Khoảng hai rưỡi đêm thì có chuông điện thoại. Từ ngày tôi được thuyên chuyển (nghĩa là được thăng chức) và rời về thị xã làm việc, tôi ở trong một khu nhà mới xây dựng, có hệ thống lò sưởi được điều hành từ trung tâm. Trong phòng ngủ của tôi, khi đóng kín cửa sổ, tôi luôn luôn có cảm giác mình sắp bị chết ngạt, nhưng mở cửa sổ để ngủ thì tiếng ầm ầm của xe tải chạy qua, tiếng rít của tàu điện không sao chịu đựng nổi. Như thường lệ, tôi giật mình tỉnh dậy vào lúc hai giờ sáng. Không sao ngủ lại được, tôi với tay cầm cuốn sách “Henric Xanh” của G.Khêlơ. Đây là món quà mà người thủ trưởng mới tặng tôi, mừng sinh nhật. Tôi có cảm tưởng rằng thủ trưởng chọn cuốn sách này để tặng tôi coa ẩn ý hẳn hoi. Tên tôi là Henric Hêben. Trong đơn vị mới, tôi là người còn xanh”.
so với những người khác, vả lại, tôi xuất xứ từ một miền đồng cỏ có nhiều cánh rừng xanh. “Henric Xanh”, chà, thủ trưởng mới của tôi thâm thúy thật. Nhưng dì sao thì cuốn sách này cũng hữu ích. Chỉ cần đọc khoảng ba mươi trang là mắt tôi đã díu lại, cuốn sách rơi khỏi tay. Nó đã trở thành một thứ thuốc ngủ rất hữu hiệu.
Đang mơ màng theo chàng trai “Henric Xanh” thì điện thoại réo lên. Tôi làu bàu cầm ống nghe. Vợ tôi choàng dậy, mắt ngái ngủ, tóc xõa ra, vừa hỏi tôi vừa ngáp:
Có chuyện gì thế, Henric?
Tôi ra hiệu cho cô ấy im lặng. Ở đầu bên kia, người sĩ quan trực ban đang thông báo.
– Được – tôi đáp – Tôi đi ngay!
– Đêm hôm thế này mà anh lại phải đi? - Vợ tôi hỏi và lại ngáp.
– Không có cách nào khác, em yêu ạ! – Tôi nói và mặc vội quần áo.
– Nhưng có chuyện gì vậy, anh Henric? Lại ăn trộm phải không?
– Không. Có người bị đầu độc bằng khí đốt.
– Ôi chà! - Vợ tôi nói rồi quay người vào tường, thoáng chốc đã ngủ say.
Nếu trong đời này tôi có ghen tỵ với ai đó thì người ấy chính là bà vợ tôi. Cô ấy thực dễ ngủ, ít khi phải trằn trọc như tôi.
Năm phút sau chiếc xe tuần tra của cảnh sát đã đón tôi trước cửa nhà. Không hiểu viên sĩ quan trực ban nghĩ gì khi đánh thức tôi dậy. Chà, có lẽ anh ta muốn tôi biết thé nào là cuộc sống trong một thành phố lớn. Một công an điều tra hoạt động mãi ở một vùng nông thôn như tôi, nửa đêm bị dựng dậy để đi xem xác chết trong thị xã và viết báo cáo lên cấp trên, thú vị thật!
Người lái xe mở hé cửa sổ xe để hút thuốc. Gió lùa phả khói thuốc vào mặt tôi. Người bạn đồng nghiệp ngồi bên cạnh lái xe rút ra điếu Karô tiếp sức thêm.
Trong xe sặc mùi khói. Từ ngày cai thuốc lá đến giờ, tôi rất khó chịu khi ngửi thấy mùi thuốc. Tôi thò tay vào túi lấy chiếc kẹo ra ăn để chống đỡ. Chiếc xe chạy qua có tới nữa thành phố rồi ngừng lại trước một ngôi nhà cao bảy tầng, thuộc khu phố Rôxenbe. Người cảnh sát tuần tra và tôi cùng xuống xe. Trước cửa nhà đã có một chiếc xe cứu hỏa và một xe y tế đỗ ở đó. Mặc dù lúc đó mới là ba giờ sáng nhưng nhiều người tò mò đã ló đầu ra xem. Bộ phận cứa hỏa đã làm xong nhiệm vụ, họ chuẩn bị lên đường. Một người đội mũ sắt bước ra khỏi cửa nhà, tay cầm chiếc mặt nạ phòng hơi độc. Từ trên ô tô cứu hỏa có người gọi với, hỏi xem Ôláp trốn ở đâu mà mãi vẫn chưa thấy lên xe.
– Anh chàng làm gì ở trên ấy không biết?
– Công an điều tra đang nói chuyện với Ôláp của chúng ta! - Người kia đáp.
– Làm gì có chuyện lạ! - Tiếng người từ trong xe cứu hỏa - Chỉ có Ôláp mới thao thao bất tuyệt mà thôi! Ôláp đã mở máy thì đố ai chen vào được câu nào.
Rồi nói với chúng tôi, người trên xe khẩn khoản:
– Nhờ các đồng chí bảo Ôláp xuống ngay nhé, chúng tôi không đợi được mãi đâu!
Người bạn đồng nghiệp cùng đi với tôi hình như quen biết nhân viên cứu hỏa vừa mới xuống. Họ chào hỏi nhau rất thân mật.
– Thế nào – Anh bạn cùng đi với tôi lên tiếng hỏi nhân viên cứu hỏa - Cậu có mua chiếc ô tô ấy không? Ở địa vị tôi, tôi không mua, chịu khó để kiếm chiếc mới toanh cho bõ sức.
– Nhưng bà lão nhà tôi lại mê mẩn vì nó!
– Thì cậu cũng mê mẩn chứ gì?
Người kia phá lên cười.
– Buồng nạn nhân ở đâu? – Tôi hỏi.
– Lên thang máy tới gác sáu, rẽ sang trái, lên tiếp một tầng nữa! Nhân viên cứu hỏa đáp rồi lại tiếp tục câu chuyện với người cảnh sát tuần tra. Ông này nói chuyện thản nhiên về chiếc ô tô mới mua, không tỏ ra vội vã một chút nào. Vả lại ông ta cũng có lý:
xác chết không thể chạy trốn được!
Theo lời ông, tôi lên thang máy tới gác sáu rồi đi bộ lên cầu thang tới gác bảy. Nhưng cả hai cửa phòng đều đóng kín. Tấm biển ngoài cửa không phải tên Vôkơ như người ta đã báo cho tôi biết. Ở đây khôn ngửi thấy mùi khí đốt. Tôi trở xuống gác sáu, tìm đường khác. Trong khu nhà này có hai thang máy, một lối lên từ tầng trệt tới gác ba, lối khác tới gác sáu, nối với hai lối lên là các dãy hành lang chạy dọc trên các tầng. Một lối kiến trúc bắt chước theo kiểu cổ điển, muốn lên tới gác bảy, tôi phải đi dọc theo hành lang sang phía bên kia rồi mới sang cầu thang. Đến đây, quả nhiên tôi ngửi thấy phảng phất mùi khí đốt. Vừa định bước chân lên cầu thang, tôi đã gặp hai người đi xuống. Một là lái xe, người kia là một cô y tá trẻ, tóc cắt ngắn cũn cởn, mặt gầy và nghiêm trang. Cô y tá mặt áo trắng, lưng và ngực đều như nhau, không có gì biểu hiện đặc tính của phái nữ. Người lái xe thì ngược lại, tóc dài xõa xuống vai, che kín cả hai tai, mặt đầy đặn. Trông anh ta phây phây như một cô đầu bếp. Tôi có cảm giác là cả hai đều muốn đổi hình dạng, kẻ muốn như đàn ông, người muốn giống đàn bà.
– Muộn rồi cô bạn ạ - Người lái xe lên tiếng – Chúng ta chẳng cần cấp cứa nữa. Giờ là việc của công ty nghĩa trang!
– Nhưng thật tiếc cho họ - cô y tá đáp – Hai người chắc phải yêu nhau lắm.
Họ chết còn quá trẻ!
Hai người đi tiếp về phía có thang máy. Tôi nghe họ trò chuyện mỗi lúc một xa dần. Không hiểu cô y tá nói gì, nhưng anh chàng lái xe đốp chát lại nghe khá rõ.
– Ô hô hô! Cô em còn muốn gì nữa nào? Tiếc cho chúng nó hả? Chúng nó chết một cái chết tuyệt vời thế còn gì! Trước đó làm một choác, rồi lăn đùng ra chết, chết thế mới sướng chứ!
Cửa thang máy đóng lại đánh sầm, rồi có tiếng động cơ chạy ì ì. Tôi chần chừ một lúc lâu. Lạ thật, bao giờ cũng vậy, trước khi bước chân vào phòng có người chết là tôi lại ngần ngại. Chẳng hiểu ra sao nữa. Tôi đã chứng kiến biết bao nhiêu cái chết đủ hình dạng, nhưng mỗi lần sắp phải đối mặt với cái chết, người tôi lại nổi gai. Tôi cho tay vào túi tìm một chiéc kẹo chua, bóc kẹo ăn để trấn tĩnh, nhưng ngón tay vẫn run run. Lạy Chúa, lần nào cũng vẫn vở kịch ấy.
Vậy mà tôi lại lao vào cái nghề điều tra hình sự này. Ngày trước làm thợ điện, cuộc đời dễ chịu, bằng lặng hơn. Làm công an điều tra, tôi muốn giúp cho công lý giành chiến thắng trong cuộc sống của chúng ta. Ôi chà, những suy nghĩ hay ho như trên báo. Nhưng người ta tự tử thì công lý ở đâu? Chiến thắng ở đâu?
