng, đã lần ra manh mối đến tận nơi đây. Sự việc đã rõ ràng như ban ngày rồi, bác có cố giấu đầu cũng lòi đuôi thôi ạ.Thầy Chính Tâm là con của bác, người này đến thành phố bán vàng với một số lượng lớn, còn mua cây kiểng với khoản tiền chi rất rộng rãi. Chắc chắn thầy đã mang được vàng lên rồi, không lẽ bác không biết. Chúng con là những người đến sau, nhưng số vàng kia vẫn chưa ngã ngũ thuộc về ai. Mong rằng mọi người sống theo luật định.
Ông Hoàng Ánh lắc tay lắc đầu miệng không mở lời nào, thực lòng ông tức anh ách. Theo lời của những người xa lạ này, thì Chính Tâm bán số lượng vàng lớn mà chỉ đưa ông có hai mươi ngàn thôi. Còn Vương Lâm cứ nghĩ là ông không chịu chỉ ra (mà cũng là đuơng nhiên- Anh nghĩ thường phải dùng biện pháp nào đó theo luật định, cứ đấu tranh tư tưởng khó mà đạt).
Sau khi tìm kiếm “không có”, Vương Lâm cùng Liên Thuý và Kim Hán Tư về thành phố tìm hướng đối phó. Còn ông Hoàng Ánh nhanh chóng đến chùa nói thẳng với Chính Tâm:
- Thầy phải để đệ tử khai báo với nhà nước, họ sẽ tính công của cho đệ tử. Bây giờ đâu còn một mình chúng ta biết số vàng ấy nữa, mà còn có mấy người kia. Nếu họ kể ra với chính quyền nhà nước thì số lượng vàng kia sẽ chia phần trăm cho họ đó. Coi như là mình mất sạch, không những thế có khi còn ở tù mọt gông.
Tìm ra kho báu mà không đem trình diện nhà nước là có tội, nếu đem nộp lại cho nhà nước thì chiếu theo luật sẽ được 20% trên tổng số ấy. Chính Tâm cũng biết luật lệ là như thế, nhưng thầy băn khoăn rằng: Từ mong mỏi của ông bác người Nhật là muốn lấy số vàng ấy xây dựng chùa, từ những lời van vái của anh trước Đức Phật cũng vậy, từ tâm nguyện của bà con trong vùng. Thế cho nên thầy không đem nộp lại cho nhà nước, nhưng giữ kín xem qua quá khó. Thầy Chính Tâm biết mọi thứ sẽ vỡ lở, cho nên quyết nhanh chóng xây dựng chùa. Để khi có bị lộ tẩy, thì không ai có thể tịch biên ngôi chùa được.
Những ngày sau đó, thầu khởi công xây dựng móng chùa. Các thợ làm ngày làm đêm như các công trình trọng điểm quốc gia của nhà nước, sau vài tuần đã lồ lộ phần móng lớn nửa sân bóng đá.
Lúc này, ông Hoàng Ánh tính hơn tính thiệt thế nào đó. Ông quyết định viết đơn gởi đi. Chính quyền địa phương nhận được đơn khiếu nại của ông Hoàng Ánh, về nguồn gốc tiền xây chùa có xuất xứ từ vườn nhà ông, rằng số vàng được chôn bị thầy Chính Tâm chuyển về chùa, rằng ông có quyền định đoạt số vàng đó.
- Tôi lấy số vàng đó được, tôi đưa hết cho nhà nước tám mươi phần trăm. Già rồi giữ nhiều làm gì.
Tuy ông nói vậy, nhưng ai nghe cũng thấy ông tiêng tiếc. Một người hỏi:
- Có vàng trong vườn không biết giữ, ông còn nói giọng trên nữa. E là ông không có gì tất.
- Tại tôi chưa muốn lấy lên sài, ai dè…
Ông Hoàng Ánh cù cưa trong lúc nộp đơn, nhưng ông không chứng minh được số vàng ấy có từ đâu, và không biết số lượng là bao nhiêu.Chính quyền rất lúng túng vì tạm dừng công việc xây dựng chùa lại để xác minh, là việc hết sức nhạy cảm (dễ hiểu nhầm là cản trở tự do tín ngưỡng của công dân). Cho nên cần có những bằng chứng xác đáng, cho đến khi Vương Lâm cùng dẫn luật sư đến.
Vương Lâm tìm được một người luật sư, theo như đơn trình bày của họ có nhiều bằng chứng cụ thể hơn, rằng số vàng có xuất xứ từ thời chiến tranh thế giới thứ hai: do người Nhật chôn giấu tại sân vườn nhà ông Hoàng Ánh. Số vàng ấy do người Pháp áp bức và cướp bóc của người dân Việt Nam, nên cần phải trả số vàng đó về lại cho người dân. Theo luật người tìm ra nguồn gốc số vàng đó trao lại cho nhà nước sẽ được hưởng 20%, ước lượng có đến 500 kí-lô-gam.