Gặp một vụ tự tử, tôi có đến điều tra cũng chỉ là hình thức:
chỉ cốt tìm để hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến hành động, mà không thể cứu được con người trước cuộc sống; uống một ly rượu mạnh để quên đi những hình ảnh khủng khiếp mà mình vừa chứng kiến ...
Trong căn hộ của nạn nhân, Gônnơ, chuyên viên kỹ thuật hình sự đã chờ tôi từ lâu. Tôi chưa lần nào làm việc với anh ấy, nhưng tôi biết anh ấy cũng ở khu vực này. Có lẽ Gônnơ cùng đến với đơn vị cứu hỏa. Anh đang ở trong bếp, loay hoay chụp ảnh chiếc bếp ga, đặc biệt chụp kỹ vị trí của các van đóng mở. Ngoài ra trong phòng còn có một bác sĩ đến khám nghiệm tử thi. Ông đang ngồi bên bàn, thản nhiên, từ tốn viết vào giấy khám nghiệm như kê đơn cho người bệnh; nạn nhân chết vì bị ngộ độc Suizid. Người duy nhất đang phát ngôn là anh chàng Ôláp đến cứu hỏa. Ôláp đang ngồi trên một chiếc ghế bành trong góc phòng, hai chân duỗi ra, bắt chéo lên nhau, người hơi ngả ra phía sau, trông bộ thỏa mái như ở trong nhà mình. Anh ta nói:
– Các ông biết không, theo tôi thì chúng ta nên khuyên Nhà nước cho lắp lại những chiếc đồng hồ cổ lỗ đo khí đốt thuở trước. Muốn tự tử hả? Người ta phải bắc một chiếc ghế, trèo lên đó, phải ném một đồng tiền vào đúng chỗ quy định, lúc đó mới có cái để người ta tự tử. Chứ bây giờ ấy à? Hiện đại quá, người ta càng dễ dàng tự vẫn. Bất kỳ ai cũng có thể tạo ra một khối lượng khí đốt đủ làm nổ tung một ngôi nhà. Tôi đã chứng kiến ...
Chợt nhớ đến lời yêu cầu của anh em cứu hỏa đang đợi dưới kia, tôi nói với Ôláp:
– Này, anh bạn, anh có nhanh chân lên không thì quỷ sứ đến rước anh đi đấy!
– Ôi dào, vẽ chuyện – Ôláp đáp - Ở chỗ chúng tôi lúc nào mà chẳng có qủy sứ!
Tôi nhún vai và bắt đầu quan sát kỹ căn phòng. Một căn hộ không rộng lắm, nhưng đồ đạc hiện đại và đắc tiền được trưng bày khá đầy đủ. Chủ nhân không cố ý giấu giếm sự sung túc và giàu sang. Trước cửa sổ có một chiếc đi văng hiện đại, có thể kéo ra thành một chiếc giường đôi, thừa chỗ cho hai người. Có lẽ nạn nhân đã sử dụng chiếc giường tân tiến này. Tấm chăn mỏng phủ lên đó bị đẩy về một phía, nhăn nhún. Những chiếc gối bị nhàu nát. người đàn bà nằm trên đi văng yên lành ngủ say, hai tay để lên bụng, gần giống với tư thế người nằm trong quan tài. Người đàn ông nắm ở trên sàn nhà, giữa một khoảng không gian khá chật hẹp giữa chiếc giường và chiếc tủ áp tường, bên cạnh một cây đèn hiện đại. Mặt anh ta trông như bị co giật, có thể vì đã há miệng nôn ọe xuống tấm thảm được chăm chút cẩn thận, một tấm thảm hiếm, đắt và đẹp mà binhg thường nếu không xỏ chân vào giày đi trong nhà không thể được chủ nhân cho phép bước lên nó. Nhưng giờ đây, tấm thảm quý giá ấy cũng vô nghĩa. Mọi sự giàu sang và tân tiến đều vô nghĩa. Đối với hai con người đang nằm kia, kẻ trên đi văng, người trên thảm quý, đều vô nghĩa. Họ có thể nằm trong gỗ cứng và trong lòng đất lạnh ... Trên chiếc bàn con cạnh đi văng có hai chai sâm banh đã uống cạn, hai chiêc ly sang trọng, một chai Napôlêông còn tới nửa. Không còn gì khác. Không một lá thư di chúc cho đời sau. Nhiều người tự tử thường để lại đôi dòng, hoặc để bào chữa cho hành vi của mình, hoặc để tố cáo một ai đó, hay thông thường chỉ là lời vĩnh biệt người thân ... Nhưng hai con người kia không để lại dấu tích gì. Tại sao họ lại chết? Nguyên cớ nào xui khiến họ hưởng hoan lạc rồi từ giã cuộc sống?
– Có dấu tích gì không? – Tôi hỏi Gônnơ.
Anh lắc đầu như thể không hiểu tôi hỏi gì. Nhưng Ôláp đã nói chen vào, mắt chăm chăm nhìn vào chai cônhắc trên chiếc bàn.
– Trời đất, người đời sướng quá hóa rồ, có phải thế không nào? Khi con lừa no cơm ấm cật, con lừa phát tính ngu. Chả lẽ họ lại khốn khổ hay sao? Cũng may đấy, lẽ ra mọi chuyện còn tồi tệ hơn kia. Hai năm trước tôi đã gặp một trường hợp khủng khiếp ...
– Các anh còn hỏi gì nữa không? – Bác sĩ lên tiếng và đứng dậy định cáo lui.
– Họ chết từ bao giờ? – Tôi hỏi.
– Cách đây chừng ba tiếng! – Ông đáp - Nếu các anh không còn gì hỏi nữa, tôi xin phép, xin chúc các anh ở lại nhiều may mắn!
– Chà, cả tôi nữa, các anh chắc không cần đến tôi, tôi biến đây! – Ôláp nói, nhưng không thấy anh ta làm điệu bộ muốn đứng lên.
Tôi mở sổ tay ra ghi chép. Đằng nào cungc phải viết báo cáo.
– Khi anh đến, cửa phòng có khóa không? – Tôi hỏi Ôláp.
– Không! Nếu khóa, chắc chúng tôi đã phải phá cửa.
Tôi hỏ thật ngớ ngẩn. Loại cửa này rất thông dụng ở nước ta. Chỉ người ở trong nhà mới mở được, chỉ cần vặn quả đấm, nhưng ở ngoài không có chìa khóa không thể vào. Tôi ghi chú:
Chùm chìa khóa mở cửa vào nhà và cửa căn hộ được treo trong hành lang. Trên tấm mica móc theo chùm khóa này khắc tên họ Vôkơ. Ôláp có lẽ thuộc loại người đặc biệt. Chỉ cần được nghe một câu hỏi, dù ngớ ngẩn như câu tôi vừa hỏi, anh ta cũng như chiếc máy được tra dầu và cứ thế chạy liên tục. Tôi cam đoan rằng trong các cuộc họp, bao giờ Ôláp cũng là người đầu tiên giơ tay xin phát biểu, bất cần biết nội dung hay chương trình nghị sự. Đấy, anh ta lại nói rồi:
– Chà, cửa với giả thời bây giời rõ chán. Chúng tôi chẳng bao giờ phải gặp khó khăn gì. Không cần đến rìu, không cần xà beng. chỉ cần tuốcvít vặn khẽ là xong tuốt. Mà cẩn thận đấy, xô mạnh là cửa sập. Anh lăn quay cu lơ ra liền.
Chẳng cần phải ghé tai nghe trộm, vợ chồng người ta nói gì với nhau ở trong phòng, cứ đứng ở ngoài cũng nghe tuốt. Cũng may là bây giờ ít có bọn kẻ trộm.
Chà, người chồng cô em gái của bà chị dâu tôi có một cánh cửa mới tuyệt chứ ...
– Này, ông bạn, ông chạm tay vào mấy chiếc van phải không? – Gônnơ ngắt lời.
– Tôi à! – Ôláp tức giận vì bị ngắt dòng điện – Tôi mà lại sờ mó vào đấy à?
Tôi chỉ chạm nhẹ vào van chính. Mọi cái khác vẫn để nguyên hiện trạng.
– Thế thì mời ông bạn đưa tay đây. Cho phép tôi được hân hạn lấy dấu tay!
– Anh chọc tôi phải không?
– Không, tôi mang lại niềm vui cho anh chứ! Nào, đưa tay đây, thế, thế, đừng cứng đơ ra thế, cứ tự nhiên như ở nhà! Xong rồi, cám ơn!
– Thế còn thứ của nợ bẩn thỉu dính vào tay tôi đây? Tôi chùi vào quần chắc?
Gônnơ đổ nước từ một chiếc bình con vào tấm vải, đưa cho Ôláp:
– Vâng, xin mời, nếu anh muốn cứ chùi tay vào quần. Bà vợ tha hồ giặt!
Giữa lúc đó người công an tuần tra bước vào phòng.
– Này, Ôláp, mọi người đợi anh ở dưới kia! Sao anh dề dà thế?
– Cậu không trông thấy à? Tớ đang bận! – Ôláp đáp và chìa ra những ngón tay đen nhẻm vừa bị lăn cho anh ta xem.
– Ha ha ha! Ôláp bị tình nghi là can tội ...
– Không, bị tình nghi là để lấy lại dấu tay trên chai rượu cônhắc của chủ nhân! – Gônnơ nói và cười phá lên.
– Quả thật, nếu tôi được một ngụm thì hết ý!
– Xin ông lưu ý cho - Người công an tuần tra nói nghiêm giọng - Một là, ông là người đang thi hành nhiệm vụ. Hai là, mời ông xuống ngay để người khác khỏi phải chờ.