Ông Hoàng Ánh thì cho vàng chôn ở đâu thì thuộc về quyền quyết định của người đó. Ông nghe có đến 500 kí-lô-gam vàng thì ông đưa ra giao kèo, mỗi người phân nữa.
- Tôi theo các anh- Ông Hoàng Ánh giọng run run đề nghị hợp tác, ông sợ mình thua vì họ có cả luật sư nữa cơ- Tụi mình chia hai nha…
Trong khi đó, Vương Lâm đã quá nhiều tốn kém và chỉ muốn căn cứ theo luật định, rằng cho đó là do anh tìm ra dấu vết, nên anh ta có quyền hưởng phần trăm. Vương Lâm mong chính quyền cho anh số chứng minh nhân dân của Chính Tâm, để anh cùng luật sư nhờ các ngân hàng truy ra số lượng vàng mà thầy Chính Tâm gởi lại các ngân hàng. Vấn đề là ngân hàng có hợp tác với họ không? Theo luật lệ họ cần giữ kín tên tuổi của khách hàng nên Vương Lâm bị từ chối. Thế là, Vương Lâm không có được số liệu để khẳng định số vàng có đến 500 kí-lô-gam như mình thu thập được, chỉ mong chờ sự can thiệp của chính quyền.
Chính quyền cho dừng công việc xây dựng là việc cực chẳng đã phải làm, để xác minh nguồn tiền mà thầy Chính Tâm chi cho việc xây dựng chùa có đúng là số vàng chôn trong nhà ông Hoàng Ánh không?
XV
- Hở một chút là hội, một chút là họp- Nhóm thợ hồ manh động, cảm thấy dừng việc xây cất họ sẽ đói, nên phàn nàn. Họ đòi tuyệt thực, nhưng mới có nhịn ăn sáng mà tay chân bủn rủn cả.
Hai anh em thằng Điệp và Lanh thì khác, biết được thầy Chính Tâm có nhiều tiền mà còn bắt làm công quả, nên có phần đâm thọc:
- Nuốt không trôi đâu thầy ơi! Bây giờ ai cũng biết hết rồi, phải trả lại thôi…Nhà nước còn phải lo cho người nghèo nữa, như nhà tụi tui đó.
- Hai em làm ở đây được mấy tháng rồi?- Thầy Chính Tâm hỏi hai đứa nó.
- Có hơn năm tháng…
Thầy Chính Tâm nói sẽ cho họ truy lãnh, và căn dặn rằng không ai được ăn cắp xi măng nữa. Hai anh em nói sao thầy biết vị lai quá khứ hết vậy, cảm giác hết sức e dè. (Từ đó có người đồn thổi thầy biết trước được nhãn tiền).
Nhân dân trong vùng nghe đồn đãi chùa Liên Hoa Tự đang xây cất bị chính quyền bắt dừng lại có phần không hài lòng. Họ mong chờ ngôi chùa to đẹp, khang trang từng ngày từng giờ. Ước mong bấy lâu nay gần thành hiện thực thì như bị cản trở, khát khao mù mờ không biết phải trái gì nên nói vịt tẹt:
- Bây giờ, nhà nước ai mà cho tu. Họ làm khó làm dễ là đúng rồi…
Người khác thì bảo:
- Ai thấy vàng cũng giành lẽ phải về phía mình, còn thầy Chính Tâm sao họ không tính tới. Trong khi người ta đã tìm thấy vàng, đem lên cất giấu trong ngân hàng rồi, thì không ai kể đến, kỳ lạ là ở chỗ đó.
Chùa rất đông đảo bà con kéo đến phản đối việc dừng xây cất, cho nên cuộc họp tổ chức tại chùa xem ra dư luận có phần nghiên về Chính Tâm. Họ còn đưa ra những lý lẽ xem ra xác thực:
- Để cho nhà nước thấy: Tham nhũng tràn lan, thì ai tìm ra kho báu cũng không muốn đem nộp. Xem coi ai lỗ, ai lời…
- Chu choa…Không biết đất nhà tôi có vàng không, liệu hồn kẻo bán là lỗ nặng.
- Nghe nói còn hai trăm kí lô vàng chưa xác định, đất tôi bán rồi hy vọng là đừng chôn ở đó.
Ông Hoàng Ánh đi tới, nhiều người khinh khỉnh nhìn ông với vẻ chán nản. Hôm nay ông xịt chút ít keo lên tóc như đuôi vịt xiêm, nghĩ mình cần phải diện một ít mới đấu lại hai người Đài Loan và Hàn Quốc ( Cả hai đều đẹp trai như trong phim). Mọi người đang bàn bạc, ngứa miệng đẩy luôn:
- Chơi đầu đinh mà còn xịt keo nữa nha! Chấm chút son đỏ trên trán cho vịt có chổ ỉa nữa chớ…
- Ai đời làm cha mà đi giành của với thằng con.
Ông hầm hầm, ưỡn người đi thẳng: “ rồi bây sẽ biết tay ta, họp xong là ta có vàng đầy mình…Cái lỗ đít vịt cũng có giá”. Ông đắt thắng và cho là không cần trả treo ai. Những ngày qua, thỉnh thoảng ông đưa võng nghĩ ngợi sau khi hưởng 20% số vàng kia ông sẽ làm gì. Nghe tê tái trong người vô cùng, cảm giác lâng lâng đê mê. Ông dự định không khác gì bọn trai trẻ, mua một chiếc xe tay ga mắc nhất và…và…cũng phải có đôi có lứa nữa. Sự chọn lựa lung tung trong đầu: Lúc đầu một người còn sồn sồn, sau tính tới tính lui sao đó ông nghĩ mình phải lấy một cô bé dễ thương thôi. Cả xóm, con gái nào ông cũng lướt qua, rồi cả xóm tất cả đều bị loại.
- Phải đi đâu đó xa xa, ở đây khi dễ mình chứ gì…Không một ai được hưởng tất.
Đu đưa trên chiếc võng, những ngày qua là những ngày ông Hoàng Ánh “lên voi xuống chó” đều đều. Có lúc ông cũng thất vọng, nhưng người ta nhận ra bản chất của mình là lúc xuống lỗ. “ Còn sống là còn chiến đấu”, sáng đi họp tinh thần của ông như thế.
Trong chùa chỉ có một cái bàn vuông vứt, thầy Chính Tâm chưa muốn mua đồ đạc sớm. Số người ngồi bốn góc gồm có: Hai người đại diện chính quyền đứng đối mặt xuống, hai cha con ông Hoàng Ánh ngồi đối diện với hai người Đài Loan và Hàn Quốc (phía sau lưng họ là Liên Thuý và Luật sư) và góc còn lại chừa cho nhân dân ngồi dưới gạch nhìn lên.
- Khai đao…
Ai đó nóng nảy chờ đợi lâu quá thốt lên, những người ở trên nghênh nhau cũng có chút thư giản.
- Ai muốn khai đao tôi khai cho- Anh công an hầm hầm- Chổ này cho mấy anh giỡn chơi hả? Có ghiền phim Bao công quá thì về nhà coi đi. Ở đây là cuộc họp xem xét mấy đơn thưa của bác Hoàng Ánh và hai người ngoại quốc này. Cả hai nội dung đơn đều giống nhau, đều thắc mắc số vàng xây dựng chùa có từ đâu ra, và cả hai đơn thưa đều mong mõi chia số vàng ấy cho mình. Sau đây là tôi đọc từng lá đơn một.
Thế là anh công an vào đề luôn, khỏi cần kính thưa kính gởi chi cho dài dòng. Cầm đọc đơn thưa của ông Hoàng Ánh cũng như của Vương Lâm. Cứ đọc đơn của ai là chỉ tay về ngươi đó, cứ thế mà so sánh từng chuyện một.
- Bác Hoàng Ánh thì cho rằng tiền xây chùa là từ số vàng chôn ở trong vườn bác. Thầy Chính Tâm đào lên. Vậy bác có biết ngày nào đào không?
- Thầy là con tôi nên về nhà chơi ai để ý!
- Vậy, bác có biết số vàng là bao nhiêu không? Là loại vàng như thế nào hoặc chôn tại đâu không?
Tất cả các câu hỏi nêu ra đều không có câu nào được ông Hoàng Ánh trả lời được.Cái đuôi vịt xiêm của ông không còn thẳng như khi mới tới, nó cụp xuống và bị những người ngồi dưới cười đùa. Ông bị bác đơn vì thiếu căn cứ cũng như trước đây, ông nghĩ mình xui vì hết keo, chứ không phải lý luận lý lẽ nào. Cũng tội cho ông, vàng sờ sờ trong đất nhà ông chớ ở đâu, rõ ràng là như vậy thế mà mình bị nói là thiếu căn cứ? Thôi, mai mốt xin sỏ nó vậy. Còn Vương Lâm thì có cả luật sư hộ tống, nên chính quyền cần phải cho họ (Chính Tâm và Vương Lâm) đối chất, qua đó xem xét chứng cứ.