– Trời đất, cậu nói cái giọng như thủ trưởng, mới nghỉ có mấy phút mà quýnh cả lên. Tệ hơn cả cứu hỏa!
Ôláp uể oải đứng dậy khỏi ghế bành, đưa tay lên mũ chào rồi chậm rãi ra khỏi phòng. Gônnơ lại tiếp tục công việc. Anh lấy dấu tay trên chai sâmbanh và các ly, sau đó lấy dấu tay của hai người đã chết. Anh làm việc rất bình thản.
– Nào, nào, cô em, đừng làm cho ngón tay cứng đơ ra như thế - Anh nói với người đàn bà trên đi văng, khi anh lấy dấu tay.
Gônnơ không tỏ ra xúc động gì. Anh thận trọng làm việc. Có lẽ ở những người đã từng trải trong công việc như Gônnơ, mọi cảm xúc đã bị dồn nén vào một nơi nào đó rất sâu xa, cũng giống như những người đào huyệt hoặc giải phẫu tử thi.
Trong căn phòng im lặng một hồi lâu. Tôi rất muốn biết về cuộc đời của hai con người đang nằm kia để có thể phân tích, viết báo cáo. Phải chăng họ bị những chứng bệnh hiểm nghèo? Điều này khi giải phẫu sẽ được giải đáp.
Nhưng thật hiếm có trường hợp cả hai người cùng chết. Họ yêu nhau quá chăng? Một người chết đi, người khác không thể sống được nữa. Họ nguyện sống có nhau và chết có nhau? Chả lẽ con người hôm nay cũng giống các nhân vật trong tiểu thuyết ngày xưa?
– Ai đã phát hiện ra việc này? – Tôi hỏi.
– Người láng giềng – Gônnơ trả lời – Ông ấy là người lái tàu hỏa, hai giờ mười lăm đi làm về, ngửi thấy mùi khí đốt và gọi điện báo ngay cho cứu hỏa.
Ông ấy ở căn hộ bên cạnh, đã sẵn sàng, nếu anh muốn nói chuyện ...
– Hừm! – Tôi gật đầu.
– Còn việc báo tin cho người vợ đáng thương ấy, chúng ta sẽ nhường cho đồng chí công an khu vực – Gônnơ nói và khẽ nhếch mép cười.
– Gì cơ? Anh bảo người vợ đáng thương nào? – Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
– Người vợ của anh chàng nằm kia chứ còn ai! Vợ của Đôisơ!
– Sao? Không phải Vôkơ? Không phải vợ và chồng của nhau à?
Thấy tôi kinh ngạc và chắc chắn mặt tôi lúc đó trông ngố lắm. Gônnơ bật cưới lớn:
– Hô hô, là vợ chứ! Nhưng không phải vợ của anh kia, còn anh kia là chồng của người khác, hiểu chưa?
– Thật quỷ tha ma bắt! Sao mãi bây giờ anh mới nói cho tôi biết chuyện đó?
Gônnơ nhún vai. Anh cúi xuống cái xác có tên là Đôisơ lấy dấu tay.
– Bây giờ anh biết vẫn còn sớm chán, anh bạn ạ. Họ có chạy mất đâu mà sợ!
– Nhưng mà môtíp hành động! – Tôi nói – Bây giờ vấn đề đã tương đối rõ ràng. Vậy là người đàn bà kia không có chồng. Còn anh chàng Đôisơ không dám ly dị vợ, hoặc có thể là một con người rất hèn nhát. Trong tình huống éo le ấy, hai người yêu nhau đã tìm đến một giải pháp tiêu cực. Họ đã sống với nhau những giờ phút trong sự dâng tặng và hạnh phúc, rồi cùng nhau ...
Nói đến đây tôi chợt nghĩ đến người đàn bà có tên là Đôisơ, người vợ đáng thương của một người chồng đã không tìm được hạnh phúc trong hôn nhân ma đã tìm thấy hạnh phúc ở một người đàn bà khác, rồi kết thúc thật bi thảm. Có lẽ không nên để đồng chí công an khu vực báo tin này. Tôi sẽ đến báo tin cho chị ấy, biết đâu tôi có thể biết thêm một đôi điều hữu ích cho công việc.
– Anh lập luận có vẻ có lý đấy! – Gônnơ đáp – Nhưng mà sự đời trớ trêu lắm, anh bạn ạ. Sao anh đảm bảo là người đàn bà nằm kia không có chồng? Cô ta có chồng chứ. Chỉ khác cái là đã ba năm nay, cô ta không có chồng ở bên mình. Chúng ta đã bắt buộc phải lôi tuột anh ta ra khỏi gia đình và cho ngồi nhà đá. Anh ta vốn là một nhân viên trong khách sạn, kiếm tiền bằng cách lừa đảo và giả mạo chứng từ, không chịu thanh toán các khoản tiền ngoại tệ đúng nguyên tắc hành chính. Hubec, chắc anh còn nhớ anh ta chứ?
– Tất nhiên - Người công an tuần tra có tên là Hubec đáp lại – Vôkơ là một tên ba hoa, phét lác, luật pháp xử còn quá nhẹ. Ở địa vị tôi ấy à? Có mà tú rũ xương. Nếu tôi là vợ Vôkơ, chắc tôi đã ly dị với hắn từ lâu rồi!
– Tất nhiên là người vợ cũng muốn thế. Và đã nhiều lần đòi ly dị!
– Chà, Gônnơ, anh am hiểu chuyện gia đình người ta ghê thật đấy. Cứ y như người ở cùng nhà.
– Đấy là một nghệ thuật, anh bạn ạ! – Gônnơ đáp - Vả lại, tôi là người ở quanh đây. Phố phường cũng chẳng khác gì ở làng quê. Người ta cũng ngồi lê đôi mách như ở làng xóm, chuyện nhà nọ nhà kia, tai vách mạch rừng mà! Cứ chịu khó dỏng tai nghe quần chúng bàn tán, chúng ta biết được khối điều hay.
– Nhưng tại sao họ lại không ly dị? – Hubec hỏi.
– Anh chồng không chịu – Cứ hỏi bác hàng xóm lái tàu hỏa bên cạnh thì sẽ biết. Bác ấy có thể kể khối chuyện lý thú. Chà, anh Vôkơ này đã đối xử với vợ thật tồi tệ. Làm việc trong khách sạn thì lịch thiệp đến thế, lúc nào cũng toét miệng nói “cám ơn”, “xin lỗi”, “không dám” và chìa tay ra ... Còn về nhà ấy à?
Bàn tay ấy lại hành hạ vợ.
– Chị ấy càng có lý do để ly dị! – Hubec nói phẫn nộ.
– Tất nhiên rồi, chị ấy cũng đã từ bỏ hắn.
– Nhưng sao lại như thế? Sao lại phải chết vì một thằng đàn ông thối tha như gã kia? Thật là điên rồ. Thiếu gì cách để giải thoát cuộc đời. Làm gì phải tìm đến cái chết.
Gônnơ đang so các dấu tay, bỗng dưng anh dừng lại, phân vân.
– Có điều gì phải không? – Tôi hỏi.
– Tôi không rõ, nhưng bất chợt tôi nảy ra ý nghĩ là ...
– Sao? Anh nói đi! – Tôi giục.
– Đây mới là giả thiết, có thể ... Rất có thể là chị Vôkơ đã tới thăm chồng ở nhà tù. Có thể đã nói là mình muốn ly dị. Nhưng hắn không muốn thế. Hắn đe dọa:
nếu hắn ra, hắn có thể giết mình, vì vậy, trong lúc quẩn chí, chị đã quyết định chấm dứt mọi sự khủng khiếp bằng cách này ...
– Nhưng còn anh chàng Đôisơ kia? Tôi hỏi lại - Lẽ nào anh ta cũng sẵn sàng chết theo người mình yêu?
Gônnơ khẽ nhún vai:
– Ôi dào, tình yêu là một trò chơi vô cùng kỳ quặc, không ai biết hết mọi nẻo đường ma quái của nó. Các anh thử tưởng tượng xem:
Đôisơ say mềm. trong trạng thái quá chén, người ta có khi bất cần đến cuộc đời, bất chấp tất cả mọi hậu quả. Khi tỉnh táo, có thể Đôisơ không chấp nhận, nhưng mà say mềm, say vì rượu, vì tình, trong cơn mê dại, người ta có thể sẵn sàng chiều theo ý muốn của người mình đang đòi hỏi, khát vọng. Ai mà biết hết được những dị dạng của tính yêu!
Nghe Gônnơ nói, tôi ngẫm nghĩ đến những khả năng khác. Có thể Gônnơ đang giấu chúng tôi một điều gì, anh ta đã lần ra dấu vết, có thể lắm, nhưng anh chưa muốn nói khi chưa cân nhắc ký. Bỗng nhiên tôi thấy anh nhún vai:
– Này, xem đây! Một câu đố mới đây!
Tôi cúi xuống mặt bàn. Những dấu tay được trải ra trước mắt. Gônnơ chỉ cho tôi hai dấu tay ở trên van xả ga. Không giông giấu tay của người chết.
– Chắc là dấu tay của Ôláp cứu hỏa – Tôi nói.
– Anh xem đi. Đây là dấu tay của Ôláp. Không phải anh ta! Một người nào đó đã tới đây và mở ga!
– Anh có biết anh vừa nói gì không? – Tôi hỏi Gônnơ.
– Một vụ giết người! Hai cái chết vì một bàn tay lạ!
Hubec đang ngồi trên ghế bỗng bật dậy.
– Trời đất! Vậy là họ đã có khách đến thăm. Người khách ấy đợi cho họ ngủ say rồi mở ga!
– Nhưng ai chứ? – Tôi nói – Ai có thể quan tâm đến đôi tình nhân ấy? Chả lẽ người lạ muốn hạ sát cả hai? Còn vợ của Đôisơ? Nếu chị ta biết chồng mình lòng thòng, chị ta sẽ trút lửa căm giận lên đầu nữ đối thủ của mình, các vụ đánh ghen vẫn xảy ra như vậy!
Gônnơ lắc đầu:
– Trong bếp, nơi vẫn rửa bát đĩa, không thấy có các ly đựng rượu. Không có băng chứng gì tỏ ra hai người đã có khách. Tuy nhiên, đây là một khả năng. Vả lại, có gì đó không ổn. Chả lẽ trước mặt khách, người ta lại làm tình với nhau?
Ngay cả sự hiện diện của một người thân nhất, không ai lại giở cái trò ma đó ra.
Còn ở đây, chuyện đó đã rõ ràng.
– Nhưng rượu giải thoát con gnười khỏi mọi sự dè dặt! – Tôi đáp.
– Hừm! Không có lẽ ... Tại sao lại phải giết cả hai? – Gônnơ nói.
– Nếu không có khách, vậy phải có một ai đó có chìa khóa riêng để vào nhà?
– Hubec góp ý kiến.
– Chà, Hubec, anh phân tích cứ y như thám tử Sơlốc Hôm không bằng! – Gônnơ nói.
Hubec gật đầu. Có lẽ người công an tuần tra này không để ý đến cái giọng pha chút giễu cợt của Gônnơ, hoặc anh ta đang cố lần trong tưởng tượng dấu vết của thủ phạm.
– Ái chà, Vôkơ! – Anh bỗng kêu lên - gớm ghiếc thật! Hai cái chết. Có lẽ họ là nạn nhân của một cuộc trả thù!
– Nhưng Vôkơ còn ngồi tù kia mà? – Tôi hỏi.
– Nhỡ hắn đã ra tù thì sao? Hắn chỉ phải ngồi nhà đá có ba năm. Có thể hắn đã mãn hạn.
– Chuyện này đúng ra tôi phải biết – Gônnơ đáp. Lúc này anh có vẻ tư lự.
Tôi như người đứng ngoài cuộc. Tôi đi điều ra, nhưng lại chưa biết gì về dân cư vùng này, trong lúc Gônnơ và Hubec biết rõ từng đối tượng. Lẽ ra tôi không nên chuyển vùng thì hơn. Ở nơi cũ, tôi biết từng mái nhà, ngõ phố, tôi quen thuộc từng người, tính tình của họ. Mọi vụ viẹc xảy ra đều có thể lý giải và điều tra nhanh chóng, trừ những vụ ăn cắp vặt vãnh, khó phát hiện, vì lẽ thương, bắt cá nhỏ khó hơn cá lớn ... Còn ở nơi đất mới này, nơi tôi vẫn còn “xanh”, mọi cái đối với tôi vẫn còn rất ngỡ ngàng.
– Có thể hôm qua Vôkơ được ra tù. Hắn về nhà và thấy hai người đang hành sự - Hubec đưa ra giả thiết đó.
– Cần phải hỏi lại Sở - Gônnơ đáp – Còn ở đây, công việc của chúng ta cũng đã xong.
Gônnơ thu dọn dụng cụ. Đã đến lúc chúng tôi phải bàn giao vụ án này cho bộ phận chuyên trách. Tôi đến đây chủ yếu để nghiên cứu, viết báo cáo về một vụ tự tử, nhưng thực tế là một vụ án mạng.
Chúng tôi để Hubec ở lại trông coi hiện trường. Chúng tôi sang nhà của nhân viên hỏa xa. So với căn hộ của nạn nhân, mọi tiện nghi ở đây đều đơn giản, đồ gỗ cũ kỹ. Chủ nhân khoảng bốn mươi tuổi. Ông sống một mình. Vợ ông mới qua đời cách đây vai năm. Ông nói năng từ tốn, chậm rãi, đáng tin cậy, mắt thâm quầng vì thiếu ngủ. Hỏi ông khi về có gặp ai khôn, hoặc có nghi ngờ ai không, ông lắc đầu. Ông cho biết:
cuộc sống của ông chủ yếu là ở ngoài nhà ga và trên tàu. Ở đó ông có người quen, bạn bè, còn ông về nhà chỉ cốt để nghĩ ngơi, vì vậy ông ít quan tâm tới cuộc sống của những người láng giềng. Trong mấy năm gần đây, Từ ngày Vôkơ vào ngồi tù, ở phòng bên yên ắng hơn. Còn trước đó, như ông nói, ngày nào cũng ầm ĩ, luôn có chuyện cãi cọ. Vôkơ hay nổi khùng, nhưng đối với ông, anh ta tỏ ra rất lịch sự, luôn chào hỏi niềm nở. Chúng tôi hỏi ông về người vợ của Vôkơ, ông nhún vai, mãi sau mới nói một vài câu:
chị ấy tính đỏng đảnh, bất thường và nhẹ dạ, là thư ký cho ông luật sư. Đôisơ đã ra vào nơi này lâu chưa? Ông cho biết chắc chắn đã nửa năm.
Một người đàn ông sống một mình. Bên cạnh là một người đàn bà vắng chồng. Hai con người cô đơn ấy có quan hệ gì không? Và khi anh chàng Đôisơ kia xuất hiện, quan hệ giữa họ như thế nào, nếu như họ đã có những tình cảm nhất định? Tôi phân vân suy nghĩ. Ngồi trong ô tô, tôi lấy sổ tay ra ghi chép.
Cần phải kiểm tra lại xem từ nhà ga về đến nhà người lái tàu hỏa thời gian mất bao lâu. Thực ra trong các tiểu thuyết tình báo, người đọc thường thấy rằng:
mọi đối tượng đều đáng khả nghi, và thông thường thủ phạm lại chính là kẻ ít bị tình nghi nhất. Nhưng trong thực tế vấn đề rất khác xa. Chúng tôi có thể nhanh chóng xác định phạm vi các đối tượng đáng khả nghi và tập trung vào những điểm nhất định. Nói vậy là tô thực tâm không muốn nghi ngờ con người hiền lành, mắt thâm quầng vi thiếu ngủ ở cạnh phòng nạn nhân. Nhưng dẫu sao vẫn phải cứ kiểm tra, xem xét mọi khả năng.
Trời về sáng. Đường phố đang bắt đầu bước vào một ngày mới. Qua điện đàm, chúng tôi đã thông báo với bộ phận trực ban, yêu cầu họ báo lại với thủ trưởng, ban điều tra các vụ án mạng và Viện kiểm sát về tình hình vụ án.
Vừa bước chân vào phòng, Gônnơ đã với tay cầm chiếc máy điện thoại và tìm cách liên hệ với trại giam. Tôi cho rằng hướng đó không hứa hẹn gì nhiều.
Vì vậy tôi ngạc nhiên khi thấy Gônnơ hét to vào ống nói:
– Gì á? Thả hắn hôm qua à?
Anh dập máy và mở to mắt nhìn tôi:
– Thế nào, anh bạn, anh có nghe thấy không?
Tôi gật đầu. Gônnơ lại quay máy điện thoại.
– Tôi có quen một người ở cảnh sát giao thông. Người này biết Vôkơ rất rõ.
Nếu như hắn quanh quẩn ở khu vực nhà ga ... A lô, Chrixtian? Ôi, chào anh, Gônnơ đây! Này, anh còn nhớ gã Vôkơ chứ? Trước đây ba năm chúng ta đã cho hắn biết thế nào là pháp luật. Vâng, đúng, đúng. Sao kia? À, chuyện đó chỉ xảy ra trong phim thôi. Thế này thì hay quá! Nghe nhé:
Hiện hắn đang bị tình nghi là thủ phạm của một vụ giết người thật khủng khiếp. Làm ơn chuyển hắn đến chỗ chúng tôi ngay! Được chứ? Chúng tôi sẽ lo liệu mọi chuyện. Vâng, cám ơn!
Cám ơn!
Quay sang tôi, Gônnơ nở nụ cười rất tươi:
– Nào, anh bạn, thật không uổng cái công thức trắng đêm của chúng ta!
Người ta sẽ giải hắn tới ngay.
– Chà, tôi nghĩ, con người cũng có lúc gặp may.
Tôi đã hình dung ra phần kết của bản báo cáo, kèm theo lời tự thú của Vôkơ.
Một lúc sau trong hành lang, có tiếng người nói to, tiếng chân bước rầm rập.
Cánh cửa bật mở. Hai đồng chí cảnh sát giao thông dẫn một người đàn ông bước vào. Người này vừa đi vừa chửi bới cảnh sát thậm tệ.
– Hắn đập phá và chửi bới om sòm ... - Chrixtian lên tiếng.
– Tôi yêu cầu các ông thả tôi ngay! – Vôkơ nói to, tay vung lên, suýt nữa thì bị ngã vì không có người giữ. Mắt hắn đỏ, mi mắt sưng, ánh mắt lờ đờ, khuôn mặt trông xanh xao sau ba năm ngồi tù, mặc dù hắn đã uống khá nhiều rượu, nhưng nước da vẫn chẳng hồng hào lên được chút nào.
Tôi ngồi xuống ghế sau bàn viết, tay cầm một chiếc thước gõ nhẹ lên mép bàn, người ngả ra phía sau. Khi hỏi cung, tư thế ngồi như vậy rất thuận lợi. Lẽ ra tôi phải đợi cho Vôkơ tỉnh rượu, vì lời khai của người say nhiều khi rất đáng ngờ. Nhưng tôi có cảm giác lúc này chất vấn Vôkơ là hợp nhất.