Anh luật sư cứ nghĩ thầy Chính Tâm quê mùa dốt nát, cũng như Vương Lâm và Kim Hán Tư nghĩ thầy làm sao có sự thông thái như mình. Đối chất ắt sẽ lộ ra thôi:
- Kính thưa các anh, các bác. Thân chủ của tôi là Vương Lâm, một người Đài Loan chính gốc. Một người nước ngoài nhưng có những ưu tư cho nhân dân mình. Anh ấy biết lịch sử nguồn cội của nước Việt Nam, anh ấy hiểu đau thương mất mát của người Việt Nam. Nhất là thời kỳ bị người Nhật đô hộ và có chiếm dụng một số vàng và chôn dấu đâu đó. Anh ấy tìm hiểu kỷ lưỡng và biết được số vàng ấy nằm tại đất vườn nhà bác Hoàng Ánh. Với số lượng vàng năm trăm kí, nguồn gốc số vàng là do bọn cướp nước lấy của nhân dân Việt Nam. Anh ấy muốn trả về cho nhân Việt Nam, đương nhiên theo luật lệ thì người tìm ra số vàng ấy được hưởng hai mươi phần trăm. Theo những gì chúng tôi có được, thì thầy Chính Tâm đã mang đi đâu đó và không biết sử dụng vào mục đích nào? Chính vì thế, chúng tôi mong rằng chính quyền hỏi thầy cho ra lẽ. Số vàng ấy cần phải trả về cho nhân dân Việt Nam (nghĩa là đem giao nộp lại cho nhà nước), như ý của thân chủ tôi. Hy vọng thầy Chính Tâm hiểu như chúng tôi đã hiểu và thầy chỉ cần nói là số vàng ấy ở đâu thôi, chúng tôi có nghiệp vụ và sẽ lo phần thủ tục còn lại.
Từ đầu chí đuôi, Thầy Chính Tâm đương nhiên không chịu mở lời, dù cho là có bằng chứng thuyết phục như thế nào. Tất cả đều không hề thấy một thỏi vàng nào thì làm sao kiện cáo ai được, đã thế còn nói bừa là năm trăm kí nữa. Vậy hai trăm kí kia ở đâu? Thầy chẵng màng đến lời của luật sư là bao, mà tưởng tượng hai trăm kí nọ hy vọng vẫn nằm đâu đó ở đất nhà mình: Tham vọng của con người không đáy là vậy.
Thường con người ta ham muốn hoặc đòi hỏi điều gì đó thì mặt đần ra, thầy Chính Tâm mặt ngố như ngáo ộp. Cái câu bất hủ có hai từ, thầy cứ lặp đi lặp lại mà lại hiệu quả vô cùng:
-Đâu có!
Vị luật sư thì muốn thầy nói gì đó, càng nói càng tốt cho họ. Họ hội ý với nhau rồi đưa ra câu hỏi:
- Thế thì thầy cho hỏi: Thầy xây cất chùa chiền, vậy nguồn tiền ấy có từ đâu?
- Của nhân dân đóng góp…
Vị luật sư cười to lên, ý như vô lý quá chừng rồi, đã thế câu cú không xứng với một vị trụ trì. Tưởng chừng như thầy khờ lắm đấy, trước sau gì cũng phải thừa nhận thôi:
- Thưa thầy! Người dân ở đây nghèo nàn lạc hậu, thử hỏi người dân đóng góp thế nào được?
- Được chứ! Đóng góp nhiều đời thì sẽ được…
- Thưa thầy! Với giá đất hiện nay, cứ cho là người dân bán đất cúng hết cho chùa. Chắc chắn cũng không thể xây dựng một cái chùa ba lầu, đằng này đến năm lầu rộng nửa sân bóng đá. Thầy trả lời thiếu căn cứ quá.
Thầy Chính Tâm bị dồn vào chân tường, cứng họng. Nóng mặt, hất văng hai trăm kí lô vàng tưởng tượng ra ngoài. Thầy phải ăn thua đủ với tay luật sư này thôi:
- Nếu là người dân Việt Nam, thì anh nên phụ trợ cho người dân Việt Nam. Anh lúc nào cũng nói vì người dân Việt Nam, mà lại cùng với người nước ngoài tranh chấp với người dân Việt Nam. Tôi hỏi anh, hai người này là ai, quyền lợi của họ là thế nào trên đất nước này. Cứ cho là tôi lấy được số vàng nào đó, thì họ lấy danh nghĩa nào để kiện cáo. Bà con ở đây là dân quê mùa, anh là người có học và đạt học vị luật sư. Những từ ngữ của anh văn phong lịch lãm, nhưng che lấp những thiếu sót đó. Đối với người có học thì làm sao cho mọi người cùng hiểu, cùng sẽ chia. Tại sao anh dùng những hiểu biết của mình để khoả lấp tính pháp lý và chính những người làm luật phải hiểu rành chứ?
Thầy Chính Tâm nói một hơi, cuối xuống hớp miếng nước rồi hất ngược lên, rồi quên không biết nói tới đâu. Thầy xoa đầu:
- Thôi tới đó cũng được…
Vị luật sư bất ngờ bị tấn công, cứ nghĩ mọi chuyện sẽ được lèo lái theo ý muốn nên chỉ chuẩn bị sơ sài. Cảm thấy lúng túng, hỏi thêm để biết xem thầy hiểu luật hay chỉ nói vô tình:
- Ý thầy là những người này không có tính pháp lý để đứng đơn kiện?
- Đất nhà người ta, vàng chôn đâu đó trong vườn nhà người ta, kiện người ta lấy đi là thế nào? Ai học lịch sử giỏi, tìm được những yếu tố nào đó trên sách vỡ, rồi kết luận rằng sự việc phải như vậy? Kết luận đó có vội vàng lắm không? Và thực tế có xãy ra đúng như vậy không?
Bên dưới cô bác nghe thầy Chính Tâm đối đáp trôi trãi, xì xào tán thưởng. Anh công an lấy thanh tre mỏng đánh “chót” lên cái bàn, đứng lên chỉ tay xuống phía dưới, trợn mày như thầy giáo để hù cho mọi người im lặng:
-Ê…
Bà con nghèo nàn học thấp, nên ấn tượng mà mình nhớ nhất là lớp một lớp hai. Tự dưng đồng thanh:
- Ê…Con dê.
- Bậy…bậy! Chùa chiền không nói đồ nhậu. Bà con cô bác ngồi yên lặng dùm.
Anh công an xử sự lịch sự, người dân cũng xử sự lịch sự. im lặng trở lại.
Vị luật sư nghe những lời thầy Chính Tâm nói cũng chí lý, quay sang nghi ngờ Vương Lâm cùng Kim Hán Tư. Vị luật sư lẫm bẫm: “ Cứ cho là quân đội nước ngoài đánh chiếm nước khác thường ăn cướp của cải của nước đó, nhưng lúc nào cũng đem vàng chôn xuống đất?”. Vị luật sư chờ Liên Thuý dịch hết những lời lẽ của thầy Chính Tâm cho Vương Lâm nghe xong, anh ta chờ phản ứng từ thân chủ.
Vị luật sư bị gạt ra, đến Vương Lâm trình bày:
- Bởi vì, đất của các anh nhưng các anh không biết sử dụng nó. Không biết lịch sử nguồn gốc dẫn đến không biết giá trị thực, mà ở đây (Việt Nam) chứa đựng nhiều điều bí ẩn có giá trị. Tôi muốn chỉ dẫn các anh thấy rõ được giá trị đó, mà còn chỉ cách cho các anh biết sữ dụng cái giá trị ấy đúng vào chổ nó cần. Số vàng kia cũng vậy, nằm trong lòng đất bao lâu nay rồi, ai biết được còn nữa không? Không thấy các anh tìm hiểu cặn kẽ. Chúng tôi mang một ít kiến thức đóng góp vào giá trị đó, thành ra cũng phải để chúng tôi cùng hưởng giá trị đó.
Thầy ngồi lắng nghe Vương Lâm, gật gù tán dương những lời lẽ mà anh ta đang trau chuốt. Thực sự thì anh ấy đẹp trai có học thức, tự trong đáy lòng thầy rất nể nang. Thế nhưng, cuộc họp đang đông đảo bà con, một vị trụ trì có đủ khôn ngoan hiểu biết như thế nào mọi người đang trông đợi. Ngoài ra, cuộc họp chứ đâu phải một buổi xử án, thầy có tội tình gì mà xử án thầy. Số vàng mà mình tìm được tuy rằng không bằng những học thức mà họ có, nhưng bằng sự trung thực nên trời đất giúp cho. Tất cả những việc dẫn dắt và hiện tại xãy ra, thầy Chính Tâm đều cho là do có bàn tay của trời đất sắp đặt. Thầy van vái với cõi trên rằng mình cần có người giám sát, thầy biết lương tâm con người chưa đủ. Số vàng quá to tát, thầy rất dễ sa ngã. Nay sự việc dẫn dắt đến đây, thầy không có gì phiền muộn cả mà còn cho là cái không khí “ồn ào” này, để cho thầy cân chĩnh đúng mức hơn. Thầy cần xử lý số vàng sao cho là hợp lý nhất, chứ công cán của hai người này còn thua thầy một nước đó sao. Không biết bác Akio nhận thấy có người đang tìm đến số vàng mà ông nội người Nhật chôn cất, nên đến Việt Nam ngay để cho gia đình biết tin. Hay là cũng vì Phật sắp sếp cho mình phõng tay trên hay người ngoại quốc này. Họ cay cú hay là họ chứng tỏ mình hiểu biết. Nếu mình có ăn học và từ những lập luận trên sách vỡ để tìm ra số vàng này, chắc mình cũng la toáng om sòm lên, vì không được số vàng đó thì cũng thấy mình thông minh.
Vương Lâm nhận thấy thầy có phần “xìu”, nên lấy đà để dồn thầy vào đường cùng:
- Chúng tôi cũng biết thầy vào chùa tu không vì mục đích chính đáng nào, thầy vì số vàng…đó mà…thôi - Vương Lâm ấp úng, nói nhiều làm cho mâu thuẫn của mình lồ lộ.