– Mời ông ngồi! – Tôi nói và chỉ chiếc thước kẻ vè hướng chiếc ghế đặt đối diện. Giọng tôi rất nghiêm.
Vôkơ như quả bòng bất ngờ bị xì hơi. Hắn loạng choạng ngồi xuống ghế, miệng lẩm bẩm:
– Ta là người tự do, tự .... do.
Vôkơ trạc bốn mươi tuổi, tầm thước, vóc người thon thả, gặp hắn ở một nơi khác có lẽ ta tưởng hắn là một người trí thức. Hắn mặc một bộ comlê đen còn sặc mùi băng phiến của nhà giam. Mùi rượu nồng nặc từ hắn phả ra không át nổi mùi băng phiến của bộ quần áo được treo cất ba năm nay mới mặc.
Gônnơ lấy máy ghi âm trong tủ ra, đặt lên bàn.
– Nào, để ghi lại giọng nói hay ho của anh ta!
– Thôi, bắt đầu, ông nói đi! – Tôi nhìn thẳng vào mắt hắn – Ông hãy kể thật cho tôi biết, tối hôm qua, từ lúc ông bước chân về nhà mình, chuyện gì đã xảy ra!
– Tôi á? - Hắn hỏi lại và ngẩng đầu lên. Mắt hắn lúc này trông lờ đờ hơn.
Hắn nhìn tôi từ dưới nhìn lên. Tôi có căm giác hắn cố kéo dài thời gian để nghĩ cách trả lời. Hắn hỏi lại:
– Tôi á? Xảy ra ở nhà tôi phải không?
Tôi nhìn hắn nghiêm khắc. Dưới ánh sáng của ngọn đèn bàn, tôi thấy trán hắn vã mồ hôi. Tôi cầm thước kẻ gõ gõ nhịp vào mép bàn. Tiếng gõ ấy sẽ làm cho hắn rối trí.
– Nào, ông nói đi. Chuyện đã xảy ra tại nhà ông. Ông biết quá rõ. Quanh co chỉ vô ích!
– Không, tôi không biết - Hắn đáp, cố dằn giọng – Tôi chưa hề về nhà!
– Sao kia?
– Xin ông đừng gõ gõ như thế nữa. Ông muốn gì ở tôi nào?
– Tôi muốn biết:
sau khi ra tù ông ở đâu? Ông về tới nhà vào lúc nào? Tôi thôi không gõ gõ nữa và ông hãy nhớ, mọi lời khai của ông chúng tôi đều có thể xác minh!
– Vâng, các ông cứ tự nhiên - hắn nói – Tôi không có gì phải giấu giếm các ông. Tôi không muốn trở lại nhà tù, đủ quá rồi! Tôi cũng chẳng làm gì để các ông có thể bắt tôi trở lại nhà đã của các ông. Vâng, tôi chỉ trêu tức một mụ đàn bà không quen biết, bảo cái giống đàn bà đứa nào cũng thế cả, chẳng ra gì. Tôi say rượu, xúc phạm tới hai ông cảnh sát, chửi bới họ. Tôi thành thật xin các ông tha lỗi!
Hắn đứng dậy:
– Xin các ông hiểu cho:
Tôi đã ngồi tù ba năm rồi, đã phải mặc áo tù, tôi không muốn mặc nữa. Tôi bị chập mạch trong thoáng lát và xúc phạm đến hai ông, xin hai ông tha lỗi cho tôi.
Vôkơ đưa hai tay về phía hai người cảnh sát giao thông. Họ ấn hắn ngồi xuống ghế.
– Ông ngồi im và hãy trả lời các câu hỏi của tôi! – Tôi nói dằn giọng.
– Thưa ông quan thanh tra, ông muốn biết gì ạ? - Hắn hỏi.
Nghe hắn hỏi, tôi đã thấy nóng gáy. Cũng có thể chiến thuật hỏi cung của tôi đã sai lầm. Lẽ ra tôi nên đợi. Tôi cố giữ bình tĩnh, đừng để đối phương biết là mình bị bối rối.
– Ông nghe đây! Ở nước ta không có quan thanh tra! – Tôi nói – Bây giờ hãy trả lời:
Hôm qua ông về tới thành phố này lúc nào?
– Rất khuya! - Hắn đáp – À, bây giờ tôi mới nghĩ ra là lúc đó còn quá sớm.
Lẽ ra hôm nay tôi mới về. Hoặc tốt hơn cả là tôi không nên về!
– Lúc đó mấy giờ?
– Tôi không biết - Hắn đáp – Tôi không nhìn đồng hồ. Khi về tới thành phố này, tôi đã ngà ngà say. Ba năm ròng sống chay tịnh, tôi không thể chịu nổi. Vì vậy, được thả ra buổi sáng, tôi bổ ngay vào thành phố. Ở đó phố xá có rất nhiều cửa hiệu. Cái gì đối với tôi cũng mới. Tôi có cảm giác như mình lạc loài vào một xứ sở khác. Cái gì cũng lạ. Tôi vào một quán rượu. Khát nước quá. Mấy năm rồi không biết đến bia bọt là gì.
Nói đến đây hắn ngừng lại và liếm mép:
– Tôi chết dí luôn trong tiệm rượu. Rồi ăn trưa. Trời đất, chưa bao giờ toi lại ăn thấy ngon miệng như thế, ăn xong lại làm vài ly rượu. Đằng nào cũng còn sớm. Đăng nào mình cũng được về nhà, tôi nghĩ.
Vôkơ vừa kể vừa suy nghĩ. Cũng có thể hắn đang cố nhớ lại hoặc tìm cách sắp xếp cho câu chuyện đấng tin và lôgích. Rồi hắn tiếp:
– Khi tàu về tới thành phố này, lúc đó trời mới tối. Tôi xuống ga. Tôi đi ngay vào tiệm ăn nhà ga, chủ ý muốn tìm lại một người bạn làm bồi bàn. Chúng tôi quen biết nhau khi tôi còn làm nhân viên trong khách sạn. Tôi gặp may. Chúng tôi đã cạn chén với nhau rồi sau đó kéo nhau tới quán “Góc phố vàng”. Các ông không tin có thể đến kiểm tra. Tôi ở đó tới lúc quán đóng cửa. Và đương nhiên là tôi đã say rượu.
Như thể khai xong tất cả mọi chuyện. Vôkơ nhắm mắt lại. Trông hắn như người ngủ trên ghế.
– Sau đó ông làm gì? – Tôi hỏi, cố bình tĩnh, giọng có vẻ cảm thông như một cha cố đang nghe lời thú tội của con chiên.
Hắn mở mắt:
– Sau đó tôi làm gì ấy à? Tôi chả làm gì hết.
– Thế ông không nghĩ đến vợ của ông hay sao? Ông không về với chị ấy sao?
Vôkơ thở nặng nhọc.
– Có. Tôi có nghĩ ... - Hắn nói như phải nuốt từng chữ, từng chữ một – Nhưng tôi không muốn về với vợ trong lúc mình say, cô ấy sẽ mè nheo, nhấm nhẳng. Đằng nào thì quan hệ giữa chúng tôi cũng không tốt đẹp gì. Khi tôi ở tù, cô ấy đã định ly dị. Nếu tôi về lúc đêm khuya, lại say bí tỉ, chắc cô ấy có thêm cái cớ đòi ly hôn. Chắc các ông hiểu tôi. Nghĩa là, tôi đã ngủ trên một chiếc ghế ngoài trời. Tỉnh dậy, tôi rét cóng, vội vào ga để sưởi. Chẳng may xảy ra chuyện không hay với hai quý ông đây. Tôi đã nổi khùng, chửi bậy. Xin thành thật mong các ông thứ lỗi! Bây giờ tôi có thể đi được chứ?
– Ông định đi đâu mới được chứ? – Tôi hỏi.
Vôkơ ngạc nhiên, không trả lời, Gônnơ đang đứng quay lưng lại cửa sổ và theo dõi Vôkơ, bỗng dưng anh đến mở vali đồ nghề của mình ra, rồi nói với Vôkơ, giọng thân mật hài hước:
– Nào quý ông, nếu tôi được phép, mời quý ông đưa tay phải cho tôi!
– Để làm gì? – Vôkơ hỏi lại, giọng có vẻ lúng túng – Khi vào tù, người ta đã lấy dấu tay của tôi rồi.
– Đấy là chuyện của ba năm về trước – Gônnơ đáp – Còn bây giờ, ông có những ngón tay thon thả như thế kia, không lưu dấu ấn lại cũng tiếc cho hậu thế.
Nào, xin mời ông, không đau đâu! Thế, xong rồi. Cám ơn.
Gônnơ đặt kết quả lên bàn trước mặt tôi. Cạnh đó là những dấu tay lấy ở nhà nạn nhân:
– Thế nào, anh bạn, nhìn thấy chưa? Một bức tranh tuyệt đẹp.
– Đúng, đúng, tuyệt đẹp – Tôi đáp.
Vôkơ xê người trên ghế như thể bị kiến đốt.
Hắn có cớ để nhấp nhỏm:
Dấu tay trên van xả khí hoàn toàn khớp với dấu tay của hắn!
– Ông có chìa khóa riêng vào phòng phải không? – Tôi hỏi.
Hắn gật đầu rồi thò tay vào túi lấy ra chùm chìa khóa đặt lên bàn. Tấm mica móc theo chùm chìa khóa khắc cái tên Vôkơ.