Thầy Chính Tâm biết Vương Lâm không biết bí mật căn hầm và bản đồ trên thanh kiếm. Bí mật này chỉ được biết khi người đó trong cuộc. Nghĩa là, Vương Lâm là người hiểu biết lịch sử trên sách vỡ, vẫn còn thiếu sót. Trong khi đó, thầy Chính Tâm là người trong cuộc. Người trong cuộc, vì thầy là cháu nội của bà Hoàng Lan- Một nhân vật tiếp nối cái lịch sử ấy, sớm muộn gì cũng phải hiểu quá khứ ấy, và sớm muộn gì cũng tìm ra được số vàng.
- Bà con xem, anh ta nói là tôi vào chùa tu là vì số vàng. Trong khi đó thì vàng chôn ở nhà tôi, nếu như có “số vàng đó” thì tôi lấy sài chơi chứ vào đây tu làm gì. Anh ta muốn kết luận người này có vàng, người kia đi tu sao cũng được có mơ hồ quá không?
Bên dưới nhao nhao, người dân tuy học thấp nhưng hiểu kết luận đó là ẩu trĩ. Anh công an rút kinh nghiệm lúc nãy không dám lấy thanh tre đánh lên bàn nữa. Cung hai tay xá xá:
- Xin các bác, các bác giữ trật tự dùm cho!
Vương Lâm liếc nhìn lại thầy Chính Tâm như nhận định lại con người này. Đối tượng là một con người thông minh chứ không phải như mọi người tưởng thấp. Vương Lâm sữ dụng lại ý kiến ban đầu, về việc giá trị của đất đai và lịch sử mà mình đương nhiên phải hiểu hơn thầy.
- Tôi biết thầy là người thông minh, nhưng số vàng thầy giữ quá nhiều sẽ không hợp lý.
- Người Việt Nam chúng tôi có những thời điểm chưa hợp lý, nhưng chúng tôi biết mình cần phải làm gì. Chẳng hạn như đảo Trường sa không phải chúng tôi không tiền làm sân bay, mà vì tình huống lịch sử chưa cho phép làm như vậy. Sân bay mà người Đài Loan xây dựng trên đảo Trường Sa thì người Việt Nam làm cũng được, nhưng vì người Việt Nam phải sống theo luật, nơi đó còn tranh chấp và còn vì tình làng nghĩa xóm nữa- Nói đến đó thầy Chính tâm nhấp một miếng trà, rút kinh nghiệm không ngước đầu lên đột ngột sợ quên. Thầy đứng dậy nhìn trìu mến người Đài Loan nhè nhẹ kết luận- Anh Vương Lâm này, anh cứ yên tâm và hãy nghe tôi nói đây: Người Việt Nam chúng tôi đủ năng lực và đủ cách để biết trong đất nhà mình, xử lý tài sản chúng tôi thế nào.
Người dân rần rần vỗ tay:
- Hoan hô…thầy.
- Hoan hô sư phụ…
- Sư phụ…cho Ngộ Không thọ giáo với…
Câu nói đó anh công an cũng khoái, lần này cứ mặc cho bên dưới hò reo. Vương Lâm mỉm cười, anh ta cảm thấy người dân ủng hộ thầy Chính Tâm nhiều quá.Vương Lâm giờ cũng hiêu hiểu không phải lúc nào cũng căn cứ theo luật, người Việt Nam quá ư thiên về tình cảm, đôi khi họ xữ sự quá mức. Trong mọi cái đang diễn ra hơi quá mức ấy, có lúc họ đúng. Không những anh cảm nhận tình cảm của bà con đối với ngôi chùa Liên Hoa, mà còn bị tác động đến tín ngưỡng.
-À thôi vậy! Việc thắng thua gì ở đây.- Vương Lâm nói với Liên Thuý và anh luật sư được thuê- Tôi vẫn trả tiền, nhưng chúng ta dừng lại thôi.
Vương Lâm biết mình thua rồi, cho nên cũng không cay cú mà chìa tay bắt tay thầy Chính Tâm. Thầy cũng không làm lẽ làm chẵng gì ở đây, cũng chìa tay ra để anh ta nắm lấy.
Họ đi ra ngoài, giờ mới có dịp dạo quanh ngôi chùa nghèo… Ai cũng biết trong đất có thể còn có vàng, nhưng không ai biết được số vàng có bao nhiêu kí lô, chỉ có thầy Chính Tâm là nắm chắc. Thầy lại bên họ, tình cảm bỏ nhỏ cho một ý:
- Nếu có đến năm trăm kí lô vàng, thì hai trăm kí lô kia đâu…Trời Phật đã xui khiến các anh đến đây rồi, sao không cố thêm chút nữa.