– Bây giờ ông kết thúc ở kịch được rồi đấy! – Tôi nói to, giọng hà khắc - Đủ lắm rồi! Ông đã để lại dấu tay trên chiếc van xả khí. Bằng chứng đó! Và nếu tôi có nói vợ ông chết, điều đó ông đã biết từ lâu. Đối với ông, đấy không phải là điều đáng ngạc nhiên. Nào, hãy khai thật đi. Nói dối càng vô ích!
– Trời ơi! - Hắn kêu lên - Thế là tôi vào tròng! - Hắn cúi đầu.
– Bắt đầu đi! – Tôi ra lệnh.
– Tôi khát nước - Giọng hắn khản đặc – Xin các ông cho tôi một tách cà phê!
– Đây không phải quán ăn! – Gônnơ quát.
– Được – Tôi nói với Gônnơ – Anh cứ cho hắn uống. Có lẽ chúng ta cũng cần làm một ngụm.
Tôi mở tủ tìm lọ cà phê bột trao cho anh. Ra đến cửa, Gônnơ bỗng quay lại hỏi hai người công an đi cùng.
– Cả hai anh nữa chứ?
Họ gật đầu.
– Tôi đã biết trước sự thể sẽ như thế - Vôkơ nói - Trời ơi, tôi biết mà. Không ai tin tôi cả. Tôi về nhà và vội vàng bỏ đi. Nhưng, thế đấy, bây giờ trăm sự tôi phải chịu!
Vôkơ lấy hai tay úp lên mặt và đột ngột nức nở. Tôi để yên cho hắn khóc.
Gônnơ mang cà phê vào phòng, mùi thơm lừng. Chúng tôi uống. Ngon tuyệt, Vôkơ lấy tay áo lau nước mắt, rồi hắn uống như một kẻ chết khát. Hắn nhìn tôi bằng đôi mắt đỏ hoe.
– Lẽ ra vợ tôi vẫn còn sống – hắn than vãn - nếu tôi không bị tù. Biết bao kẻ chỉ phải chịu án treo. Còn tôi, ba năm tù giam! Thật khốn khổ. Ba năm phải xa vợ. Mà tôi yêu cô ấy. Vâng, tôi yêu. Vì cô ấy , mà tôi đã nhúng tay vào chuyện này, chuyện nọ, chỉ cốt để có tiền mà chiều chuộng, cung phụng cho cô ấy. Vì cô ấy mà tôi đã ngồi tù. Cô ấy trả ơn trả nghĩa tôi thế đấy! Vừa mới khuất mặt chồng, cô ấy đã giăng dện với thằng lợn thối tha đó. Thậm chí cô ấy còn đòi ly dị. Vì sao chứ? Chả nhẽ vì tôi hay cáu giận mà cô ấy muốn bỏ tôi? Ai chả có cái xấu mang trong mình. Không, tôi không muốn ly dị. Tôi vẫn yêu cô ấy. Nhưng nếu tôi ra tù, tôi sẽ cho thằng chó ấy biết tay. Cả cô ấy sẽ biết tay! Tôi đã dọa như thế. Tôi đã viết thư báo tin là ngày hôm nay tôi được tha. Tôi báo tin chậm đi một ngày, vì tôi nghĩ, nếu họ biết ngày hôm sau tôi về, họ sẽ cố sống với nhau đêm cuối cùng. Các ông thấy đấy. Họ đã làm như thế. Nhưng tôi đâu có ngờ là họ đã kết thúc cuộc tình bằng cách đó ...
Vôkơ đưa tay lên vuốt trán. Những ngón tay run run.
– Sau khi quán “Góc phố vàng” đóng cửa, tôi chia tay bạn tôi, nhưng không ra công viên ngủ trên ghế như đã nói với các ông, mà đi thẳng về nhà. Lúc đó đã quá nửa đêm. Quả thực lúc đó tôi say rượu. Tôi mở cửa vào tòa nhà, đứng lưỡng lự trước thang máy. Không, tôi nghĩ, tôi sẽ không lên phòng bằng thang máy, tôi sẽ đi bộ lên từ bậc cầu thang. Bí mật. Bất ngờ. Vừa đi tôi vừa nghĩ cách xử lý nếu bắt gặp quả tang hai người ... tôi không nghi ngờ gì. Chắc chắn đêm nay là đêm cuối cùng. Họ đang hoan lạc với nhau trong căn hộ của tôi, trên tài sản của tôi. Phải rồi, phải trả thù! Phải xử thế như vị thần báo thù của Hy Lạp:
Tôi sẽ bất chợt lao vào phòng. Tôi sẽ đấm vào mõm thằng chó lợn ấy, tống hắn ra khỏi nhà. Và cô ấy, bên má trái, bên mà phải, mỗi bên một cái tát nẩy lửa! Nếu cô ấy ở nhà có một mình, mọi chuyện chắc sẽ lại êm đẹp. Tôi vẫn mong như thế. Vậy là, tôi lần lên cầu thang, khẽ mở cửa vào căn hộ. Nhưng sao lại có mùi? Trời, khí đốt, tôi nghĩ, chắc cô ấy vội đi đâu nên đã không khóa van bếp ga. Đèn vẫn để sáng. Tôi nhìn thấy tất cả các van đều mở hết. Thật khó chịu.
Tôi nghĩ, nếu tôi không ra mở cửa sổ, tôi sẽ bị chết ngạt. Tôi vội khóa các van, chạy vào phòng khách, mở toang cửa sổ, nhoài người ra. Một lúc sau tôi mới hoàn sức, tỉnh táo trở lại. Mãi tới lúc này tôi mới nhìn vào đi văng:
“Lẽ ra, em không nên làm cái trò tồi tệ này!” Tôi nói với vợ tôi. Nhưng cô ấy không nghe thấy gì nữa. Tôi cầm tay cô ấy đặt lên bụng. Còn thằng kia, tôi giật hắn khỏi đi văng, kéo xuống sàn nhà, đá đít hắn một cú đá trời giáng, mặc dù hắn chả còn biết gì nữa. Làm sao mà vợ tôi có thể yêu thằng lợn này cơ chứ? Không thể ngờ vợ tôi lại dám chết cùng hắn.
Vôkơ im bặt. Như chìm vào đáy vực, mắt hắn nhìn trân trân.
– Tất nhiên rồi, chị ấy không dám chết – Gônnơ nói chen vào. Anh đang đứng giữa phòng, tay đút trong túi quần – Nhưng ông đừng nghĩ rằng chúng tôi là những người nhẹ dạ và cả tin. Khi chúng tôi đến nơi, các van khí vẫn mở!
Ông giải thích chuyện đó như thế nào, ông Vôkơ?
– Tôi mở đấy! Hắn đáp – Tôi không biết là mình đã làm gì.
Với bộ mặt méo xệch như van nài, Vôkơ nhìn vào tôi, khẩn khoản:
– Xin ông hãy tin tôi! Tất nhiên mọi bằng chứng đều chống lại tôi, nhưng tôi không, không ... Phải, tôi vừa ra tù, tôi biết là vợ tôi dan díu với kẻ khác và dòi ly dị, tôi đã đe dọa trừng phạt cô ấy, tôi đã say rượu, đã lần mò về nhà, đã trông thấy hai người nằm bên nhau, và để trả thù; tôi đã mở van xả khí ga thủ tiêu họ rồi lẳng lặng bỏ đi ... Chắc các ông suy nghĩ như vậy ...
Tôi bỗng nhớ tới Hubec đang canh giữ hiện trường và giả thuyết của anh. lẽ ra Hubec phải làm công an điều tra mới đúng. Một giả thuyết vừa được Vôkơ chứng minh ...
– Tôi thề với các ông là họ đã tự tử! – Vôkơ nói tiếp – Còn tôi, lúc đó quá khiếp đảm, sợ người ta có thể bắt gặp mình đang ở trong phòng có người chết và tình nghi tôi giết họ, tôi đã khép cửa lại, rồi bỏ đi. Tôi muốn đi thật nhanh, muốn trốn khỏi nơi đó.
– Nhưng trong lúc say rượu, làm sao ông có thể biết rằng, đối với họ không còn phương cứu chữa? – Tôi nói – Hơn nữa, ông mở khóa các van, ông gây mối hiểm họa cho tất cả mọi người trong khu nhà. Có thể sẽ nổ sập nhà. Ông sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động này!
– Nếu tôi không về nhà, đằng nào các van vẫn không khóa kia mà! - Hắn tìm cách bào chữa – Nhưng các ông hiểu cho! Bị sốc! Lẽ ra tôi phải báo cảnh sát.
Nhưng quả thực tôi không muốn dính dáng đến cảnh sát chút nào. Ai tin tôi, một kẻ vừa ra tù kia chứ? Sau đó, khi tới nhà ga, vừa nhìn thấy những bộ quân phục và lại thấy một mụ đàn bà ẽo ợt đi tới, thế là tôi điên tiết lên. Lẽ ra tôi phải bình tĩnh. Chẳng hiểu sao tôi lại làm như thế.
Hắn đập tay lên trán.
– Cả lũ bọn đĩ ấy phải giết hết đi! Hắn đã gào lên như thế! – Chrixtian nói chen vào.
– Trời ơi, tôi bị choáng mà! – Vôkơ đáp – Tôi không còn khả năng suy nghĩ nữa!
– Xem đồng hồ xong, tôi nói vào băng ghi âm ngày, tháng, giờ, và những người có mặt trong cuộc hỏi cung Vôkơ, rồi tắt máy. Sau đó tôi mời Gônnơ sang phòng bên trao đổi.
– Ý anh thế nào? – Tôi hỏi - Những gì hắn vừa nói nghe ra cũng có vẻ có lý, nhưng cũng đầy mâu thuẫn.