Ai đó nghe lõm được câu mách nước của thầy Chính Tâm với Vương Lâm, hiểu hết. Cái gì chứ vàng là thứ kim loại có tính từ trường, nhưng chỉ hút lòng tham của con người mà thôi:
- Bà con ơi! Thầy Chính Tâm nói còn hai trăm kí lô vàng trong đất…
Người thanh niên nghe lõm nọ lặp lại câu nói đó hai ba lần. Bà con đang đi về xựng lại, lao xao:
- Sao? Hai trăm kí lô vàng còn đâu đó trong đất à…
Nhìn bà con bàn tán về đất đai nhà mình. Họ nói bây giờ giá có tăng chóng mặt cũng không bao giờ bán. Họ sãi nhanh về nhà, viễn cảnh tương lai là đào ao nuôi tôm. Nếu không có thấy vàng thì cũng có cái gỡ gạt.
Thầy Chính Tâm nhẹ nhàng phân tích:
- Bà con còn nghèo, muốn có ngôi chùa đẹp thì phải đóng góp rất nhiều…Thành ra phải cân nhắc.
Thầy nói lưng lững như thế, nhưng số người đang đứng có học đó hiểu hết.
Liên Thuý cho là phải, mà còn đem một chút lòng thành kính dâng số nữ trang đang đeo trên người:
- Đôi khi, trong cuộc đời cũng nên làm phước đức.
- Có khi cho một mà thu lại mười…- Anh luật sư cũng góp vào.
Cả ba đều cảm thấy thanh thản nhẹ nhàng hơn, họ đến cây si chụp lấy bôi hình làm kỷ niệm. Hẹn sẽ đến đây vào dịp nào đó để xem thành tựu mà thầy Chính Tâm đạt được.
- Sự vô tư, thanh thản là trên hết. Điều đó sẽ làm cho con người ta đạt được tất cả.
Cả ba người đồng ý thế, họ không những chào thầy mà còn chúc thầy luôn luôn sáng suốt để xử lý số vàng ấy. Còn họ sẽ “tìm mối” khác.
Sau khi thắng lợi “vẽ vang”, thầy Chính Tâm không phải là không nghĩ ngợi nhiều. Tối nằm cũng áp tay lên đầu nghiên nghiên kiểu Phật, nhưng thầy chấp đến hai tay kê, rồi đổi bên cho máu chạy đều. Cái kiểu chiên cá đôi khi làm mấy bà sư nghĩ thầy còn vọng tưởng đến việc ăn mặn, nhưng thầy đang boăn khoăn rất nhiều về số vàng mình nắm giữ. Một chớp mắt và những cái gật gù, thầy loáng nhanh trong ý nghĩ, hoạ chăng thầy suy nghĩ lại là mình không nên xây chùa quá lớn. Trong khi người dân còn đang khốn khổ, đem tiền ấy trả về cho nhà nước lo cho người nghèo cũng là việc cứu khổ cứu nạn, như Phật đã từng dạy: “ không thực sao vực được đạo”. Đời sống trước mới tới tinh thần sau, ý kiến này thầy học được từ hai anh em nhà thằng Điệp thằng Lanh. Sự việc đến đó chưa biết ngã ngũ như thế nào? Thầy ngáp to lên một tiếng cả chùa ai cũng nghe, rồi cũng kiểu chiên cá trở mình:
- Thôi ngũ cho khoẻ, sáng tính sau…
Công việc xây dựng tạm thời dừng lại không phải do chính quyền cản trở nữa, mà để thầy Chính Tâm chỉnh lại thiết kế. Từ tám tầng chỉnh lại chỉ một trệt uy nguy, đủ xứng tầm với địa phương. Còn bao nhiêu thầy đem giao hết cho Mặt trận Tổ quốc Huyện, nơi này đã cấp bằng tu cho ni cô Ngọc, để họ cứu giúp những người nghèo. Có người cho là tham nhũng tràn lan, thầy đưa tiền đến đó như đổ sông đổ biển, thầy chỉ nói:
- Hai bên phải tin tưởng nhau chứ, cũng như mình chỉ phạm vào số tiền đó có nải chuối có ai chịu tin?
Ngoài những tặng vật cho ni cô Ngọc như đã hứa trước đó và những chuyến đi xa tìm hiểu chùa chiền. Toàn bộ số tiền thầy giữ lại là công cán của thợ và vật tư,Thầy thực sự không giữ bên mình một đồng nào cho riêng cho mình. Ông Hoàng Ánh biết chuyện tức anh ách:
- Thầy là vị trụ trì, rồi đem vàng vào hết cho chùa chiền, ta được gì nào…
- Trước đây con là một kẻ thô lỗ, ăn nói hằn học, tình cảm bấn loạn. Nay cha được một người con ăn nói nhẹ nhàng, trầm tĩnh, biết xử sự với nhân thế…Bao nhiêu đó là được tất, sao lại nói không được gì nào.