– Cũng có thể hắn đã về nhà mình hai lần – Gônnơ nói - Lần đầu về, hắn trả thù, xả ga kết liễu hai người kia trong lúc họ đang ngủ. Lần sau về xem họ có chết không, hoặc cũng có thể hắn hối hận, về lại nhà định khóa các van lại, nhưng họ đã chết rồi.
– Nhưng nếu hai người kia đã tự tử thì sao? – Tôi hỏi lại.
Gônnơ nhún vai:
– Các đồng chí của chúng ta sắp đến. Họ sẽ lo mọi việc. Họ sẽ bắt Vôkơ phải khai hết sự thực. Chúng ta đã làm hết sức mình.
– Anh đã báo tin cho cảnh sát khu vực biết chưa? – Tôi hỏi.
– Rồi. Anh chàng sẽ tới gặp người vợ của Đôisơ và chia buồn! Một nhiệm vụ chẳng lý thú chút nào!
Không biết chị ta có nghĩ rằng chồng mình phản bội mình hay không? Có biết Đôisơ có bồ bịch hay không? Nếu biết thế, có lẽ chị ấy khổ tâm lắm. Một người phụ nữ đa cảm rất dễ bị xúc động trước những chuyện như thế, thậm chí có thể xĩu đi hoặc vào bếp vặn van ga ...
– Bây giờ tôi tới đó – Tôi nói với Gônnơ – Có thể gặp chị ta tôi sẽ biết thêm đôi điều về người chồng ngoại tình.
– Được đấy, anh đến mà an ủi, vỗ về chị ta nhé! Nhưng đừng quên công việc của chúng ta!
Tôi giở sổ tay tìm địa chỉ rồi lên xe tuần tra. Ngồi bên cạnh người lái xe đang ngáp ngắn ngáp dài, tôi kể lại vắn tắt cho anh tài xế biết sự việc.
– Đến nhà Đôisơ hả? - Người lái xe hỏi tôi – Đôisơ có cửa hàng điện phải không?
Tôi không biết điều đó. Qua câu chuyện với lái xe tôi biết rằng Đôisơ có một cửa hàng bán đồ điện ở trung tâm thành phố.
Nhà Đôisơ ở khu vực ngoại ô, một nơi rất yên tĩnh. Ở đây phần lớn các nhà xây một tầng. Nhà nào cũng có vườn trước, vườn sau, có cây cảnh và những thảm cỏ được chăm chút cẩn thận. Hầu như nhà nào cũng có ga ra ô tô và kiến trúc như một biệt thự nghỉ mát. Xe chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà nguy nga có cổng sắt rất sang trọng. Một con đường trải đá xanh dẫn qua khu vườn trước khá rộng. Tường nhà và trụ nhà đều bằng loại đá xanh như thế. Và ở đây, khung cảnh rất tĩnh mịch của một biệt thự sang trọng, người ta chỉ nghe thấy tiếng chim hót lảnh lót. Ở đây người ta có thể ngủ rất yên lành, không bị tiếng ồn của xe cộ làm ảnh hưởng, có thể làm việc thật thoải mái, dễ chịu và nghỉ ngơi. Tôi bất giác thở dài và ganh tỵ với cuộc sống của những người ở đây. Chà, muốn có một cơ ngơi như thế, một công an hình sự như tôi ít nhất phải sống được một trăm năm mươi năm, phải lao động cật lực và tiết kiệm từng hào chỉ.
Tất cả chỉ là một ảo tưởng.
Đứng trước cửa sắt, tôi phân vân không biết có nên bâm chuông không. Tôi bám vào thành cổng, co người lên rồi bật vào phía trong. Đến trước cửa vào ngôi nhà, tôi ngửi xem có mùi khí ga không. Làm gi có chuyện đó. Ai đang sống trong một ngôi nhà sang trọng như thế này, người đó không dễ gì từ giã nó. Tôi bấm chuông. Chắc chắn mình sẽ phải chờ đợi lâu, tôi đưa mắt nhìn khu vườn trước mặt. Nhưng đột ngột cánh cửa bị giật ra, và trước mắt tôi là một người đàn bà nhìn tôi vẻ khó chịu.
– Xin lỗi chị .... - Tôi lúng túng lên tiếng. Nhìn chị ta, tôi biết là đồng chí cảnh sát khu vực chưa tới đây. Chị ta không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn tôi trừng trừng.
Bị một người đàn bà chiếu tướng với một ánh mắt lạnh lùng như vậy, tôi cảm thấy rất khó chịu. Nếu chị ta cũng vẫn nhìn chồng mình như thế, chà, tôi hiểu, anh chàng Đôisơ chắc chắn cũng không vui thích gì, anh ta tìm ánh mắt dịu dàng ở nhà của Vôkơ. Trên gương mặt của người nữ chủ nhân, tôi nhìn thấy làn da vàng nhợt, trông như da của những người đang bị bệnh sỏi mật, chiếc mũi nhọn hết lên và kênh kiệu. Chị ta mặc chiếc áo len màu xám. Chị ta hất cằm lên, khiến cái cổ trông càng dài và gầy guộc. Ấn tượng chung về người đàn bà này:
một người xương xẩu và kênh kiệu. Cũng có thể chị ta cố tình đóng vai đó, cố chui vào một lớp vỏ để che dấu nhũng yếu kém về dung nhan. Hơn nữa, những người đàn bà có tiền của vẫn hay có điệu bộ như vậy. Hiển nhiên là người đàn bà này biết chồng mình ngoại tình ... Mắt chị ta có viền đỏ. Có lẽ đã thức thâu đêm để chờ chồng. Tôi nghĩ:
hai con người này sống cạnh nhau không hạnh phúc, thậm chí, họ bị ràng buộc với nhau bởi ngôi nhà, bởi khoảnh vườn và tiện nghi. Của cải và sự giàu sang không làm họ sung sướng. Những con người sung sướng không thể có ánh mắt nhìn lạnh băng như thế.
– Chị Đôisơ ... - Tôi lên tiếng, vì không thể chịu đựng mãi cái nhìn chòng chọc của người đàn bà đứng bên cửa.
– Ông muốn gì? - Chị ta hỏi, giọng đanh lại, y như hỏi một kẻ ăn mày.
– Tôi đến đây vì chồng chị.
– Anh ấy không có nhà!
Chị ta đứng thẳng người, mắt chăm chăm nhìn tôi. Tôi bỗng nghĩ đến một cây thông trơ lá trong mùa đông. Con người này chắc chắn vẫn sẽ đứng ngay người như vậy khi nghe tin chồng chết. Sẽ không có tiếng khóc nức nở, không có lời ai oán với số phận. Tôi cản thấy yên tâm.
– Chị có biết anh ấy ở đâu không? – Tôi hỏi.
– Việc đó không liên quan đến ông! - Chị ta đáp và nhìn tôi trân trân.
Tôi giơ thẻ:
– Tôi là công an hình sự!
– Thế à? - Chị ta hỏi lại – Anh ta phạm tội gì?
Chà, một người đàn bà kiêu kỳ; không hề chịu lay chuyển, tôi nghĩ. Thôi được, cứ để cho chị ta kênh kiệu.
– Chị có quen bà Vôkơ không? – Tôi hỏi.
– Không! - Chị ta đáp rất nhanh và ngắn gọn. Theo tôi hơi nhanh và hơi vội.
Những kẻ nhìn người khác bằng nữa con mắt cũng hay đáp như thế. Khô khốc, ngắn, và đanh lại.
– Chồng chị suốt đêm không về nhà, chị không ngạc nhiên à? – Tôi hỏi tiếp.
– Không! – Tôi đã quen!
– Chị không muốn biết chồng chị ở đâu và làm gì à?
– Vậy theo ông tôi phải làm gì? - Giọng chị ta lúc này có vẻ khiêu khích - Chả lẽ tôi phải chạy ra cảnh sát và nhờ họ tìm chồng cho tôi ư? Tôi còn biết bao việc phải làm. Anh ta không phải là con nít. Anh ta tự biết đường về nhà. Tôi đã nhiều đêm mất ngủ vì anh ta, như vậy đủ quá rồi. Nhưng đấy là chuyện riêng của tôi, không can hệ đến ai. Tôi nói như vậy, ông hiểu chứ?
– Tôi hiểu.
– Vậy ông đến đây để làm gì?
– Anh ấy không về nữa! – Tôi đáp – Anh ấy đã chết!
Một con mèo đen có đốm trắng ở trán chạy qua thảm cỏ, nó lướt qua chỗ tôi rồi dụi dụi đầu vào chân chủ nhà, kêu meo meo. Một thoáng im lặng.
– Thế à? Nghĩa là anh ấy chết phải không? - Giọng chị ta lúc này không còn đanh như trước. Chị ta cuối xuống ôm con mèo, áp vào ngực mình, vuốt ve nó.
Một lát sau chị ta quay sang nhìn tôi:
– Anh ta chết vì tai nạn giao thông à? Đâm xe phải không? Chắc say rượu.
Tôi lắc đầu:
– Chết vì bị đầu độc bằng khí đốt!
– Tại nhà một người tình? - Chị ta hỏi.
– Vâng, đúng như thế - Tôi đáp - Cả chị kia cũng chết!
– Chuyện đó xảy ra như thế nào? Sao lại chết cả hai? Chị ta hỏi y như một thẩm phán, giọng không hề xúc động, tỉnh khô như người đứng ngoài cuộc.
– Hiện tại chúng tôi đang điều tra!
Chị ta hơi ngả đầu ra phía sau:
– Ông đừng chờ đợi là tôi sẽ mất mấy giọt nước mắt vì anh ta! Không, không bao giờ, ngay cả khi anh ta chết đi! Ở tôi, nước mắt đã cạn rồi!