Ông Hoàng Ánh đã hiểu là Chính Tâm đã trưởng thành hơn, người cha nào không mong như vậy. Có phải ông đặt tên con mình là muốn nó như thế đó sao? Xét ra, có lẻ mọi việc đều do trời đất sắp đặt. Ông lại trở về vườn lui cui một mình ở đấy, cũng là nơi ông hoà mình với tự nhiên, độc lập và trầm lắng. Cuộc đời ông là thế sao? Còn 200 kílô vàng kia có ở trong đất nhà ông không? Ông tin rằng Ba tháng An cư kiết hạ ông chưa có bằng, giờ ông rảnh tay đi tu như thằng con biết đâu trời sẽ cho ông gặp số vàng còn lại đó. Ông sẽ cho đào đất nói là “nuôi tôm”, biết đâu ông sẽ thấy…Trong lòng đất còn những gì ai biết được.
Ni cô Ngọc giao du với Thuỷ, hai người thân tình như hai chị em. Thuỷ đến chùa và một lúc nào đó cứ luôn miệng hỏi han việc tu hành ở chùa.
- Tu là rèn luyện chứ đâu có gì lạ! Em rèn tiếng Anh, rèn chữ Hoa, hoặc là rèn con người mình cho chỉnh chu hơn. Đó là rèn mà là tu vậy, đương nhiên đến chùa là để tập trung hơn, cũng như mình tập trung đến trường học vậy- Ni cô Ngọc giải thích nghe có phần đơn giản.
Từ đó, có lễ hội hoặc những ngày rằm. Thuỷ thỉnh thoảng đến chùa vài ngày với ni cô Ngọc vui chị vui em, hoặc rèn tiếng Hoa cũng như tiếng Anh.
Chính Tâm như người có chân tu, mới đầu tưởng chừng mục đích ban đầu vào chùa không chính đáng nhưng lần hồi cũng nhận ra con đường tu đâu phải là nơi khổ ải như mọi người vẫn nghĩ. Đâu phải ai đau khổ mới vào cửa Phật, mà cũng có lý tưởng và chân lý như chân lý của những người Cộng sản. Chân lý nào cũng có nguyên tắc của nó, cửa phật cũng thế, nên việc đi tu chẵng qua là tuân theo nguyên tắc mà mọi người chấp nhận đi theo.
Ai cũng biết, thầy Chính Tâm vẫn còn tình yêu thương với ni cô Ngọc. Nhiều người không phàn nàn gì nếu như hai người dẫn dắt nhau ra ngoài, trở lại bình thường như nhiều người khác. Một hôm, ni cô Ngọc chạy tìm thầy Chính Tâm. Thầy đang đứng bàn bạc với thầu xây dựng, cô kéo thầy về phòng đọc sách.
- Thầy Hạnh ngồi dậy được, tuy vậy thầy không nhớ việc gì đã xảy ra. Thầy nói mình đến chùa tu từ nhỏ, thầy nghĩ mới ngủ thức dậy và chỉ chơi với con quy vì nó là anh em của thầy.
Tuy vậy, thầy Hạnh nhanh chóng thuộc kinh kệ và không nhớ chuyện gì ngoài chuyện tu hành. Không ai nhắc cho thầy biết nguyên nhân của việc thầy ngủ vùi, nhất là phản đối chuyện tình của Chính Tâm và ni cô Ngọc.
Nhiều người cho là thầy Chính Tâm sẽ trả lại chức trụ trì chùa Liên Hoa Tự, rồi sẽ dắt díu ni cô Ngọc ra ngoài, ai cũng muốn như thế và không ai trách như thế là tội lỗi. Nhưng Thầy Chính Tâm nhỏ nhẹ:
- Chức trụ trì là do người dân tự phong, chứ trong giáo hội Phật giáo cũng phải học tập và có giấy chứng nhận đàng hoàng. Thầy Hạnh đã học giáo lý sâu xa hơn tôi nhiều, tôi sẽ trả lại vị trí của thầy có trước đó. Còn việc ngoài xã hội, tôi không muốn trở lại tính tình như xưa và càng không muốn thầy Hạnh phải chết lần nữa. Tu mà vẫn còn tình cảm trong lòng, thiết nghĩ có sao đâu? Người ta vẫn còn tình yêu với Phật đó sao, vấn đề là tu trong chùa phải theo nguyên tắc của chùa…
Chính Tâm nói vậy, và lúc nào cũng thiên vị ni cô Ngọc hơn những người khác. Chiếc xe tay ga vẫn để cho cô chạy, cùng chở Thuỷ đi cùng.
….Con đường tu, ai nói trăm đường bể khổ. Đôi khi cũng cần có những điều kiện cần thiết nhất cho sinh hoạt.
Hết
1993- 2008.