Và để nhấn mạnh cái ý này, mặt chị ta trở nên lạnh băng. Tôi không cần phải an ủi. Tôi cũng nói, giọng khô khốc:
– Không, tôi không đợi chị khóc. Nước mắt là của chị. Chị muốn dùng nó vào việc gì, đấy là quyền của chị.
Chị ta nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng không nói gì hết. Con người này chắn đã đau khổ nhiều, đã chai sạn vì hôn nhân.
– Có phải làm thủ tục gì không ông? - Chị ta hỏi.
– Hừm! – Tôi đáp rồi lặng im, cố ý kéo dài sự im lặng, sau đó nói dõng dạc – Tôi mời chị đi theo tôi. Chị phải xác nhận người chết là chồng mình!
Chị ta đặt con mèo xuống đất.
– Nhất thiết phải đến à? Có thể tránh được không? Chả lẽ anh ta không mang theo chúng minh thư?
– Chị phải đi thôi. Đó là quy định của luật pháp. Tôi nói.
– Nhưng tôi muốn cho mèo uống tí sữa!
– Vâng, tôi đợi. Chị cứ tự nhiên, chúng ta còn thời gian.
Chị ta không mời tôi vào nhà. Tôi ngồi xuống bậc gạch, chờ đợi. Một lát sau chị ta ra khỏi nhà, khoác một chiếc áo măngtô mỏng, tay xách túi và cắm một chiếc khóa vào ổ khóa.
– Có lẽ chị không nên nhốt mèo ở trong nhà. Có thể chị sẽ phải ở lại lâu lâu đấy, vì phải lập biên bản. Hai người chết cùng một lúc, công việc chắc phức tạp.
Người nữ chủ nhân ngôi nhà sang trọng ấy ném sang tôi một cái nhìn rất nhanh rồi vào nhà lấy âu sữa và ôm con mèo ra.
– Chà, chị có một ngôi nhà thật tuyệt vời! – Tôi nói.
Chị ta không nói gì. Trong lúc chị ta cúi xuống đắt con mèo và âu sữa xuống cầu thang, tôi nhanh chóng giúp chủ nhà khóa cửa lại. Lẽ ra phải tỏ lời cảm ơn, nhưng chị ta lại cằn nhằn:
– Khóa cửa nhà, đấy là việc của tôi, tôi không cần đến ông!
Nói xong, chị ta giật vội chùm chìa khóa khỏi tay tôi rồi kiểm tra lại ổ khóa, xem tôi khóa chắc chưa. Tất nhiên là tôi khóa rất chắc. Tôi mỉm cười.
– Chà, con mèo có đốm trắng ở đuôi, trông ngộ thật? – Tôi nói.
Chủ nhân không nói gì. Chúng tôi lên xe.
– Đến chỗ anh Hubec – Tôi nói với lái xe. Anh ta gật đầu. Khói thuốc lá từ miệng người lái xe phả ra phía sau, khiến người dàn bà ngồi cạnh tôi khó chịu nhăn mặt lại. Nhưng chị ta không nói gì. Một chuyến đi câm lặng.
Đến trước cửa nhà, tôi để chị ta đi lên trước bằng thang máy. Tôi lấy cớ người khó ở, đi thang máy rất khó chịu, hay buồn nôn. Chị ta nhếch mép cười.
Tôi không đợi cho thang máy khởi động. Cứ thế đi bộ lên cầu thang, tôi vừa đi vừa nhảy. Tới tầng năm, tôi nghe thấy tiếng rít của thang máy trên đầu mình, rồi tiếng mở cửa, tiếng chân người vội vã. Im lặng. Chắc chị ta đang đứng ở tầng sáu và đưa mắt tìm tôi. Tôi náu mình sau bức tường ở tầng dưới. Một lát sau, có lẽ đoán rằng tôi đã lên tới tầng bảy, chị ta đi qua hành lang để lên cầu thang.
Lúc này tôi lên theo, bước đi rất khẽ. Đến trước cửa ra vào căn hộ của nạn nhân, chị ta đứng lại do dự. Vừa lúc đó thấy tôi lên tới nơi.
– Thế nào, ông đi đường bình an chứ? - Chị ta hỏi. Giọng lúc này không đanh như trước nữa, nhưng đầy vẻ ngờ vực.
– Cảm ơn chị, tôi rất khỏe.
– Nhà đây phải không ông? - Chị ta hỏi.
– Ồ, chị còn hỏi kia à? Chị biết rõ quá rồi còn gì! Trong một ngôi nhà thiết kế rắc rối như thế này, người nào nhoáng một cái đã lên đúng địa điểm và đứng trước cửa phòng, người đó đã tới đây.
Mặt chị ta nhăn lại.
– Thế nào, chị mở cửa đi chứ hay để tôi bấm chuông? – Tôi nói nghiêm giọng.
Chị ta vẫn cố giữ vẻ kiêu kỳ, cố cứu vớt những gì còn có thể cứu được.
– Ông này hay nhỉ! Tôi lấy đâu ra chìa khóa mà ông nói vớ vẩn đến như thế!
Giọng chị ta rít lên.
Nhânh như chớp tôi giật lấy chiếc túi. Chị ta nhào vào, lấy tay cào cấu tôi như một con mèo dại. Tôi gạt ra.
– Bình tĩnh lại! – Tôi quát - Đừng có đóng kịch nữa!
– Ông là một thằng đểu. Ông đã đánh bẫy tôi! - Giọng chị ta run run, đầy căm giận.
Tôi đọc to tên người trên tấm mica móc theo chùm chìa khóa:
– Vôkơ!
Cái tên này tôi đã nhẩm đọc lên một lần. Lúc chị Đôisơ định khóa cửa, tôi đã để ý đến chùm chìa khóa. Và sự giúp đỡ của tôi không hoàn toàn vô tư.
– Chị Đôisơ! Chị đã để lại các dấu tay trên van xả khí trong nhà này!
Tôi nói dằn giọng, mắt nhìn chằm chằm vào đối phương. Lúc đó tôi chưa biết đích xác có phải dấu tay cạnh dấu tay của Vôkơ là của chị ta hay không, vì chúng tôi chưa có mẫu đối chiếu. Nhưng tôi tin là như vậy.
Chị ta lấy hai tay che mặt, lúc này trông chị ta mới thật thảm hại. Tôi cắm chìa khóa vào ổ khóa và mở cửa. Vẫn một chìa khóa như chiếc chìa khóa treo ở hành lang, như chìa khóa Vôkơ mang theo người. Ở ta, khi nhận các căn hộ mới xây dựng, Sở nhà đất thường trao cho chủ nhà ba cặp chìa khóa cửa ra vào. Và người vợ của Đôisơ đã có nó trong tay.
– Chị vào đi! – Tôi nói và đẩy nhẹ chị ta bước vào phòng.
Hubec bật dậy khỏi ghế bành.
– Có chuyện gì mới không? – Anh ta hỏi.
Tôi gật đầu, dẫn chị ta tới bên ghế và ấn nhẹ cho chị ta ngồi xuống. Lúc này mặt chị ta trắng bệch. Tôi im lặng một lác rồi lên giọng:
– Tại sao chị lại làm như thế? – Tôi hỏi.
Người đàn bà ngồi trên ghế im lặng. Một thoáng sau, chị ta ngẩng đầu lên, đảo mắt nhìn chiếc ghế đi văng rồi chiếc bàn có những chai sâmbanh đã uống cạn.
– Đó là sự trừng phạt! - Chị ta nói - Lẽ ra phải trừng phạt từ lâu! Hắn đã có vợ. Ả kia đã có chồng! Vậy mà chúng nó vô liêm sỉ đến như thế. Khốn nạn đến như thế! Một con dê đực, một con đĩ! Thế mà tôi nói thì hắn cười nhạo tôi.
Nhưng sau lưng tôi, chúng nó làm cái chuyện khốn nạn đến như thế. Nhiều khách hàng đã biết chuyện đã nhìn tôi với con mắt mai mỉa, nhạo báng. Hắn đã làm nhục tôi! Thời trẻ tôi vui tươi là thế, còn bây giờ tôi sống chẳng ra người!
Mắt chị ta như bốc lửa. Hubec mở ta mắt ngạc nhiên. Sau này, về tới cơ quan của chúng tôi, chị ta đã thú nhận tất cả.
Người đàn bà này vôn rất yêu chồng, nhưng tình yêu đã chuyển thành sự căm ghét. Và lẽ đời như thế đấy:
càng yêu mãnh liệt, càng ghét cay ghét đắng con người phản bội mình. Đôisơ là một kẻ như thế. Hắn luôn săn đuổi phụ nữ để tìm thú vui thân xác. Hễ đi sửa chữa một đường dây điện, một chiếc đèn hay một đồ điện nào đó cho những người phụ nữ sống độc thân, thế nào hắn cũng tìm mọi cách để ve vãn, chinh phục họ. Một khách hàng đã rỉ tai nói cho người vợ của Đôisơ biết mọi chuyện. Và chị ta đã tìm thấy chìa khóa nhà Vôkơ trong túi áo của chồng, đã lần theo và cuối cùng, khi thấy hai người nằm ngủ say trên đi văng chị ta đã trả thù theo cái cách của mình. Chị ta đã giết hai mạng người.
Khi giải đi, chị ta luôn lẩm bẩm:
trả thù, trả thù. Và chị ta chỉ băn khoăn về con mèo của mình:
– Tội nghiệp nó quá! - Chị ta nói, và hai giọt nước mắt lăn trên má của con người phạm tội ác khủng khiếp.